(Đọc “Khúc hát những dòng sông” – tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Thế Quang, Nxb Hội Nhà văn, 2013)

Trước thềm Xuân mới 2013, vào lúc các tên tuổi nổi tiếng đăng đàn diễn thuyết tại cuộc hội thảo nghiên cứu, lý luận sang trọng bàn về cách thể hiện đề tài lịch sử trong văn học – nghệ thuật thế nào cho đúng, cho hay, thì ở một ngõ nhỏ tại thành Vinh, một “cây bút trẻ” đang cặm cụi và lặng lẽ viết những chương mới của cuốn tiểu thuyết lịch sử thứ ba của đời mình: Thông reo Ngàn Hống. Đó là Nguyễn Thế Quang, từng là giáo viên văn trường Huỳnh Thúc Kháng, nay đã ở tuổi “cổ lai hy”!

Tôi gọi anh là “cây bút trẻ” vì tác giả chỉ mới công bố tác phẩm đầu tay vào năm 2010: tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Du. Và khi tác phẩm thứ hai: Khúc hát những dòng sông, cuốn tiểu thuyết về bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa ra mắt bạn đọc thì 5 chương tiểu thuyết Thông reo Ngàn Hống đã được hoàn thành…

*

Trong một lần Nguyễn Thế Quang vào Huế tìm tư liệu, gặp gỡ các nhà nghiên cứu Huế để hiểu thêm cuộc đời bà Hoàng Thị Loan, tôi có nói rằng “viết tiểu thuyết về một nhân vật như Hoàng Thị Loan là rất khó, vì liên quan đến Cụ Hồ, bạn không thể phóng trí tưởng tượng đi xa, không thể hư cấu tùy thích và có lẽ nên đổi tên sách cho dễ đưa ra thị trường…” Dù vậy, Nguyễn Thế Quang vẫn quyết thực hiện đề tài ấp ủ đã lâu và giữ nguyên tên sách vì nó gắn với hồn cốt tác phẩm được “gợi ý” từ câu hát dân gian: “… Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”

Bìa cuốn tiểu thuyết lịch sử “Khúc hát những dòng sông” của Nguyễn Thế Quang

Quả là phải có niềm đam mê và bản lĩnh, Nguyễn Thế Quang mới dám lao vào một đề tài khó, lại không chiều nịnh thị hiếu của bất cứ ai, nhất là trong thời buổi “văn hoá đọc” đang bị thu hẹp như hiện nay. Niềm đam mê và bản lĩnh ấy xuất phát từ ý thức trách nhiệm của một cây bút muốn tác phẩm của mình có ích với cuộc đời. Khúc hát những dòng sông viết về Hoàng Thị Loan mà cũng là viết về NGƯờI Mẹ, ngọn nguồn sinh thành nên những giá trị cơ bản nhất của đời sống dân tộc, nhưng lại chưa có nhiều tác phẩm xây dựng được nhân vật người mẹ thành công. Nguyễn Thế Quang có lần đã tâm sự với tôi đại ý như thế. Thật ra, nhân vật người mẹ đã hiện diện, có khi là nhân vật chính của nhiều tác phẩm như Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Gia đình má Bảy của Phan Tứ, Hòn đất của Anh Đức… nhưng các tác phẩm này chủ yếu thể hiện người mẹ anh hùng trong chiến đấu. Nguyễn Thế Quang, qua Hoàng Thị Loan, muốn dựng một người mẹ với biết bao lo toan, dám vượt qua mọi chướng ngại và cám dỗ, hy sinh tất cả chỉ vì con, muốn con nên NGƯờI – chữ “người” viết hoa! Đây chính là chức năng và cũng là vẻ đẹp chủ yếu của người mẹ.

Chính vì thế, mở đầu Khúc hát những dòng sông, sau những trang viết miêu tả cảnh mẹ con Hoàng Thị Loan trên bãi dâu bên sông Lam đầy thơ mộng, người mẹ phải đứng trước một sự lựa chọn khó khăn và bà đã  có một quyết định can đảm, không phải người phụ nữ nào cũng dám làm: rời xa tổ ấm làng quê thân thuộc, bồng bế con nhỏ theo chồng vào “Kinh”, một vùng đất xa lạ, thân cô, thế cô, để có thể giúp chồng ăn học thành tài và nuôi dạy con nên người.

“… Đời con gái như con thuyền lênh đênh mười hai bến nước…Ta đã có một bến đậu yên bình, rất yên bình với một người chồng nghèo mà giỏi giang giàu nghị lực- một ông cử danh giá trong vùng và những đứa con ngoan. Nhưng ta phải ra đi, đi đến những bến bờ xa lạ đầy sóng gió để cho chồng có danh vọng hơn, cho con cái lớn khôn hơn. Dù khó mấy ta cũng phải đi. Là người đàn bà, làm vợ có bổn phận lo cho sự nghiệp của chồng, làm mẹ phải biết dạy con nên người. Ta phải đi…”.

Ngày rời làng quê, ngoái nhìn lại con sông Lam lần cuối, con sông “như dải lụa đẹp trong trẻo trải rộng trước mắt, con sông biết bao kỷ niệm buồn vui, con sông của tình yêu đôi lứa…”  Hoàng Thị Loan đã tự nhủ mình như vậy.

Với quyết tâm đó, người mẹ trẻ đã vượt qua biết bao thử thách khó khăn mà ngòi bút tác giả chưa hẳn đã diễn tả hết. Chỉ riêng chuyện vượt chặng đường gian nan từ Nam Đàn, qua Đèo Ngang vào Huế, với quang gánh trên vai và hai con nhỏ chưa đủ sức tự lập, ngày nắng giữa bãi cát, đêm mưa trên đèo, rồi thú dữ rình rập… đã là một kỳ tích.

“…Đường qua đèo Ngang dài sáu cây số, hơn một nghìn bậc lên xuống nối nhau khúc khuỷu, gập ghềnh. Trai tráng một mình đi lên càng mệt đi xuống càng khó, sẩy chân là rơi xuống vực. Anh chị cử Sắc với hai con nhỏ chật vật từng bước một, từng bậc một. Gió rét mà mồ hôi ướt đẫm cả áo. Đôi dép da bò chưa đầy một buổi đã xước đã rách…”

Cho dù vậy, nỗi gian nan trên đường vào kinh chỉ là thách thức ngắn hạn về thể lực, không thấm gì so với những khổ ải mà bà phải gánh chịu trong những năm ở Huế, với bao nỗi lo toan suốt năm này sang năm khác. Và cho dù nhiều lúc túng thiếu, buôn bán không đủ tiền lo bữa ăn hàng ngày, Hoàng Thị Loan vẫn giữ được cuộc sống thanh sạch, không bị sa ngã khi bị Quản cơ Tấn đem vàng bạc đến dụ dỗ.

“ – Tôi biết. Nhưng chồng o đang gặp khó khăn, con o đang đói. O chiều tôi một lúc là chính o giúp chồng  làm được việc lớn, làm cho con o được học hành đến nơi đến chốn.

Chị cử Loan dứt khoát:

– Không! Không bao giờ! Thầy về ngay đi!

Không kiềm chế được ngọn lửa dục bừng bừng, chưởng cơ chụp lấy tay Loan rồi đứng dậy, bước nhanh sang bên kia bàn, dang tay phải ra để ôm lấy tấm thân ngà ngọc thơm tho của người đẹp. Loan vùng mạnh  tay ra, vụt đứng dậy, lui vào góc nhà. Quản cơ lấn tới. Bỗng chị đưa tay ra phía sau, rút cái soạt và dơ ra một cây dao nhọn sáng, sắc lẻm. Quản cơ đứng sững lại.

– Ông dừng lại, nếu bước thêm một bước thì…”

Điều đặc biệt hơn là Hoàng Thị Loan không chỉ cứng cỏi và quyết liệt chống lại sự cám dỗ và mọi thiếu thốn về vật chất, mà trong mọi hoàn cảnh – từ buổi hai mẹ con rời bờ sông Lam cho đến mỗi chỗ dừng chân trên đường vô xứ Huế, rồi những buổi dẫn Nguyễn Sinh Cung đi thăm các đình chùa nơi kinh đô, nghe hát vè “Thất thủ kinh đô”… – bà đều khơi gợi và giảng cho con nghe về những tấm gương giàu nghĩa khí của tiền nhân, về cách đối nhân xử thế, cả về những vẻ đẹp của các điệu dân ca…Ngày ngày, bà dõi theo mỗi đường đi nước bước của con. Một lần, chỉ mỗi việc Sinh Cung hái nhãn dọc đường Hộ Thành về cho mẹ, tim bà đã nhói đau, buồn và giận khôn cùng. “…Con tự bẻ nhãn của người khác là con làm việc bất chính…Con tự lấy của người khác dù chỉ một chùm nhãn nhưng mọi người sẽ chê cười ông bà, chê cười cả dân xứ Nghệ chúng ta. Nỗi nhục này làm sao mà xoá được!?.”

… Chị cử Loan lắng nghe lòng bao lo lắng. Làm Mẹ, đẻ con ra, phải lo làm nuôi con đã đành nhưng dạy con là điều hệ trọng hơn hết. Không lo dạy con, không biết dạy con, con hư hỏng đau lòng mình, nhục gia tộc mà làm hại cả làng xã. Cha ông đã nói “Đức hiền tại mẫu”, để con hư, người Mẹ thật có tội với mọi người và có tội với ngay cả đứa con của mình,”

Bình luận về nhân vật Hoàng Thị Loan trong tiểu thuyết Khúc hát những dòng sông, TS Nguyễn Thế Kỷ, Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận – Phê bình Văn học – Nghệ thuật Trung ương, trong “Lời giới thiệu” cuốn sách đã viết: “Chân dung Hoàng Thị Loan – thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lên rõ nét và sinh động với tính cần cù, quả cảm, tình yêu thương đằm thắm, đức hy sinh vô bờ và niềm mong mỏi cháy bỏng rèn luyện con nên người. Bà đã có ảnh hưởng lớn trong việc hình thành nhân cách cao đẹp của cậu bé Nguyễn Sinh Cung thời thơ ấu, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của Nguyễn Tất Thành, Nguyễn ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này. Con người Bà hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người Xứ Nghệ, của Người Mẹ Việt Nam. Đọc cuốn sách này ta bắt gặp hình ảnh mẹ ta, bà ta, làm ta nghĩ đến bao người mẹ khác. Qua từng trang viết, ta cũng nhìn thấy được hình ảnh cậu bé Nguyễn Sinh Cung hiện lên rất sinh động, ngày càng trưởng thành dưới sự dạy bảo, dìu dắt của Mẹ để có hành trang vững chắc cho những chuyến đi xa vì nghĩa lớn…”

Tôi nghĩ là Khúc hát những dòng sông còn nhiều điều đáng để bạn đọc khám phá. Ví như ở phần “Vĩ thanh”, khi tác giả phóng trí tưởng tượng sang trời Tây, dựng hình ảnh Nguyễn ái Quốc đứng bên bờ sông Seine (Paris) vào năm 1920, tưởng nhớ đến người mẹ đã quá cố ở trời Đông xa cách:

– “Mẹ ơi! Mẹ là tất cả! Mẹ là ngọn nguồn, là nơi bắt đầu của những điều tốt đẹp mà con làm được. Trong dòng chảy lạnh lùng của thời gian, trong dòng đời dữ dội, qua dông bão và lửa cháy, Mẹ như dòng sông trong trẻo của tình yêu và đức hy sinh nuôi dưỡng tâm tính con, gột rửa bao lỗi lầm và tiếp cho con bao sức mạnh, vượt qua bao thác ghềnh  để hôm nay con tìm được hướng đi. Đường còn dài, gian nguy còn lắm, nhưng con có Mẹ, con sẽ làm được điều Mẹ và con cũng như cả Dân tộc đang mong…”

Một cái kết “có hậu” có thể sẽ giảm độ bi thương sau chuyện Hoàng Thị Loan đã từ trần khi sinh đứa con thứ tư trong cảnh đói nghèo. Một sự “hư cấu” nhưng khá hợp lý. Tôi nghĩ là sẽ có những cách nghĩ khác nhau về cách kết thúc Khúc hát những dòng sông …

*

Với Nguyễn Thế Quang, khi cuốn tiểu thuyết lịch sử này đến tay bạn đọc thì anh đã “kết thúc nhiệm vụ” đối với Khúc hát những dòng sông. Và trong ngõ nhỏ ấy của thành Vinh, cây bút tiểu thuyết Nguyễn Thế Quang lại tiếp tục làm “sống lại” một nhân vật lịch sử nổi tiếng nữa: Ông quan – Nhà thơ tài hoa Nguyễn Công Trứ trong tiểu thuyết Thông reo Ngàn Hống.

“… Nàng ngồi xuống, Nguyễn Công Trứ vội trao roi chầu cho trưởng trùm rồi giơ tay cầm lấy đàn “để ta chơi”. Trùm phường gõ ba tiếng vào trống-giục, Nguyễn Công Trứ nói với Trịnh Thị: “Ta chơi bài Hữu duyên thiên lý” nhé. Nàng mìm cười gật đầu. Đôi bàn tay thon thả rung lên gõ nhịp, tiếng đàn trong tay Nguyễn cũng ấm áp hòa theo…”

Xin phép tác giả được giới thiệu trước một đoạn trong chương 4 của cuốn tiểu thuyết mới đang trên đường hình thành của Nguyễn Thế Quang. Một con đường không ai định trước được, không thiếu niềm vui sáng tạo, nhưng chắc chắn là vô cùng nhọc nhằn và không ít thử thách. Chúng ta tin tác giả sẽ đi đến đích một cách vẻ vang với sức xuân của một “cây bút trẻ” đã qua thử thách. Thì đó! Hẳn là bạn đã thấy hương Xuân nồng nàn qua tiếng đàn, tiếng hát trong đêm vị quan-nhà thơ tài hoa Nguyễn Công Trứ ghé quê nhà trước khi dấn bước vào cuộc chiến đấu với những bãi biển hoang vu, mở mang lãnh thổ cho Tổ quốc Việt Nam…

Nguồn: Văn nghệ số 12/2013

Exit mobile version