ĐỖ QUYÊN

Nhận định về tiểu thuyết “ĐẺ SÁCH”

Trích Lời vào của tác giả:
“Dường như người cầm bút nào cũng được một thói quen văn chương nuôi nấng – Làm một vài bài thơ cho mình và viết một cuốn truyện để đời. Tôi trong vế sau của thói quen đó bao năm rồi, nay tới lúc. Khi chắp được ý tưởng, xây mạch truyện, tôi mới nhận ra rằng cuốn truyện để đời có thể là cuốn này; mà cũng có thể là cuốn sau, sau nữa, rồi sau nữa…
Sách này, việc viết nó rất ngẫu nhiên, ngay sau một cơn mơ pha tạp, tôi lọc ra các điều có thể làm nên tiểu thuyết.
Tôi có lý do để hiểu vì sao cuốn sách mang tên “Đẻ sách”. Tôi biết, bạn đọc rồi cũng sẽ có vài ba lý do để hiểu. Ví dụ, nội dung của nó, ngắn gọn, là về những – người – ăn – thịt – người – để – đẻ – ra – sách.”

Các giới thiệu in bìa sau:

”Cảm giác đầu tiên ở những trang đầu tiên tôi đọc được là choáng váng vì một văn bản nghệ thuật bất thường. Độc giả đầu tiên tôi nghĩ sẽ là các nhà văn, nhất là các cây bút trẻ, các nhà hậu hiện đại. Đây là một văn phẩm chỉ có thể xuất hiện trong môi trường sáng tác có tính toàn cầu, nơi va đập nhiều dòng văn hóa – tư tưởng, nơi mà người Việt có cơ hội tiếp nhận những thông tin và tri thức đích thực và cần thiết.
Một ‘trái bom Canada’! Nhưng tất nhiên, hình dung sức mạnh và hậu quả của ngôn từ thế thôi, chứ thật ra nó có ý nghĩa phá để mà xây, bom kiểu deconstruction; nó sẽ giải phóng cho cách viết cũ, cách tiếp nhận nghệ thuật cũ và mở ra ngã ba đường. Sách còn có thể xếp vào tủ sách dạy nghề cho các nhà văn. Nó mang dòng máu Việt nhưng vẫn là đứa con lai, khôi ngô, tuấn tú thông minh theo kiểu thần đồng nhưng lại vô cùng ngỗ ngược, vì được thụ thai dưới bầu trời tự do Âu-Mỹ. Đẻ Sách là một cuốn sách có ý nghĩa đột biến trong thi pháp thể loại, khởi đầu cho một dòng phong cách tự sự, cho một lối kể riêng.”

PSG-TS PHẠM THÀNH HƯNG – Nhà nghiên cứu văn học Việt, Đại học Quốc Gia Hà Nội (Việt Nam)
”Có thể gọi Đẻ Sách như một siêu tiểu thuyết – tiểu thuyết về cách viết tiểu thuyết, trong đó những nhà văn ăn thịt đồng loại để cho ra tác phẩm. Có thể nhìn toàn bộ Đẻ Sách như một ẩn dụ thông minh và tinh quái về quá trình viết, như cứu cánh và tận cùng ý nghĩa cuộc sống, nếu có, của con người. Cũng có thể thưởng thức Đẻ Sách theo từng trích đoạn, thưởng thức tính văn học cực kỳ cô đọng của từng chương; đồng thời vẫn không thay đổi cái nhìn về một cấu trúc tổng thể của tiểu thuyết, rất quy mô, phức biến, và làm chúng ta kinh ngạc.”
Tạp chí mạng DA MÀU damau.org (Hoa Kỳ)
“Trong tiểu thuyết hiện đại chưa ai viết với những thao thức đông-tây kim-cổ và đưa ra những ý tưởng xã hội, đời sống chính trị, dung tục phàm trần với một đống hổ lốn cho ra hồn văn chương như Đỗ Quyên. Chưa thấy một tiểu thuyết gia Việt Nam nào viết như vậy! Có chăng chút ít là Hồ Hữu Tường trước năm 1975 mà thôi. Đây là một lý thú đời tôi chưa từng có. Tôi hy vọng, cuốn tiểu thuyết này sẽ làm bùng nổ một đề tài lớn của văn học Việt Nam trong và ngoài nước.”
VŨ ĐÌNH KH. – Nhà văn (Canada)

 Các bài giới thiệu, phê bình tác phẩm

Trần Thiện Huy (Nhà phê bình, Nhà báo – Mỹ)
Cảm nhận tiểu thuyết Đẻ Sách của Đỗ Quyên
Đọc một tiểu thuyết là một sự làm quen giữa hai con người xa lạ – nhà văn và độc giả. Dù cho chấp nhận những lý thuyết rằng người đọc cũng góp phần sáng tạo nội dung tác phẩm, ta vẫn phải nhìn nhận rằng chủ yếu “tiểu thuyết tính” (fictionality – thuật ngữ trong tiếng Anh và Việt do tác giả bài này tạm đặt ra) nằm trong mối tương quan, giữa sự chủ động của nhà văn để tường thuật lại một trải nghiệm – thực hay ảo – của mình, và sự “dàn dựng” lại trải nghiệm đó bằng ý thức văn học của người đọc. Tiểu thuyết tính, do đó, có thể coi như có ba mức độ: cảm nhận ngôn từ, cảm nhận biểu tượng và cảm nhận cấu trúc.
Cảm nhận ngôn từ là mức độ thích hợp để thưởng ngoạn văn học hiện thực. Ý tưởng chính của tác phẩm hiện thực có góc độ trực quan; các chất liệu đều lấy thẳng từ thực tế; tính cách văn học của tác phẩm hiện thực phần nhiều nằm ở khả năng trần thuật (narration). Cảm nhận biểu tượng là mức độ giành cho văn học hiện đại, khi nội dung không còn là quan hệ giữa những người và vật, mà là giữa những ý niệm trừu tượng. Ý nghĩa chính của quá trình sáng tạo và tiếp thu này nằm ở trong khả năng liên tưởng phong phú và độc đáo giữa nội dung ẩn dụ và bản thể sự vật theo những cấu trúc của logic Aristotle. Cả nhà văn lẫn người đọc đều được an toàn phóng nhiệm sự suy diễn của mình mà không phải xa rời khuôn khổ những quy luật sinh tồn và tỉnh táo của cuộc sống.
Hậu hiện đại là phản ứng của một phong trào nhận thấy những khuôn khổ đó quá ngột ngạt và chính là khởi điểm sự trói buộc quan niệm con người. Cái mà hậu hiện đại luôn luôn sáng tạo không hẳn là nội dung, mà là cấu trúc. Đây là nền văn chương của những ý thức xa lạ – mặc dù có lúc những người viết này tuyên bố rằng chính ý thức mà chúng ta quen thuộc, đồng thuận và chung đụng mới là xa lạ với con người – những trạng thái tinh thần lệch lạc, những ảo ảnh vô thức, hoặc những tiếng nói từ các miền đất không có trên bản đồ nền văn minh. Bước qua mỗi tác phẩm là một chuyến đi gập ghềnh, có khi chấn động, đối với tự ngã người đọc, đối với tất cả những định chế tinh thần về thực tại, bản chất, và trật tự. Chính vì vậy mà người đọc luôn luôn tự cảm nhận một khuynh hướng tranh cãi và phủ nhận, thậm chí kết án những nội dung và diễn đạt của tác phẩm, và một phản xạ tự nhiên thoái lui về thế giới của những ý nghĩa đồng thuận. Lỗi lầm này người ta đặc biệt tìm thấy ở những nhà bình luận và diễn dịch theo phong cách Marxist và phân tâm học, (tệ hơn, là những người kết hợp cả hai!) với thói quen quy tất cả mọi hiện tượng – kể cả hiện tượng văn học – về giải thích theo một điều kiện, một mẫu số chung thông dụng với xã hội trí thức. Luận lý của người đọc tìm đến thông cảm với luận lý của người viết; người ta đọc các hoang tưởng văn học như một phản kháng của lý tính (theo kiểu “Nhật ký người điên” của Lỗ Tấn), không bao giờ xuất hiện ý nghĩ một người cầm viết xuất thân từ giới bác học như mình có thể tìm ra một góc độ đối lập hoàn toàn và loại bỏ lý tính. Cái phản xạ thoái lui vô ý thức, cái bản năng tự nhiên rút về những chỗ đặt chân an toàn, là một mối đe dọa làm tổn hại đến tác phẩm và sự thưởng thức mà người đọc thể lọai văn chương hậu hiện đại phải luôn luôn lưu ý.
Đẻ Sách từ cái nhìn đầu tiên đã thấy đậm đặc phong vị hậu hiện đại. Nhưng người độc giả, ấm ức vì lỡ bỏ công ra đọc mà không hiểu nổi ý tác giả, dễ bị đưa đẩy đến chỗ dựng nên một cấu trúc logic nhất quán làm khung cho cả tác phẩm. Ví dụ, từ hai cái khái niệm rất uyển chuyển, “Ăn Tim” và “Ăn Chân”, để có sự thông đạt về ngôn ngữ, người đọc đã thông thuộc thế giới biểu tượng bèn “hiểu” ngay rằng chữ “ăn” chính là ẩn dụ về một sự tiêu thụ (consummation), hay thích hợp hơn với công việc của nhà văn, là sự khai thác cảm hứng (hay lợi dụng cảm hứng?). Nhà văn “ăn tim” nghĩa là đào sâu vào, rút rỉa chất liệu từ cảm tình con người; bà luật sư “ăn chân” nghĩa là được gợi hứng từ hành trình của những người di dân… Có thể hình dung hai chương truyện, hai ý niệm như hai hạt trên một xâu chuỗi, mà “ăn” là sợi chỉ xuyên suốt, nối liền lại thành một mạch lạc. Cũng vậy, riêng trong Chương 1, có thể coi “tim” như là sợi chỉ của chương, là biểu tượng chính, tất cả những chi tiết, những tình tự, những sự vật như núm vú… đều ám dụ về “tim”. Từ sự hỗn độn có dụng ý của tác giả, một thứ mô thức “rõ ràng” và “lớp lang”, một thứ “ý nghĩa” hay “mục đích” được gán ghép vào cho tác phẩm. Và nếu được quyền đóng góp một lời khuyên cho độc giả của Đẻ Sách, người viết bài này chỉ xin lưu ý đừng nên rơi vào cái bẫy tri thức rất dễ dàng ấy.
Có khi nào ta lắng nghe một cuộc độc thoại được xem là “lảm nhảm” (xin lỗi tác giả Đỗ Quyên vì cách nhập đề này), như từ miệng một người điên, một người say… – hãy lưu ý rằng đó là sự tuôn đổ một mạch tư duy rất riêng tư, không được chọn lọc và “kiểm duyệt” chặt chẽ để khơi gợi sự chú ý và sự đồng tình của người nghe. Dòng ý tưởng đó có một toàn thể tính rất lắt léo và trơn trượt, vì mỗi một khái niệm, một mệnh đề, có thể liền lạc với nhau theo cách thức riêng biệt không hề lặp lại. Chính vì vậy, người nghe không quen thuộc với phép luận lý thì đánh giá đó là sự phi lý, còn người quen thuộc và có kỹ năng bám theo mạch lý luận thì phàn nàn rằng đó là sự hỗn độn. Nhưng nếu ngôn ngữ là thể hiện thực tế thì chưa hề tồn tại cái thực tế nào trong đó chỉ tồn tại một biến chuyển, một quá trình. Nếu cho rằng phát biểu – bằng lời hay bằng văn tự – là diễn tả những trường hợp và trạng thái tinh thần, thì cũng không khi nào tồn tại một khoảnh khắc tập trung chuyên biệt của ý thức con người vào một chủ đề, một lộ tuyến suy lý. Vậy nên hiểu sự mạch lạc như một chức năng đời thường/ quan hệ, chức năng thuyết phục và hướng dẫn. Văn học đã từng là một nối dài của chức năng đó; nó đã song hành và đôi khi thay thế sử học, giáo dục và chính trị; nhưng văn học còn có thể và có nhiệm vụ mô tả những góc nhìn bị che giấu bởi những “sự thật”, góc nhìn gần với những người say, người điên, những kẻ đùa cợt, những não trạng hoang sơ, chất phác, hay thần bí… Ngay từ buổi bình minh, trong bất cứ vai trò nào, văn học cũng đã nhìn nhận được rằng cái táo bạo của một người viết đi “lan man”, “chệch đề” đôi lúc, chính là cái làm nên chiều sâu cho một tác phẩm, không để cho chủ đề trở thành thước đo, thành sự kiểm duyệt độc đoán tuyệt đối bó nghẹt trí tưởng tượng. Khi đã vượt qua được cái tập quán củng cố bởi hàng ngàn năm lịch sử của xã hội con người, là đòi hỏi trong mọi trường hợp tính cách dễ chấp nhận của những thông điệp thuyết phục và hướng dẫn, thì người ta mới có thể đi đến chỗ cảm nhận được cái khoái lạc thẩm mỹ khi đọc thơ Bùi Giáng.
Đẻ Sách đã “học” được tu từ và kết cấu từ giấc mộng. Ý nghĩa của những biểu tượng chủ như “ăn” được thả lỏng lẻo, gần như được dùng trong mỗi lần xuất hiện để chỉ một – hay nhiều – thứ khác nhau. Trong khá nhiều ngữ cảnh, những chữ đó gần như không có ý nghĩa logic, dường như được đặt vào một khoảng trống hay đè lên chỗ một chữ khác trong câu, để làm nổi lên nhịp điệu lặp lại. Thủ pháp “bỏ nghĩa lấy chữ” là một thể nổi bật của ngôn ngữ vô thức, thể hiện một khoảnh khắc khi một biểu tượng do biến động ngẫu nhiên của tinh thần mà nổi trội lên, tập trung phần lớn sự chú ý của ý thức trong mộng. Vì thế, một số khái niệm, vật thể, hành động… khác bị “hy sinh”, bị đặt ngoài tầm với tạm thời của ý thức mộng, và chỗ đứng của chúng trong mạch lạc tự sự bị chiếm hữu bởi biểu tượng “chủ”. Tính xuyên suốt và tính toàn thể của hình thức này, do đó, giống như một bức hình chụp trung thực một khoảnh khắc của tư tưởng tác giả đang chịu một ấn tượng mạnh mẽ, một ấn tượng bỗng chốc nảy sinh rất vu vơ nhưng cô đọng bằng hình ảnh những yếu tố đang bức thiết và ám ảnh trong dòng đời tác giả.
Hiểu như thế, ta có thể hình dung giữa một giấc mơ, Đỗ Quyên đột ngột bị đánh động bởi một ý niệm mơ hồ, rằng ngôn ngữ của các giác quan, của những kinh nghiệm trần trụi của cuộc đời mà anh (và mọi người) đã sống thật, nhìn tận mắt, sờ tận tay, đã kích thích những căn tính bản năng, là một thực tế gắn bó khắng khít – gần như trùng hợp – với sáng tạo văn nghệ hơn là những ẩn dụ mơ hồ, hoa mỹ và cao quý mà chúng ta thường hãnh diện dùng để tự miêu tả. Nếu đây là một ý nghĩ hiện đến trong lý trí tỉnh táo, anh có lẽ đã gạt nó qua một bên, tránh không đi sâu vào một vùng đất hiểm nguy và thô thiển; hoặc nếu thật sự tự tin vào khả năng ví von của mình, anh sẽ tự dựng nên một hệ thống chặt chẽ những tương quan giữa đối tượng vật chất và ý niệm trừu tượng, một hệ thống nhất quán xuyên suốt và chuyển tiếp dọc theo nhiều giai tầng của hiện thực. Ví dụ như “ăn” sẽ đuợc thần thánh hóa lên là sự thưởng thức, là dung hòa tuyệt đối một khách thể, một ý tưởng xa lạ vào con người mình… Nhưng một ấn tượng đến từ giấc mơ có cái may mắn không bị sự sáng suốt của lý trí xói thẳng vào khiến cho nó nhạt màu, loãng vị và mang một sức sống èo uột; giấc mơ không nhớ rằng Đỗ Quyên là một nhà văn, nó chỉ nhìn thấy những con chữ đang quay cuồng xáo trộn trong vô thức của anh, và với cái hăm hở của một đứa trẻ sử dụng một từ mới được mớm cho, nó điền ngay những chữ như “đẻ” và “ăn” vào chỗ của những từ nó không biết, không nhận ra, hoặc đơn giản là không thích.
Tác phẩm của Đỗ Quyên luôn luôn là một trò chơi với sự ngẫu nhiên của chữ nghĩa. Đặc biệt, với Đẻ Sách, tiểu thuyết đầu tay, trò chơi đã trở thành một sự đùa nghịch hồn nhiên, kể cả với khía cạnh thân phận người viết đằng sau con chữ. Như Sigmund Freud đã viết “những thủ pháp như cô đọng, đổi chỗ, biểu hiện qua sự phi lý, biểu hiện qua tính trái ngược, biểu hiện gián tiếp… – tất cả ta thấy tham gia vào tạo thành sự trào lộng, lộ rõ một sự tương đồng rất xa với tiến trình của giấc mộng”. Dù ở trong những điều kiện nhân văn nào, loài người vẫn cần thiết và sáng tạo một truyền thống của motif kẻ đùa giỡn (joker), kẻ bằng cách làm biến dạng hoặc lột trần vỏ bọc của sự thật, hoặc phơi bày ra một khía cạnh khác của thực tế bị che giấu, làm cho con người đánh mất ảo tưởng và quay về một trạng thái tinh thần quân bằng và thiết thực hơn. Joker là một phóng ảnh ra môi trường bên ngoài những trải nghiệm tự thân của vô thức, sự hiểu biết đích thực về bản thân vượt khỏi những ngã chấp tự khoác vào, và nối lại sự liền lạc với vô thức, nền tảng và nguồn gốc của sự sống. Đỗ Quyên viết về nghề nhà văn, cái “thiên chức” thiêng liêng, về những bạn bè mình, những tên tuổi của trào lưu văn học mới, không bằng cái nhìn của một người đang tỉnh táo, nghiêm trang, mang theo từng thước tấc của xã giao, danh vị, mà là của một người đang đùa giỡn, của một tấm kiếng nhà cười bóp méo hết mọi nguyên bản, để tạo thành đường nét của nụ cười. Anh tạo ra những liên tưởng ngang ngược về mọi ý nghĩa, mọi tên gọi, cọ xát cái tao nhã bóng bẩy của thế giới con người với cái thô kệch chân chất của tự nhiên, của bình dân. Cái tên Nguyễn Hưng Quốc nghe cao cả được nôm na thành Hưng Nước; Hà Sĩ Phu đùa giỡn thành Hà Sĩ Nông, v.v… Vì không ai giận tấm gương của nhà cười đã đùa giỡn với hình ảnh của mình, Đỗ Quyên tin rằng không ai sẽ mất lòng khi anh làm cho họ quên đi “cái tôi” trong một phút.
Và cuối cùng, ta cũng thấy những bước nhảy rất gấp của Đỗ Quyên, để lại khoảng trống quá lớn cho trí tưởng tượng người đọc lấp đầy vào. Vẫn biết đó cũng là một phương pháp sáng tác, nhưng có lẽ người viết cũng không nên đòi hỏi người đọc phải thưởng thức chất liệu sống từ ý tưởng của mình, thay vì có một sự bày biện ít nhiều. Tác giả Đẻ Sách đã nắm bắt rất thành công bố cục của thể loại này, trong đó có cách sắp xếp xen kẽ bất cứ ý tưởng nào mọc lên giữa giờ phút chiêm nghiệm, và để cho mỗi ý tưởng tự sống và phát triển thành một mạch tự sự, có thể kéo dài ra mà không bao giờ gặp nhau. Đến lúc đóng lại cuốn tiểu thuyết, người đọc có thể lùi lại và quan sát toàn diện không gian của các mạch tự sự này, như ngắm nhìn những mảnh màu chồng chéo lên nhau trong một bức tranh lập thể. Nhưng ở giai đoạn này, khi mới chỉ có hai chương đầu được công bố, người đọc có lẽ sẽ khó mà theo dõi được những nhân vật và hoàn cảnh gần như vô số của Đẻ Sách, nhất là ở một số điểm, khi những ý tưởng như vậy đổ về hơi dồn dập, nhiều mạch dẫn lồng vào mạch khác. Gần như không ai có thể đoán được, dựa trên kinh nghiệm cảm thụ thẩm mỹ thường ngày, tại sao tác giả cố ý để cho Chương 2 quá dài, gấp năm, sáu lần Chương 1.
Và sau cùng, tác giả Đỗ Quyên vẫn sử dụng chất liệu quen thuộc cho các công trình và tác phẩm trước của anh, đó là cộng đồng văn nghệ sĩ mà anh quen biết, để xây dựng Đẻ Sách. Người đọc không đi lại thường xuyên trong môi trường đó chắc không thể nào đoán ra được những cách chơi chữ của anh. Vì vậy, tôi có cảm giác rằng đây là một tác phẩm rất riêng tư, nhắm vào những người đã hiểu Đỗ Quyên hơn là những người muốn hiểu anh. Trong việc cảm nhận Đẻ Sách, tôi có một may mắn mà ít bạn đọc nào có được: là một người bạn của tác giả, nhưng lại không có điều kiện đi lại thường xuyên với anh. Điều kiện thứ nhất giúp tôi hiểu rõ được những thế mạnh của Đẻ Sách, điều kiện thứ hai giúp tôi đặt mình vào hoàn cảnh bạn đọc thông thường dễ hơn mà nhìn được những khiếm khuyết của nó.*)
———-*) Đáng lý còn phải viết thêm nữa… Đó là về Chương Mở có một cấu trúc đặc biệt hơn các chương khác, như là một câu chuyện rất ngắn, một giấc mộng thật sự có kèm theo một cuộc “thức giấc”. (Tôi có thư trao đổi với tác giả phân tích sự thức giấc ấy, tiếc là chưa “nhét” được sự thức giấc vào bài điểm sách này. Đó là một yếu tố vô cùng quan trọng, vì không có giấc mơ hay chuỗi mơ nào hoàn chỉnh nếu thiếu giây phút tỉnh dậy.) Hay về một vài thủ pháp tu từ khác chưa được mổ xẻ riêng, tỷ như về con Kangaroo./.
• Đặng Thơ Thơ (Nhà văn, Chủ biên Tạp chí Da Màu – Mỹ)
Một cuốn “tiểu thuyết thông minh”
1. Đẻ Sách là một tiểu thuyết làm tôi chú ý ngay từ khi đọc trang đầu tiên của chương “ăn tim” với từng câu chữ đều có sức lôi cuốn, dụ dỗ, gây nghi hoặc, cổ động (cả ngữ nghĩa lẫn thời gian, cả ý tưởng lẫn logic). Về truyện ngắn Thai Phu, rất thích, có lẽ đây là cách mở đầu hay nhất cho Đẻ Sách. Đọc một mạch hết 12 trang Chương 1 “Tim của ai cũng được” có cảm giác từ đầu đến cuối là kinh ngạc, sung sướng và hứng khởi. Một chương tiểu thuyết rất thành công, như cách tác giả định nghĩa về “tam giác trong truyện”, mọi thứ hòa quyện và ăn dính nhau không thể tách rời. Dàn bài, ý tưởng nền tảng, và giọng văn. Dàn bài: Không gian truyện nhiều tầng nhiều lớp, những nhân vật và những ý tưởng là các điểm nối kết các không gian nhỏ theo một cấu trúc toán học chính xác. Ý tưởng: Kết hợp nghề văn, chuyện “ăn tim” và tình yêu rất hay, mới mẻ, trẻ trung, táo bạo. Giọng văn: cực kỳ ranh mãnh, rành mạch và cùng lúc mang tính nước đôi giễu nhại, rất phù hợp với chủ đề của truyện; bằng giọng văn này những vấn đề tưởng như rất khó xử lý đã được kể tỉnh bơ, khơi khơi, dung dị mà lại thông minh và độc đáo. Chắc chắn cuốn tiểu thuyết này sẽ đưa ra những định nghĩa mới, phong cách mới, hướng đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
2. Tiểu thuyết ly kỳ quá làm tôi tò mò chờ đọc tiếp, sau Chương 1, với câu hỏi: Có mấy chương tất cả, vì nếu mỗi chương “ăn” một thứ trong cơ thể thì truyện phải đến mấy chục chương? Hôm cuối tuần, gặp những bạn văn trong vùng, thấy nhiều người đọc chương “ăn tim” trên damau.org; họ thích lắm, kinh ngạc vì lối viết lạ lùng này.
3. Nghe tác giả giải thích về “khái niệm/quan niệm” (concept) của Đẻ Sách, tôi đã hình dung trong đầu một cấu trúc tinh thần trong truyện: mỗi chương đi theo những triển khai khác nhau và mang đặc tính riêng, nhưng được kết cấu rất hài hòa và chặt chẽ trong kiến chung tổng thể. Như vậy, có thể đọc “tiểu thuyết” này như tiểu thuyết hoặc như một chuỗi những truyện riêng rẽ đều được. Nếu chỉ căn cứ vào Chương 1 “ăn tim”, tự nó đã hoàn chỉnh. Nhưng nếu sau này đọc chung với các chương khác, nó sẽ được trình bày dưới nhiều góc độ hơn. Mỗi một chương của Đẻ Sách là một căn nhà kính để phản chiếu, soi rọi và khuếch tán những chương khác.
4. “Ăn chân” đúng là khác “ăn tim”, vì tim thì mềm và toàn thịt, còn chân có cả xương, gân và móng (những móng vuốt này rất sắc, dày!), phải nhai lâu hơn, nhằn xuống kỹ hơn, nhưng ly kỳ lắm. Chương “ăn chân” có nhiều đối tượng cho sự châm biếm: giới viết văn làm báo, giới phê bình văn học, các triết gia, những lãnh tụ, rồi dân tỵ nạn, chế độ, lịch sử… Tính châm biếm mạnh hơn khi “ăn tim”, trùng điệp ở mỗi câu văn, chồng chất ý nghĩa, nghĩa nằm dưới từ trên chữ trong chữ. Nhiều đoạn nhiều câu rất mạnh, có thể làm tuyên ngôn hoặc châm (chích) ngôn! Nhiều chỗ cười đau bụng. Cảm tưởng rằng nhiều chủ đề phụ (những cặp nhị nguyên mâu thuẫn, chủ nghĩa Mút…) và chủ đề chính (ăn chân người tỵ nạn) là những kinh nghiệm của chính tác giả. Chương 2 “Theo chân những người tỵ nạn” là một symphony (bản giao hưởng) hẳn hoi, chứ không phải là một chương trong symphony; với nhiều tuyến nhân vật và hướng truyền đi nhiều luồng, nhiều khái niệm đan xoắn và cuộn nhau, không rời không gỡ được. Cặp mắt tác giả tinh nhậy lắm, thu hình rất nhanh, như cắt và cướp trọn thế giới trong một cái nhìn. Ấn tượng: Tác giả rất thông minh, có cái đầu là một kho lưu trữ và giải mã toàn bộ các tư liệu rắm rối trên đời. Kết luận: tiểu thuyết là lối thoát cho tác giả, có nghĩa là Đỗ Quyên phải viết tiểu thuyết nếu không cái đầu của mình sẽ vỡ tung vì chất chứa nhiều dữ liệu và lý luận quá! Nói theo kiểu Nedim Guersel, đây là tiểu thuyết của định mệnh, định mệnh của tiểu thuyết, của lưu đày của cứu chuộc…
5. “Ăn tóc” lâu hơn “ăn chân”, vì tóc thì phải nhai từng cọng, và tóc rất… khó tiêu! Chương 3 “Diễn đàn tóc” có hình thức kịch nhưng nội dung về vấn đề thi ca. Nếu đọc tới chương này thì thấy “ăn tóc” mang nhiều tính phê bình văn học nhất trong Đẻ Sách. “Ăn tóc” nhắm đến một đối tượng độc đáo hơn, một chủng loại hiếm quý hơn “ăn chân”. Các vấn đề đưa ra đậm đặc tư duy triết học hơn. Nhưng ý tưởng toàn chương rất original, các ẩn dụ thì tinh quái (như mọi khi), sự sắp xếp các hình ảnh, ẩn dụ và tư tưởng nằm trong một cấu trúc chặt chẽ, bổ sung nhau. Đếm không hết những câu văn hay, tạo nên hình tượng văn học, tức là cú-thành-văn ở chương này, trong đó có nhận định về tính phi lý, về tự do, về nhà văn lớn/nhỏ theo chiều kích dân tộc… Nếu được phép tôi chỉ đề nghị: có lẽ nên thêm một chút về “đĩ tính xung đột” để “Diễn đàn tóc” sinh động hơn khi có thêm các chuyển biến bên cạnh những lý luận sáng tác? Hình ảnh người bay ra khỏi cửa sổ ở cuối truyện bị văng mất tóc là một luồng gió thổi vào không khí dồn ép quá nhiều lý luận trong chương này.
6. Chương 4 “Người từ lòng bàn tay mà ra” có nhiều đóng ngoặc, mở ngoặc, kể chuyện và tự sự, dương đông kích tây theo kiểu “phân thân song kích”, dùng cái cụ thể (tay) để nói cái trừu tượng (viết, ngôn ngữ, lý luận) duyên dáng một cách rất “ác” và “ác” một cách bác học. Tác giả đã “nhập bọn” với James Joyce rồi đó! Viết dài hơi, biện chứng và mạch lạc các chương như thế, chắc sẽ có Đẻ Sách tập 2 thật đấy!
7. Qua những gì tác giả “bật mí”, tôi thích chờ đợi chương trước cuối liên quan đến lý luận phê bình văn học, vì nó đặc biệt. Tiểu thuyết viết về phê bình văn học? Khái niệm này quá hay! Chương ấy ra đời từ khái niệm phê bình văn học, rồi nó hình thành như một cách phủ định chức năng của phê bình văn học, và cuối cùng cho người ta thấy rằng, tác giả luôn là kẻ phê bình văn học đầu tiên, chính xác, tàn nhẫn, đam mê nhất? Và sự tự phê bình, tự phân tích – nó không thuộc phạm vi lý thuyết và được thực hành ngay trên văn bản, tác động thẳng vào văn bản? Hơn là những lý thuyết chỉ đi trên bề mặt văn bản, không có khả năng can thiệp vào văn bản? Và, nhà văn đích thực luôn luôn có sẵn trong mình một nhà phê bình, một hiện diện nước đôi?
8. Có thể nói Đẻ Sách là một cuốn tiểu thuyết thông minh (intelligent novel). Nó sẽ thích hợp với độc giả châu Âu là những người thích động não, hơn là độc giả ở châu Mỹ và ở Việt Nam tuy ưa thích văn chương nhưng đòi hỏi phải có tính đại chúng, dễ tiếp thu, có một cốt truyện cảm động và xen vài ý tưởng mang chiều sâu là đủ để thỏa mãn. Ngoài chữ “tiểu thuyết thông minh”, còn có thể gọi tiểu thuyết này là tiểu thuyết về cách viết tiểu thuyết.
• Đoàn Nhã Văn (Nhà phê bình – Mỹ)
Vài ý nhỏ sau khi đọc Đẻ Sách
1. Đẻ Sách là một tiểu thuyết thuộc loại phi-tiểu thuyết. Nó không nằm trong cái ý nghĩa tiểu thuyết cổ điển. Bằng một cấu trúc phi-tiểu thuyết, nó chứa đựng nhiều ý tưởng lạ, chuyên chở nhiều vấn đề. Do đó, tác phẩm luôn dẫn người đọc đến những bất ngờ. Đó là điểm mạnh của tác phẩm.
2. Nhà văn đã chọn đi một con đường khó, với tham vọng viết một lối viết khác, so với những tác phẩm đã in. Không những thế, qua mỗi chương sách, sự ấp ủ được tìm thấy đằng sau nội lực của nhà văn. Tôi nghĩ rằng, Đẻ Sách là tác phẩm rất kén chọn người đọc. Nhưng ai đọc được nó, bước qua được Chương 2, sẽ thấy rất “đã” ở những chương kế tiếp.
3. Đẻ Sách được viết bằng một lối viết thông minh, “bác học”, mang nhiều tính triết lý. Trong ý hướng ấy, có nhiều chỗ, nhà văn đã để nhân vật triết luận khá dài dòng. Ý tưởng hay, nhưng nhân vật càng triết luận về nó, càng làm loãng vấn đề, ví dụ như Phần 2.9 trong Chương 2.
4. Có thể thấy sự cố công mài giũa từng câu chữ của nhà văn để đúng với ý tưởng chủ đạo. Tuy nhiên, đây cũng là con dao hai lưỡi trong nghệ thuật. Bởi vì, nhà văn không để cho những câu văn ngẫu hứng chen vào trên những trang văn. Như một dương cầm thủ, nhà văn ép những ngón đàn đúng theo bài bản. Trong cái “đúng theo bài bản” ấy, với lối viết “bác học” như thế, khó tìm thấy những phút lên đồng đầy nghệ thuật của người nghệ sĩ trình diễn. Những nhân vật đã bước lên trang sách, nghĩa là họ đã trình diễn trong mắt bạn đọc. Và, những nhân vật này thiếu mất những giây phút lên đồng. Trong nghệ thuật, đôi lúc lại cần những phút lên đồng, như thế.
5. Viết về cái tục không phải là điều gì xa lạ hôm nay. Trong hướng này, nhân vật của Đẻ Sách nói về cái tục chưa tới. Họ chưa đưa cái tục lên hàng nghệ thuật, chưa đưa được những ví dụ để đời, để làm bảo chứng. Họ nhìn tình dục dưới con mắt kỹ thuật. Con mắt kỹ thuật khác với con mắt nghệ thuật. Viết về tình dục, theo tôi, nên soi rọi nó bằng con mắt nghệ thuật. Có vậy, điều tác giả gởi gắm mới ở lại lâu dài trong lòng bạn đọc.
Ngắn gọn, Đẻ Sách mang được nhiều điều lạ vào trong tác phẩm, hứa hẹn nhiều bất ngờ cho mỗi người đọc. Có thể nó sẽ tạo nên những tiếng vang tốt, nhưng theo tôi, tác phẩm vẫn còn những khiếm khuyết cố định.
• Vũ Đình Kh. (Nhà văn – Canada)
Chưa thấy một tiểu thuyết gia Việt Nam nào viết như vậy!
Trong tiểu thuyết hiện đại chưa ai viết với những thao thức đông-tây kim-cổ và đưa ra những ý tưởng xã hội, đời sống chính trị, dung tục phàm trần với một đống hổ lốn cho ra hồn văn chương như Đỗ Quyên. Chưa thấy một tiểu thuyết gia Việt Nam nào viết như vậy! Có chăng chút ít là Hồ Hữu Tường trước năm 1975 mà thôi. Đây là một lý thú đời tôi chưa từng có. Đọc thấy nặng nhọc nhưng thú vị và luôn hồi hộp, càng về cuối tôi càng sợ tác giả đi sai đề tài vạch ra. Trong cách tân sự viết, tác giả là người cách tân khác mọi người. Đỗ Kh. mang tính hình tượng và nhục dục nhiều nhưng ý thì không nhiều lắm. Đẻ Sách bao trùm mọi thứ, mà nhiều duy lý hơn.
Chương 1: Quả là kinh khủng! Ý tưởng lạ, ma quái mà lôi cuốn không ngừng; tri thức cao, dù truyện không rõ ràng, đều đặn nhưng lại mạch lạc vô cùng và sắc bén. Bởi, theo tôi đây là thể loại mới – thể loại tự-thuật-tùy-bút-kiểu-viễn-tưởng mang hàm-ý-thơ. (Mà mới thật! So với nhiều loại mới khác, như Nguyễn Bình Phương trong Ngồi chẳng hạn). Chương Mở là một viễn tưởng thích thú. Đọc chương này, càng lúc càng thấy thắc mắc. Và đến hết mới biết mình bị “lừa gạt” giữa cơn mê với sự “cà trớn” của tác giả cho đeo cái dương vật “của hắn” lủng lẳng bên dưới truyện.
Đọc Chương 2 thấy sướng rên! Muốn kêu lên: “Viết về đ., về c. kiểu thế này thì chả có thằng cha nhà văn nào viết thế cả!”. Nhưng đấy vẫn là văn chương bác học chứ không thô tục. Tôi mê man không ngừng đọc chương này. Tính triết lý cao, lại dẫn dắt độc giả say mê suy ngẫm những gì tác giả muốn diễn đạt. Có một đoạn viết không dấu chấm phẩy gì hết, nhưng đọc không mệt, mà ý và mạch văn vẫn chảy đều đều. Tôi hy vọng, nếu được in ra, cuốn tiểu thuyết này sẽ làm bùng nổ một đề tài lớn của văn học Việt Nam trong và ngoài nước.

Chương 3 có nhiều đoạn thú vị và dí dỏm. Vừa đọc, tôi vừa cười chúm chím thấy vui. Chương này không nặng nề như Chương 4. Nghĩa là càng lúc sự tăng tốc của chữ và nghĩa của tác giả càng cao theo trí tưởng tượng. Cái kết của “ăn tóc” mới là điều lạ lùng: như sự bạc đầu hiển nhiên của mọi người về già, cái vô ngôn của ngôn ngữ là khi “không sắc màu dân tộc. Đó là đỉnh điểm của nghệ thuật!”
Chương 4 khó nhọc nhất. Tôi phải đọc thật chậm hai đêm mới hết. Tinh ý cao, có tư tưởng hàn lâm. Người không chịu khó có thể sẽ không đọc hết chương này. Tôi thích nhất câu kết: Con người sinh ra từ bàn tay! Một câu kết mà như một bài thơ cho cả chương truyện.
Chương 5 nhẹ nhất trong Đẻ Sách, nhưng nó lại cởi hết tất cả “áo quần văn chương”! Làm vậy có nên chăng? Đọc, tôi ghi chú từng ý một và học ra nhiều cái hay. Cuốn tiểu thuyết này dạy tôi hiểu thế nào là tính trừu tượng trong văn chương, về sự cải cách trong suy nghĩ. Đây là tác phẩm vượt không gian và thời gian.
Chương Kết: Bàng hoàng! Đó là phần xuất sắc nhất của cuốn sách. Nó nặng nề hơn, mang hơi hớm triết lý hơn, và muốn làm mới những cái nhìn và suy tưởng trong văn học nơi ngòi bút của các nhà văn Việt vốn sống theo bầy đàn, cây đa cây đề… bao thập kỷ qua làm chết bao nhiêu cây bút trẻ muốn làm mới văn chương. “Người ăn thịt người đẻ sách” là một dũng cảm mà tôi cho là thành công, vì dám có “tuyên ngôn” mạnh mẽ đến vậy! Tôi nghĩ nó mang tính hiện sinh, muốn cải cách thi ca, tiểu thuyết
Nguồn: Vanchuongviet.org

Lê Thị Hồng Nhung đăng bài

Exit mobile version