Trong những năm qua, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã phục dựng thành công các trích đoạn Tuồng cổ: Tế sống, Tạ Ngọc Lân lên chùa, Ôn Đình chém Tá, Kim Lân biệt mẹ, Nguyệt Cô hóa cáo, Quan Công cử binh, Hải Đường – Thạch Trúc (Trong vở Quần Phương Tập Khánh)…

Vấn đề bảo tồn sân khấu Tuồng ở Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế
Hải Lý vai Hồ Nguyệt Cô

Phục dựng nguyên vẹn vở Tuồng: Ngọc lửa Hồng Sơn, Sơn Hậu; các vở Tuồng lịch sử như: Chí sĩ Trần Cao Vân, Máu lửa ngập Thiên Trường, Nỗi niềm đấng quân vương…; các vở Tuồng hài: Trương Ngáo đúc chuông, Nghiêu – Sò – Ốc – Hến… Ngoài ra, các công trình khoa học nghiên cứu về nghệ thuật Tuồng như: mặt nạ Tuồng Huế, vũ đạo Tuồng Huế, và hiện nay những người làm công tác nghiên cứu khoa học cũng đang tiếp tục nghiên cứu về phục trang Tuồng Huế… Tuy nhiên, để nghệ thuật Tuồng cung đình trở lại đỉnh cao, đòi hỏi các nhà nghiên cứu và các nghệ sĩ trẻ hôm nay phải đầu tư công sức, tìm lại những tư liệu ít ỏi mà cha ông chúng ta để lại. 

1. Những giá trị nghệ thuật của Tuồng cung đình Huế

Tuồng (Hát Bội) là một loại hình nghệ thuật sân khấu độc đáo, tuy ra đời ở Đàng Ngoài, nhưng Tuồng lại tìm thấy đất hứa ở Đàng Trong. Theo các nhà nghiên cứu về Tuồng thì nghệ thuật Tuồng bắt đầu manh nha hình thành từ thời Trần với ba điều kiện đã chín muồi. Trước hết là nghệ thuật ca, múa, nhạc và diễn trò phát triển; hai là có sự tác động của hí khúc Trung Quốc qua hiện tượng Lý Nguyên Cát; ba là sự xuất hiện của bộ phận văn chương chữ Nôm. Tuồng cứ thế hình thành nhưng có phần chậm chạp ở các thế kỷ XV – XVI. Từ thế kỷ XVII, Tuồng bước vào thời kỳ phát triển để dần hoàn thiện. Và những khía cạnh quan trọng nhất được đề cập trong Tuồng, đặc biệt là:

– Đối tượng phản ánh.

– Nhân vật trung tâm.

– Nghệ thuật xây dựng hình tượng.

– Ngôn ngữ văn học.

Trong kho tàng tư liệu sân khấu hiện còn ghi lại tới 500 bản Tuồng, có những vở dài gần 100 hồi, diễn 100 đêm như vở “Vạn Bửu trình tường”, “Quần Phương hiến thụy”… do các tác giả Đào Tấn, Ngô Quý Đồng, Trương Khắc Dụng sáng tác. Cũng vì sự kiểm duyệt khắc nghiệt của triều đình phong kiến, nên các tác giả phải mượn chuyện của Trung Quốc để thể hiện gián tiếp hiện thực đen tối trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Ngoài ra, cũng có những vở Tuồng trực tiếp phản ánh những mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ các tập đoàn phong kiến phản động như vở “Sơn Hậu”, “Tam nữ đồ vương”. Đây là những giá trị nghệ thuật mang tính lịch sử, được nhiều thế hệ yêu thích, dù có đôi lúc tưởng chừng như những giá trị của loại hình nghệ thuật này bị quên lãng dưới lớp bụi thời gian.

Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, Tuồng cung đình là nơi có khả năng chứa đựng toàn bộ thế giới tinh thần của con người. Bởi ngoài là tấm gương phản chiếu cuộc đời, nó còn là một phương tiện để con người phản ánh đời sống của xã hội đương thời. Do vậy, sân khấu Tuồng cung đình là nơi có ca, múa, nhạc, họa; có thơ, văn, kịch, kiến trúc; có triết học, mỹ học, tâm lý học, xã hội học; có chính trị, đạo đức, tôn giáo, lịch sử, dân tộc; có niềm vui, nỗi buồn; có thương, yêu, oán, giận, suy tư; có cái cười, cái khóc, cái sống, cái chết, cái hy vọng; có hiện tại, tương lai… Nó là vũ trụ, là toàn bộ thế giới của con người.

Trong nghệ thuật Tuồng cung đình Huế, nhân vật được sắp xếp theo mô hình mà nhà nghề gọi là: Đào, Kép, Lão, Vua, Quan, Tướng Soái… Tất cả các nhân vật đó đều căn cứ vào tính cách do vở Tuồng quy định mà xếp ra loại trung, nịnh hoặc thiện, ác… Dù tác giả không mách bảo với người xem, nhưng khi thưởng thức những giá trị của nghệ thuật Tuồng được biểu diễn trên sân khấu, người xem chỉ cần căn cứ vào cách tô vẽ mặt và màu sắc của các bộ phận trên khuôn mặt diễn viên mà hiểu được tính cách của nhân vật. Đó là thứ tín hiệu mang một ngữ nghĩa rõ ràng.

Ngôn ngữ văn học của Tuồng và đặc biệt là Tuồng cung đình là rất công phu, điêu luyện và tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ. Lời thơ dùng cho các điệu Bạch hoặc Xướng trong Tuồng cung đình phải theo thể 4 câu 7 chữ và bằng chữ Hán.

Lời văn của Tuồng cung đình phải nghiêm chỉnh, trang trọng, tránh tất cả những từ ngữ tục tĩu, phạm húy. Ngôn ngữ của Tuồng cung đình là ngôn ngữ do triều đình chế định. Triều đình nhà Nguyễn đã lập ra ban Hiệu thư để lo việc biên soạn Tuồng.

Nghệ thuật Tuồng cung đình không đi theo con đường tả thật mà tả thần. Tả thần có nghĩa là không đi vào chi tiết cụ thể, tỉ mỉ của đối tượng, mà tóm thu đối tượng, miêu tả bằng một nét khái quát nhất, làm sao gạn lọc lấy những điểm cốt lõi cần nói, chứ không đi vào các chi tiết phụ thuộc. Tuân theo nguyên lý đó nên khi diễn tả người đi ngựa, diễn viên chỉ cầm chiếc roi ngựa, khi diễn tả buổi yến tiệc, người diễn viên chỉ cầm chén uống rượu là đủ. Bởi vậy khi xem một vở Tuồng, thấy diễn viên cầm các vật: cái chén, cây roi, mái chèo, cành cây… khán giả biết ngay anh ta đang làm gì, trong hoàn cảnh nào. Đạo cụ mà nghệ thuật Tuồng đưa lên sân khấu đều là những vật thật được sử dụng để gợi ý điều mà khán giả phải tự tưởng tượng lấy, hay hình dung những việc làm cụ thể.

Nội dung của Tuồng cung đình là những chuyện xảy trong đời sống cung đình, dù có những lớp xảy ra ở biên ải, ở gia đình các vị quan lại, thậm chí ở một quán ven đường, ở núi rừng hay sông suối cũng đều bắt nguồn từ những chuyện cung đình – những chuyện “quốc gia đại sự”.

Mở đầu là triều đình tương đối ổn định, trăm họ yên hòa, nhưng vua đã già yếu và một viên đại thần có thế lực nhất là Thái sư đang có âm mưu phản loạn. Tiếp theo, vua băng (chết) thế là tên Thái sư kia thực hiện việc chiếm đoạt ngai vàng. Thông thường tên này lấy cớ Thái Tử còn nhỏ chưa đủ tư cách làm vua hoặc lấy cớ vua không có con trai. Hắn có thể dùng phe cánh làm áp lực để hắn lên ngôi. Thế là xung đột kịch mở đầu gay gắt. Thái sư chiếm đoạt ngai vua – nay là vua Ngụy, sắp đặt lại bộ máy triều đình, cân nhắc phe cánh của hắn vào những địa vị chính yếu. Hắn giết hay bỏ ngục những ai có tư tưởng chống đối.

Trước cuộc biến loạn lớn của triều đình, hàng ngũ những cận thần trung thành với dòng họ vua cũ cùng nhau bí mật lập mưu cơ để phục nghiệp. Họ là những con người kiên cường, suốt cuộc chiến đấu đã hoàn toàn hy sinh tất cả những riêng tư, đem hết mình phục vụ cho lý tưởng xã hội, lý tưởng phục nghiệp. Cuối cùng, sau khi vượt qua bao gian khổ, phe chính nghĩa tiêu diệt được bọn ngụy triều.

Các vở Tuồng mang tính cung đình không có nhân vật chuyển biến. Ai tốt, ai xấu, ai trung nghĩa, ai gian tà… đều được biểu hiện ngay từ đầu và cứ thế mà phát triển lên. Không có ai lúc đầu trung chính sau biến thành gian tà hay ngược lại. Các nhân vật chính nghĩa trong Tuồng cung đình đều có một đời sống rất sóng gió và nội tâm thường biến động. Nhiều trường hợp tình cảm của họ phát triển đến tột cùng của xót đau, hờn giận, căm ghét… Và cũng từ đó hành động của họ phát triển mạnh thêm, quan điểm, tư tưởng của họ càng sáng tỏ.

2. Gian nan tìm lời giải trong việc bảo tồn nghệ thuật Tuồng

Dưới triều Nguyễn, Tuồng cung đình Huế đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật biểu diễn. Tuy nhiên, khi chế độ quân chủ cáo chung, môi trường diễn xướng của Tuồng cung đình Huế cũng đã mất dần và tản mát vào dân gian. Hiện nay, khi nhu cầu thưởng thức văn hóa thay đổi, loại hình nghệ thuật sân khấu mang tính cổ xưa này cũng đã không còn mang dấu ấn đậm nét trong nếp nghĩ của người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Tháng 7 năm 2000 tại Đại Nội – Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tổ chức một cuộc hội thảo mang tầm vóc quốc gia với chủ đề “Bảo tồn và phát huy giá trị Tuồng Cung đình Huế”. Trong hội thảo đã có nhiều giáo sư tiến sĩ, các nhà nghiên cứu, các nhân sĩ, trí thức, nghệ nhân, nghệ sĩ… trên toàn quốc đã có những bài tham luận sâu sắc về thực trạng và những giải pháp bảo tồn, phát huy nghệ thuật Tuồng cung đình Huế. Tuy vậy, những cố gắng đó vẫn chưa đem lại kết quả khả quan, những ý tưởng hay vẫn còn nằm trên sách vở, những vở Tuồng và các trích đoạn Tuồng cổ do Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế xây dựng cũng chỉ để phục vụ chính trị và tham gia hội thi, hội diễn chứ không thể biểu diễn doanh thu vì không có khán giả.

Tháng 4 năm 2006 theo chủ trương của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, sát nhập 2 đơn vị nghệ thuật: Đoàn Nghệ thuật Truyền thống Huế (do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý) và Nhà hát Truyền thống Cung đình Huế (do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế quản lý) để thành lập “Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế” (trực thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế). Do vậy, diễn viên Tuồng được quy tụ trở thành một lực lượng hùng hậu và đã phát huy tốt trong việc dàn dựng lại các vở diễn. Nhà hát cũng đã nỗ lực xây dựng nhiều vở Tuồng cổ và Tuồng lịch sử để tham gia các hội thi, hội diễn, cũng như dàn dựng một số trích để diễn viên trẻ diễn tham gia thi Tài năng trẻ sân khấu toàn quốc. Nhưng ngoài việc, một vài vở diễn đạt được thứ hạng cao, tập thể và nhiều nam nữ diễn viên đạt huy chương vàng, huy chương bạc, huy chương đồng trong các hội thi, hội diễn, thì tất cả đều phải “cất vào kho”.

Khi xây dựng Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã liên kết với Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, đào tạo một lớp diễn viên Tuồng và múa hát cung đình hệ cao đẳng. Tuy vậy, từ khi ra trường đến nay các diễn viên Tuồng được đào tạo “bài bản” này không thể đảm nhiệm được các vai chính khi nhà hát dàn dựng vở diễn. Nguyên nhân chính cũng bắt đầu từ sự thiếu đam mê nghề nghiệp, bởi rằng nghệ thuật Tuồng cũng giống như các loại hình nghệ thuật khác, muốn trở thành một diễn viên giỏi và có kỹ năng trình diễn thì trước hết anh phải tập luyện, thậm chí là khổ luyện. Đạo diễn La Thanh Hùng (con trai cố nghệ nhân Tuồng La Cháu – nghệ nhân Tuồng cung đình cuối cùng của triều Nguyễn) cho rằng, hiện nay diễn viên trẻ vừa yếu, vừa thiếu khi đóng một vai Tuồng. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do thế hệ diễn viên trẻ bây giờ ít nhiệt huyết cũng như đam mê nghề nghiệp. Do đó, diễn viên Tuồng hát hay múa đẹp hiện nay có thể biểu diễn Tuồng đang công tác tại Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế chỉ còn đếm trên đầu một bàn tay, và họ cũng là những người của thế hệ trước còn lại.

Trưng bày mặt nạ Tuồng trong Nhà hát Duyệt Thị Đường
Biểu diễn Tuồng trong Nhà hát Duyệt Thị Đường phục vụ khách tham quan du lịch


Sau khi hai nhà hát Duyệt Thị Đường và Minh Khiêm Đường được khôi phục, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế đã tiếp nhận và tổ chức biểu diễn Nhã Nhạc, Múa Cung đình. Ngoài ra, do nhận thức được việc bảo tồn nghệ thuật sân khấu Tuồng là vấn đề cấp bách, đầu năm 2008, các trích đoạn Tuồng cung đình được đưa vào biểu diễn cùng với Nhã nhạc và ca múa cung đình, nhưng điều này không được khách tham quan du lịch chấp nhận, lý do là thời lượng khách xem chương trình biểu diễn chỉ có 30 phút nên khách yêu cầu chỉ diễn Nhã Nhạc và Ca Múa Cung đình chứ không có thời gian để xem nghệ thuật Tuồng. Từ đó, Nhà hát chỉ tổ chức diễn các trích đoạn Tuồng cổ tại Nhà hát Minh Khiêm Đường (Lăng Tự Đức) phục vụ miễn phí cho khách tham quan du lịch, nhằm quảng bá nghệ thuật Tuồng Huế đến với công chúng. Tuy vậy, do nhiều vấn đề khách quan hoạt động biểu diễn Tuồng tại sân khấu Minh Khiêm Đường cũng đã phải dừng lại.

Năm 2015, sau khi Nhà hát Duyệt Thị Đường được chỉnh trang và nâng cấp, ngoài nội dung trưng bày giới thiệu cho du khách các hình ảnh tư liệu, trang phục, nhạc cụ, thì mặt nạ Tuồng cũng được trưng bày để du khách hiểu hơn về loại hình nghệ thuật này. Đặc biệt hơn, Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế đã tăng thời lượng biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Duyệt Thị Đường từ 30 phút thành 45 phút, trong đó có 15 phút dành cho biểu diễn Tuồng, và bước đầu đã nhận được sự ủng hộ từ du khách.

Trong những năm trở lại đây, các hoạt động nghệ thuật của sân khấu kịch hát dân tộc nói chung và nghệ thuật sân khấu Tuồng nói riêng, gặp rất nhiều khó khăn vì thiếu vắng khán giả. Nhiều cuộc hội thảo đã diễn ra, nhiều hội nghị chuyên đề đánh giá những thực trạng của nền nghệ thuật sân khấu hiện nay và đề xuất những giải pháp có tính cấp thiết để mong “cứu nguy” cho sự tồn vong của các loại hình nghệ thuật dân tộc, trong đó có loại hình nghệ thuật sân khấu Tuồng, nhưng vẫn chưa có một giải pháp nào khả thi làm cho bức tranh của nghệ thuật sân khấu Tuồng sáng sủa hơn.

Có thể nói, những việc làm của Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế đối với vấn đề bảo tồn nghệ thuật Tuồng tưởng như bị mai một đã bắt đầu sống trở lại, bằng chứng đã có một số công trình nghiên cứu về loại hình sân khấu này như: Mặt nạ Tuồng Huế, vũ đạo Tuồng, phục trang tuồng… cũng như việc, Tuồng đã được lồng ghép với Nhã nhạc và ca múa cung đình để đưa vào biểu diễn tại Nhà hát Duyệt Thị Đường bán vé cho du khách. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải lo lắng để nói thêm điều này: Mặc dù đã sống lại nhưng do đã nhiều năm mai một, nên để bảo tồn và phát triển nó cũng cực kỳ khó khăn. Nhiều nghệ nhân có tài, nhiều tư liệu và sách vở quý đã không còn nữa do nhiều năm bị lãng quên. Vì thế, để cho sức sống của nghệ thuật Tuồng thực sự trọn vẹn chúng ta cần kêu gọi các nhà khoa học, các nghệ nhân, nghệ sĩ có tài cùng chung sức, rất cần những kho tàng văn bản bị hư hỏng, thất lạc đâu đó được tìm kiếm, giới thiệu trở lại. Chỉ có như vậy nền nghệ thuật Tuồng mới phát triển tất cả vẻ đẹp vốn có của nó.

Trương Trọng Bình 
(SHSDB20/04-2016)