Tôi gặp Đoàn Ánh Dương lần đầu trong một hội thảo văn học quốc tế do Viện Văn học cùng Viện Harvard Yenching tổ chức năm 2011. Một chiều mưa dầm, ngập nước ở Hà Nội. Ngay từ ấn tượng đầu tiên, tôi đã chú ý đến anh với phong cách phản biện sắc sảo bài nghiên cứu của Phùng Ngọc Kiên. Hồi ấy, tôi không nghĩ Đoàn Ánh Dương cũng tầm tuổi mình, khoảng 25 tuổi, bởi sự chững chạc cùng những lập luận đầy tính học thuật, trước một cử tọa toàn giáo sư quốc tế. Sau này, trong Hội nghị Viết văn trẻ toàn quốc cuối năm 2011, chúng tôi mới có điều kiện trò chuyện và quen biết, cũng bởi do điều kiện khách quan là cùng “hội” lí luận phê bình “trẻ” với nhau. Đoàn Ánh Dương có cái tên khá kiêu và một vẻ ngoài lãng tử, ăn nói lại khá “ngang” và bốc nên ban đầu tôi cũng ngần ngại. Anh có cái nét tài hoa nhưng cũng kiêu bạc, khó gần của kẻ sĩ Bắc Kì, nếu chỉ mới “thấy mặt bắt hình dong”. Tuy nhiên, khi đã tiếp xúc nhiều, ta lại thấy một con người khác hẳn. Từ ấy, tôi chú ý đến Đoàn Ánh Dương như một “đối tượng phê bình”, các tiểu luận của anh công bố thường xuyên trên Nghiên cứu văn học, Nhà văn, Văn nghệ trẻ… hay các kỉ yếu, tuyển tập, tôi đều đọc kĩ và có nhiều điều đồng cảm. Có thể nói, trong thế hệ lí luận phê bình 7x, 8x ngày nay, cùng với Cao Việt Dũng, Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Mạnh Tiến, Mai Anh Tuấn, Đoàn Minh Tâm, Phùng Gia Thế, Trần Thiện Khanh… Đoàn Ánh Dương là một người đáng đọc, bởi sự xông xáo, bút lực dồi dào, trường bao quát không gian văn chương rộng rãi, sự nhạy bén và mĩ cảm tinh tế trong cảm thụ tác phẩm. Chính vì vậy, tôi không bất ngờ khi tập tiểu luận của Đoàn Ánh Dương có tựa đề Không gian văn học đương đại (phê bình vấn đề và hiện tượng văn học) (Nxb Phụ nữ, quý I năm 2014)(*) được giới thiệu đến người đọc.

Trong thế hệ lí luận phê bình chúng tôi, có thể nói đây là một trong những công trình đầu tiên, bởi trong khi tất cả hầu như vẫn đang dè dặt tích lũy tri thức, thể nghiệm lối viết và tìm kiếm cho mình một khung lí thuyết tiếp cận văn chương, thì Đoàn Ánh Dương đã có cuộc tổng kết một chặng đường khoảng dăm năm vật lộn với chữ nghĩa. Với người khác, có thể sự ra mắt ấy là sớm, nhưng với Đoàn Ánh Dương là kịp thời, không chừng lại hơi trễ tràng, nếu so với tổng số những bài viết đã công bố của anh, cũng như với sự bao quát đối tượng rộng rãi, tính học thuật đáng tin cậy, giọng điệu sắc bén trong các tiểu luận ấy.

Bỏ qua những mối quan hệ ngoại văn bản, chỉ xem Không gian văn học đương đại (phê bình vấn đề và hiện tượng văn học) (xin viết tắt là KGVHĐĐ) như một đối tượng nghiên cứu độc lập, một khi “tác giả đã chết” (R.Barthes), chúng tôi thấy có nhiều điều cần ghi nhận. Trước tiên, tiếp cận từ góc độ “nhìn nghiêng từ phương pháp”, có thể thấy KGVHĐĐ được viết một cách thống nhất, mặc dù hình thức cấu trúc của nó là những tiểu luận ghép vào nhau, và những tiểu luận này lại được viết trong nhiều thời điểm khác nhau, kéo dài trong khoảng “dăm năm” như anh nói. Sự thống nhất ấy được kiến tạo nên từ hai phương diện: phương pháp khoa học và giọng điệu phê bình. Mặc dù KGVHĐĐ có tầm bao quát rộng rãi, từ lí thuyết cho đến thực tiễn sáng tạo, từ thơ cho đến truyện ngắn rồi tiểu thuyết, từ những nhà văn đầu Đổi mới như Nguyễn Huy Thiệp cho đến những nhà văn trẻ như Nguyễn Ngọc Tư… đều được triển khai trên một trục thống nhất xuyên suốt: lí thuyết hậu thực dân. Có thể nói, hiếm có cây bút lí luận phê bình trẻ nào trong thời điểm hiện tại lại có cách làm việc khoa học, có ý thức về mặt phương pháp tiếp cận như Đoàn Ánh Dương. “Dăm năm qua” nếu như đối tượng nghiên cứu của anh không thay đổi, mà ngày càng mở rộng ra (văn học Việt Nam đương đại), thì phương pháp nghiên cứu hậu thực dân của anh cũng ngày càng trở nên chặt chẽ, sáng rõ hơn. Đường hướng làm việc thống nhất này đương nhiên là một chiến lược nghiên cứu khôn ngoan. Thứ nhất, nó dễ giúp cho người nghiên cứu mang lại những công trình có đóng góp cả trên lí thuyết lẫn thực tiễn. Thứ hai, hậu thực dân là một lí thuyết nghiên cứu mới mẻ – ít ra là ở nước ta – Đoàn Ánh Dương hẳn không muốn giẫm lên những thành tựu lí thuyết quen thuộc, nhằm tìm tòi một lối đi riêng. Khi chọn hậu thực dân làm nền tảng nghiên cứu, hẳn Đoàn Ánh Dương đã phải giải quyết hàng loạt câu hỏi, và cả những nghi kị. Đầu tiên, đó là sự tương thích giữa lí thuyết (hậu thực dân) với đối tượng (văn học Việt Nam đương đại). Thứ nữa, sinh thể hậu thực dân Việt Nam, xét từ góc độ địa chính trị – văn hóa và văn chương, khác gì những quốc gia và nền văn chương hậu thực dân khác trên thế giới? Bản thể hậu thực dân Việt Nam có đặc trưng gì? Bản sắc và hoàn cảnh cụ thể hậu thực dân ở Việt Nam, được biểu hiện trong văn hóa và văn học như thế nào, có ý nghĩa gì? Thông qua KGVHĐĐ, chúng tôi nghĩ Đoàn Ánh Dương đã có những câu trả lời xác đáng và có sức thuyết phục.

Dưới ảnh hưởng của các nhà lập thuyết hậu thực dân như E.W.Said, Homi Bhabha, M.Foucault… Đoàn Ánh Dương đã xem hoạt động sáng tạo của nhà văn không phải là hành vi cá nhân, có tính thuần túy nghệ thuật, mà là một cuộc hồi đáp bất tận với quá khứ (thực dân), với những chủ thể văn hóa đế quốc ngoại lai (Pháp, Trung Hoa), như thế, sáng tạo văn chương là “sự can hệ sâu rộng về mặt xã hội, văn hóa và lịch sử của một dân tộc đã nếm trải rõ rệt quá trình thực dân hóa, và đang phải chứng nghiệm những di sản hậu thực dân một cách khá rõ ràng trong bối cảnh toàn cầu hóa” (tr.6). Hành vi viết của nhà văn không phải là sự thám hiểm cái chưa biết, mà là một cách để đối thoại về một “quá khứ đã biết”. Chính vì vậy, Đoàn Ánh Dương đã chọn Nguyễn Xuân Khánh như một trường hợp sáng tạo điển hình nhất cho những mối quan tâm hậu thực dân. Trên thực tế, đây cũng chính là tác giả duy nhất anh dành đến hai tiểu luận phân tích, bởi những tiểu thuyết như Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa xứng đáng là những diễn ngôn chứa đựng đa thanh những tiếng nói, những thực thể văn hóa khác nhau (Pháp, Việt, Trung Hoa, Mĩ…), đối chọi nhưng cấu kết thành một chỉnh thể trong thời hậu thực dân ở Việt Nam.

Trong những tiểu luận còn lại, Đoàn Ánh Dương dẫu vận dụng lí thuyết hậu thực dân một cách ít hiển lộ hơn, nhưng thực ra, lại chìm sâu vào cách tư duy và cách tiếp cận đối tượng trong phê bình. Những đối tượng khảo cứu trong KGVHĐĐ đều là các hiện tượng văn học Việt Nam đương đại. Đoàn Ánh Dương đã đi sâu khảo sát những cách tân nghệ thuật của họ dưới góc độ sự đối thoại với những thiết chế và khung khổ tri thức, chính trị và quan niệm văn học cũ (thời trung đại – tiền thực dân với thời hiện đại/hậu hiện đại – thực dân/hậu thực dân). Mối quan tâm trong đối tượng phê bình của Đoàn Ánh Dương có thể khuôn gọn vào hai chủ điểm là tác giả và thể loại. Trong tiểu luận công phu và đầy ắp những kiến giải mới mẻ Thơ Việt Nam đương đại: mô thức nhịp điệu nhìn trong nguồn mạch, Đoàn Ánh Dương đã chỉ ra sự vận động và cách tân của thể loại này. Anh cũng chỉ ra đặc trưng của từng hệ hình thơ Việt Nam, từ thơ vần điệu (thơ trung đại), đến thơ nhạc điệu (Thơ mới và những biến thể kéo dài của nó về sau/tiền hiện đại), và ở thời điểm đương đại là thơ nhịp điệu (thơ hiện đại và hậu hiện đại). Thơ hiện đại/hậu hiện đại ở Việt Nam, theo Đoàn Ánh Dương được phát triển theo hai hướng, đó là trò chơi ngôn từ (Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng…) và trò chơi ngữ nghĩa (Dư Thị Hoàn, Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh…). Phải là người đọc nhiều, có sức bao quát rộng rãi đối tượng nghiên cứu, đồng thời phải là người sở hữu nền tảng mĩ học và lí luận văn học vững chắc, Đoàn Ánh Dương mới có thể tổng kết, trừu xuất và gọi tên các mô hình phát triển của hệ hình thơ Việt Nam đương đại như vậy.

Có thể thấy, mặc dù Đoàn Ánh Dương đã ra sức tổng kết “một thời đại trong thi ca” theo hướng hệ hình mĩ học rất thuyết phục, nhưng chính tự sự (truyện ngắn và tiểu thuyết) mới là “sân chơi” phê bình chính của anh. Điều này cũng là sự phù hợp tự nhiên với lí thuyết nghiên cứu xuyên suốt trong KGVHĐĐ, bởi trong các thể loại này, những phân tích diễn ngôn tự sự tỏ ra ích dụng khi soi chiếu từ lí thuyết hậu thực dân. Trong các “đối tượng tự sự”, Đoàn Ánh Dương hẳn có dụng ý khi chọn ra Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Thị Hảo, Bảo Ninh, Trần Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Bắc Sơn và Đỗ Phấn. Dù là khảo sát riêng lẻ từng tác phẩm, hay nhìn nhận một cách xuyên suốt quá trình sáng tạo, Đoàn Ánh Dương đã lựa chọn đối tượng trên cơ sở họ đều là những người có công cách tân văn học Việt Nam đương đại theo lối hệ hình, trong sáng tác của họ tiềm chứa nhiều vấn đề hậu thực dân. Điều Đoàn Ánh Dương làm được trước tiên cần xét đến, đó là anh đã gọi tên được những cách tân nghệ thuật, những đặc trưng nghệ thuật của từng tác giả. Không phải lối phê bình bình tán, phê bình điểm sách hoặc phê bình tóm tắt cốt truyện cho người đọc đỡ công đọc tác phẩm, Đoàn Ánh Dương đã chỉ ra những “thần tự” và “mắt truyện” trong từng tác giả mình quan tâm đến. Với trường hợp Tạ Duy Anh, Đoàn Ánh Dương nhận định nhà văn đã “Muốn giải huyền thoại lịch sử để viết huyền thoại của cái thường nhật” (tr.103). Với tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn, đó là nhận định: “Một – kiểu – tiểu – thuyết – chính – trị – cho – riêng – mình” (tr.123). Với Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư), Đoàn Ánh Dương nhận ra mỗi tên gọi nhân vật là một biểu tượng mang tính văn hóa: Nương (Mỵ Nương), Sương (gái ăn sương), Điền (cánh đồng)… Trong đó, Điền là biểu tượng văn hóa có tính cổ mẫu ở Nam Bộ nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. Với Bảo Ninh, Đoàn Ánh Dương chỉ ra “chiến tranh là một chấn thương” (tr.167), lối viết của nhà văn không chỉ là tự thú/tự truyện, mà còn là “một tự hư cấu từ việc nếm trải thời đã qua hòng đề xuất những vấn đề thuộc về nhân sinh và nghệ thuật” (tr.169).

Lối phê bình của Đoàn Ánh Dương không chỉ là những lát cắt ngang với từng tác phẩm cụ thể, những đỉnh cao của từng tác giả, mà anh luôn có xu hướng liên hệ, giãn nới mối quan tâm của mình đối với từng tác giả ra xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của họ, biến các tác phẩm của nhà văn trở thành một quá trình, một trường sáng tạo. Cái nhìn thoáng đãng, xâu chuỗi này giúp người đọc hình dung được sự vận động, cách tân trong sự nghiệp của từng nhà văn, đồng thời cũng giúp cho chúng ta hình dung ra từng chặng, từng giai đoạn phát triển của văn học Việt Nam đương đại, bởi vì mỗi cách tân, đổi mới luôn là sản phẩm, mà cũng là hệ lụy của hoàn cảnh xã hội (hậu thực dân) bên ngoài. Có thể thấy Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Quang Thiều là những đối tượng được Đoàn Ánh Dương khảo sát theo đường hướng này. Ví như trường hợp Tạ Duy Anh, Đoàn Ánh Dương đã xác lập một quá trình phát triển của tư duy nghệ thuật, từ Khúc dạo đầu (1991) vốn có xu hướng chủ nghĩa lãng mạn, một trào lưu đã tỏ ra lỗi thời, lạc điệu, cho đến Lão khổ (1992) đã tìm ra lối viết mới với nhiều cách tân, mà quan trọng nhất là sự tiếp thu lí thuyết của Bakhtin, nên đã bước sang chủ nghĩa hiện thực thường nhật. Tuy nhiên, Đoàn Ánh Dương nhận định rằng Lão khổ vẫn mới chỉ là bài “tập làm văn”. Phải đến Đi tìm nhân vật (2002) và Thiên thần sám hối (2004), Tạ Duy Anh mới đạt đến đỉnh cao trong sáng tạo, khi ông đã thực hiện nhiều cách tân trên các lĩnh vực như tự sự, cảm quan đa trị, cấu trúc tác phẩm, không – thời gian nghệ thuật, yếu tố phi lí… với những dấu ấn phân tâm, hiện sinh, dòng ý thức… rõ nét. Cuốn tiểu thuyết gần đây nhất là Giã biệt bóng tối (2008), theo Đoàn Ánh Dương là sự thua sút về mặt nghệ thuật, nhưng lại là một cuộc cách tân lối viết.

Điều đáng ghi nhận trong lối phê bình của Đoàn Ánh Dương là sự tinh tế, nhạy cảm trong việc cảm thụ những giá trị, đánh giá đích xác và xếp hạng các nhà văn, tác phẩm hết sức hợp lí. Bên cạnh đó, bản lĩnh của nhà nghiên cứu còn được thể hiện thông qua những đánh giá về những giới hạn, những điểm còn thiếu khuyết của đối tượng phê bình. Mặc dù đánh giá rất cao Cánh đồng bất tận, Đoàn Ánh Dương cảnh báo chúng ta không nên vội vàng “xếp cho truyện ngắn này một “chỗ ngồi” trang trọng, trong bối cảnh đời sống văn học đang có nhiều chuyển biến mau lẹ và hứa hẹn” (tr.130). Phần cuối cùng (đoạn 8) của Cánh đồng bất tận cũng bị anh đánh giá là khiên cưỡng và tác giả đã cố tình gò vào một cốt truyện có hậu. Mặc dù đánh giá vai trò cách tân của Nguyễn Bình Phương và Tạ Duy Anh là rất quan trọng trong lộ trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Đoàn Ánh Dương vẫn chỉ ra những hạn chế, chưa đến nơi đến chốn, của những tác phẩm như Lão khổ, Giã biệt bóng tối hay Ngồi của hai tác giả này.

Cuối cùng, chúng tôi muốn nói đến điểm thống nhất, xuyên suốt cơ bản còn lại trong công trình của Đoàn Ánh Dương, đó là giọng điệu và phong cách diễn ngôn. Đoàn Ánh Dương đã nỗ lực kiến tạo diễn ngôn của mình thực sự là một cuộc chơi của ngôn từ. Có thể thấy Đoàn Ánh Dương sử dụng nhiều thuật ngữ nghiên cứu mới như biểu thuật (representation), hậu thuộc, bài thực (anticolonial nationlism), diễn ngôn (discourse)… Muốn hiểu được các thuật ngữ này, người đọc buộc phải có một nền lí thuyết căn bản, do đó, lối phê bình của Đoàn Ánh Dương nghiêng về tính chuyên nghiệp và hàn lâm. Ngoài ra, anh cũng nỗ lực sáng tạo từ bằng những lai ghép mới và có khuynh hướng sử dụng những từ dịch mới của riêng mình, như khuynh loát, ý hệ, động hướng, công chính, thám sát, đột mở, đắn đót, châu tuần… và lối trình bày ý tưởng theo kiểu nước đôi, lai ghép giữa các từ song hành, ví dụ: và/là, vào/ra, bị/được… có thể xem như những nỗ lực kiến tạo bản sắc riêng trong ngôn ngữ phê bình. Diễn ngôn phê bình của Đoàn Ánh Dương cũng thường trúc trắc, câu văn dài, nhiều thành phần phụ, lối lập luận khá phức tạp và thường theo kiểu gián tiếp. Đây là bản sắc của riêng anh, văn là người, tuy nhiên, theo chúng tôi, đôi khi phức tạp quá những thứ vốn đơn giản, hoặc không thể đơn giản hóa những thứ phức tạp cũng là một hạn chế của người phê bình. Vượt quá “ngưỡng tâm lí” (Nguyễn Văn Dân) của người đọc trong tiếp nhận, đôi khi cũng tạo ra những rào cản không đáng có.

Với 256 trang viết, KGVHĐĐ của Đoàn Ánh Dương thực sự là một công trình phê bình đáng ghi nhận và gợi ra nhiều suy ngẫm về những vấn đề của văn học Việt Nam đương đại. Đáng ghi nhận không phải vì nó là một công trình được viết nên bởi một nhà phê bình “trẻ”, mà chính bởi những suy tư già dặn và những vấn đề quan thiết anh đặt ra về tiến trình phát triển của văn học Việt Nam đương đại. Giá trị của một công trình nghiên cứu không nằm ở tuổi của người viết nên nó, mà nằm ở tuổi của chữ, sức nặng của những ý tưởng. Theo nghĩa ấy, KGVHĐĐ là một công trình “đứng chữ”, tức chữ có thể đứng lại với thời gian, với những suy nghiệm đầy những nếp nhăn của tri thức. Dĩ nhiên, vẫn còn đó những hạn chế, như lối diễn ngôn còn khá rối trong một vài trường hợp; các đối tượng được chọn, đôi khi vẫn có tính “giới thiệu sách”, được viết khá hời hợt; một vài hiện tượng chúng tôi nghĩ hết sức phù hợp với lí thuyết hậu thực dân cũng như có vai trò quan trọng trong giai đoạn văn học Việt Nam đương đại vẫn chưa được tác giả chú ý đến. Nhưng trên hết, với tham vọng “hướng tới một cộng đồng văn chương công chính”, như lời bạt của tập sách, Đoàn Ánh Dương đã cho thấy mình chỉ mới bắt đầu khởi đi trên một hành trình dài, một hành trình mà có lẽ anh cần tất thảy chúng ta, như tất thảy chúng ta vẫn đợi chờ ở anh trong tương lai.

 

Theo Yến Thanh – Vannghequandoi.vn

Exit mobile version