Theo các nhà tướng số học, người tuổi Thân có một số đặc điểm về tính cách như: thông minh, có tài, hiếu động, phản ứng nhanh, biết nắm bắt thời cơ, ý chí kiên định, niềm tin vững vàng, ý thức cạnh tranh mạnh mẽ, tính toán khôn khéo, đầu óc tỉnh táo. Họ đa tài đa nghệ, cảm nhận tốt, ăn nói hài hước, giỏi ứng phó, có sách lược rõ ràng, làm việc chín chắn, giao tiếp xã hội tốt, có thể nhanh chóng tạo dựng quan hệ với người khác, song không thích bị người khác chi phối, thích tìm kiếm sự vật mới mẻ, biện luận giỏi, mong muốn thể hiện mình một cách mạnh mẽ,… VNQĐ điện tử xin giới thiệu cùng độc giả những nhà văn tuổi thân có thành tựu văn chương dưới đây:

 

 

9nv

 

9 nhà văn tuổi thân nổi tiếng


4. NGUYỄN QUANG SÁNG

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh Nguyễn Sáng, sinh ngày 12/01/1932 (năm Nhâm Thân), tại xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và mất ngày 13/2/2014. Ông đã từng nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, năm 2001 cho các tác phẩm: Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng, Chiếc lược ngà, Đất lửa.


 

Năm 14 tuổi, Nguyễn Quang Sáng đã xung phong vào bộ đội, làm liên lạc cho Liên Chi 2. Được hai năm (1948) đơn vị cử ông đi học thêm văn hóa ở Trường trung cấp kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Tốt nghiệp ông về công tác tại Phòng Chính trị, Bộ Tư lệnh Quân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu Phật giáo và đạo Hòa Hảo. Mãi đến 1955, Nguyễn Quang Sáng mới theo đơn vị tập kết ra Bắc và chuyển ngành với quân hàm chuẩn úy. Khi ấy ông về làm việc ở Phòng Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam được 3 năm, đến 1958, ông về công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên ở Tuần báo Văn nghệ và Nhà xuất bản Văn học,…

Thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở cả hai miền Nam- Bắc cam  go và quyết liệt nhất, 1966, ông xung phong vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1972, ông quay trở lại miền Bắc tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn.

Sau ngày đất nước thống nhất, ông về thành phố Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Hội Nhà văn thành phố các khóa I, II và III. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là lớp hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa II và III, và là Phó Tổng Thư ký Hội khóa IV.

Hơn 60 năm cầm bút viết văn, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ gồm 32 tác phẩm văn xuôi, trong đấy có những tác phẩm tiêu biểu như: Con chim vàng (Nxb Kim Đồng, 1957); Người quê hương (Nxb Văn học, 1960); Đất lửa (Nxb Văn học, 1963); Câu chuyện bên trận địa pháo (Nxb Văn học, 1966); Người con đi xa (Nxb Tác phẩm mới, 1977); Cánh đồng hoang(Kịch bản phim, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1981); Chiếc lược ngà (Nxb Văn học, 1962);  Dòng sông thơ ấu (Nxb. Kim Đồng, 1985); Con mèo Fujita (Nxb Hội Nhà văn, 1990), Mùa gió chướng(Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1999); Nó và tôi (Nxb Kim Đồng, 2002), Tạo hóa dưới trần gian (Nxb Trẻ, 2003).


5. HOÀNG TÍCH CHỈ

Nhà văn Hoàng Tích Chỉ sinh ngày 01/9/1932 (tuổi Nhâm Thân), tại xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình có đông anh em cùng cha khác mẹ, nhưng hầu hết đều nổi tiếng như anh cả là nhà báo Hoàng Tích Chu, anh hai họa sĩ Hoàng Tích Chù, từng được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, đợt II, năm 2001 về lĩnh vực hội họa, anh ba là nhà viết kịch Hoàng Tích Linh và bác sĩ Hoàng Tích Lộ, còn Hoàng Tích Chỉ là em trai út. Thân phụ của ông là cụ Hoàng Tích Phụng, một nhà nho từng làm đến chức Tri phủ Huấn học, song lại dấn thân vào phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục với tinh thần chấn hưng dân tộc, và ra đi trong sự thanh tịnh của cuộc đời…

 

 

Nói đến Hoàng Tích Chỉ, không ít người nghĩ rằng ông chỉ là nhà biên kịch điện ảnh thuần túy. Nhưng thực tế không phải hoàn toàn là như vậy. Bởi ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ rất lâu và đã có trên dưới chục cuốn tiểu thuyết đã được xuất bản. Mặt khác, kịch bản điện ảnh của Hoàng Tích Chỉ có nhiều tác phẩm bắt nguồn từ những cuốn tiểu thuyết của chính tác giả và do ông tự tay chuyển thể, nên rất có rất giá trị về mặt văn chương, đặc biệt là ở những kịch bản phim truyện nhựa. Chính vì thế mà ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật năm 2012 với tư cách là nhà viết kịch bản văn học cho điện ảnh, chứ không phải về các lĩnh vực khác của ngành này.

Trước và sau đấy, nhà văn, nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ đã cho ra đời nhiều tiểu thuyết, kịch bản phim truyện và phim tài liệu có giá trị. Không những thế nhà văn, nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ còn viết và đạo diễn nhiều thể loại khác với hàng chục tác phẩm có giá trị như: Kịch bản phim truyện: Trên vĩ tuyến 17 (Bông sen bạc LHPVN lần thứ I), Biển gọi (Bông sen bạc LHPVN lần thứ I), Vĩ tuyến 17: Ngày và đêm (Bông sen bạc LHP VN lần thứ II- giải thưởng Hoà bình thế giới của Liên bang Xô viết tại LHPQT Matxcơva 1973, giải vàng Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Trà Giang trong vai Dịu), Em bé Hà Nội (Bông Sen vàng LHPVN lần thứ III – giải đặc biệt LHPQT Matxcơva 1975), Mối tình đầu (Bông sen bạc LHPVN lần thứ V. Giải Nhất chính thứccủa tổ chức Unesco tại LHP Karlovy Vary 1978, Giải Bạc LHP Tân hiện thực lần thứ XXI tại Cộng hòa Italy, 1981), Đất mẹCuộc chia tay mùa hạ, Đêm cuối năm, Đứa con người hàng xóm, Tọa độ chết (kịch bản Hoàng Tích Chỉ và A.Láp-xin; đạo diễn Nguyễn Xuân Chân và X. Gatxparốp), Săn bắt cướp…; Kịch bản phim truyền hình: Những đứa con đất cảngLục Vân Tiên…; Biên kịch phim tài liệu: Thành phố lúc rạng đông…; Đã xuất bản các tiểu thuyết: Bão tuyến, Mắt bãoTướng cướp hoàn lương, Bóng ma rừng Sác,…

Đấy chính là những cái mà với nhiều người trong cuộc đời cầm bút của mình chẳng dám mơ và có không ít người nghĩ rằng làm được như vậy là do tài năng cá nhân, còn với nhà biên kịch lão thành và tài ba Hoàng Tích Chỉ lại cho rằng đấy là do cơ duyên mà có. Cái cơ duyên lớn nhất của người nghệ sĩ chính là biết đồng hành cùng cuộc sống chiến đấu bảo vệ và dựng xây Tổ quốc, biết cảm thông chia sẻ với những nỗi đau, sự huy sinh, mất mát của đồng bào mình, xót thương cho số phận con người trong những lúc bom rơi đạn lạc, hoạn nạn, chiến tranh hay sự đói nghèo, khó khăn của cuộc mưu sinh trong bộn bề những lo toan đời thường luôn trực bám, bươn chải trăm bề những mong được ngẩng mặt, rạng mày lên như bao người khác trên thế gian này. Xét về phương diện này thì trong gần nửa thế kỷ cầm bút sáng tác văn chương và biện kịch điện ảnh, Hoàng Tích Chỉ thực sự đã có được cơ duyên lớn ấy, mà không phải bất cứ nhà văn, nhà biên kịch nào cũng có được.


6. ĐỖ CHU

Nhà văn Đỗ Chu tên thật là Chu Bá Bình, sinh ngày 5/2/1944 (năm Giáp Thân), tại xã Quảng Minh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Thưở thiếu thời, ông theo học trường Hàn Thuyên (Bắc Ninh), một ngôi trường khá nổi tiếng với nhiều học sinh đỗ đạt cao. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, đầu những năm 60, Đỗ Chu đã có các truyện ngắn như: Ao làng, Thung lũng cò Mùa cá bột đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Thời ấy, không ai nghĩ những truyện ngắn này được viết bởi một cậu học sinh phổ thông tỉnh lẻ mới mười tám tuổi vừa bị lưu ban lớp 10. Năm sau, 1963, ba truyện ngắn ấy giành giải Nhất cuộc thi của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật, năm 2012 với các tác phẩmMột loài chim trên sóng (truyện ngắn) và Tản mạn trước đèn (tiểu luận).

 

 

Chỉ cần đọc tên tập tùy bút Thăm thẳm bóng người của nhà văn Đỗ Chu đủ biết ông là người kỹ càng đến mức nào trong chuyện chữ nghĩa. Có người cho rằng trên văn đàn văn Việt, Đỗ Chu chỉ xếp sau cụ Nguyễn Tuân, một bậc thầy về cái khoản tùy bút, mà giới văn chương quen gọi là văn chương sạch.

Với nhà văn Đỗ Chu, nguồn mạch văn chương dường như không lúc nào ngừng dạt dào tuôn chảy, đúng như ông đã tự bạch: “Có con sông Thương chảy vào đời tôi, lại có con sông Cầu chảy qua đời tôi, và có những trang sách hay nâng bước tôi đi theo năm tháng. Nhiều trang trong đó là của các nhà văn cùng thời với mình, tôi lấy làm vinh hạnh đã được đọc họ. Phần nữa là của một nhân loại tài trí đã dành dụm cả ngàn năm để hôm nay gửi tới chúng ta. Đó là những đôi cánh tinh thần đủ sức nâng bổng ta lên, đủ sức kéo ta đứng dậy”.

 

Theo Viên An – Văn nghệ quân đội

Exit mobile version