Năm 1935, triết gia Bergson để lại những lời chỉ dẫn liên quan tới tiểu sử của ông: “Không cần thiết phải nhắc đến gia đình tôi: cái đó không quan hệ với ai hết. Hãy nói tôi sinh ở Paris, phố Lamartine. Nếu cần thì hãy nói tôi không cần phải được nhập quốc tịch, như người ta cứ cố tình bảo… Hãy luôn luôn nhấn mạnh rằng lúc nào tôi cũng yêu cầu người ta đừng để tâm đến cuộc đời tôi, mà hãy chỉ quan tâm đến các công trình của tôi. Lúc nào tôi cũng bảo vệ ý tưởng rằng đời một triết gia không chiếu một tia sáng nào vào học thuyết của ông ta, và không liên quan đến công chúng. Tôi ghê tởm sự phơi bày ấy, ở những gì liên quan đến tôi, và tôi sẽ mãi mãi nuổi tiếc vì đã cho in các công trình, nếu việc xuất bản đó kéo theo sự phơi bày này.” Khó mà cương quyết hơn trong sự vứt bỏ triệt để thể loại tiểu sử. Sự gay gắt này được chia sẻ khá rộng rãi ở các triết gia. Heidegger mở đầu bài giảng về Aristote của ông vào năm 1924 như sau: “Mọi điều đáng kể trong nhân cách một triết gia là biết được ông ta sinh vào thời điểm nào, rằng ông ta đã làm việc và đã chết.” Đọc sự phán quyết đầy cao ngạo dành cho tiểu sử ấy, ta kinh ngạc trước sự đối nghịch của nó với hiện tình xuất bản ở trong lĩnh vực này.
Một thể loại không thuần khiết và bị hạ giá
Tính cách pha trộn của thể loại tiểu sử, việc khó xếp nó vào một bộ môn nghiêm túc nào đó, sự giằng co giữa các ý đồ mâu thuẫn nhau như thiên hướng tiểu thuyết, mối quan tâm đến kiến thức, nội dung của một lời phán bảo đạo đức về tính chất khuôn mẫu, làm cho nó trở thành một tiểu thể loại từ lâu nay gây ra những điều sỉ nhục và phải gánh chịu sự thiếu hụt về suy tư. Bị giới bác học trường đại học khinh rẻ nhưng thể loại tiểu sử lại có một thành công trong công chúng, một thành công chưa từng bao giờ phai nhạt, chứng tỏ nó đáp ứng một mong muốn, và không bị những mốt mới tác động tới. Hẳn nhiên tiểu sử cung cấp cho độc giả cái ảo tưởng có được một sự xâm nhập trực tiếp vào quá khứ, và với tư cách ấy có quyền năng đem ướm bản thân độc giả vào với nhân vật được viết tiểu sử. Thêm nữa, ấn tượng về sự tổng thể một người khác, cho dù có nhiều tính chất ảo tưởng đến đâu, đáp ứng mối quan tâm thường hằng về xây dựng cái tôi trong sự cọ xát với cái khác.
Là thể loại không thuần nhất, con hoang, không thuộc về văn chương cũng không có sự nghiêm ngặt của các môn khoa học nhân văn, tiểu sử đã bị chìm khuất trước cái nhìn của cái vẫn được coi như là một tri thức bác học suốt trong thế kỷ XIX và gần như toàn bộ thế kỷ XX. Một sự khinh rẻ dai dẳng đã kết án thể loại này, cái thể loại hẳn là quá gắn chặt với phần thuộc về cảm xúc và với sự nhấn mạnh quá đà vào sự chủ quan. Một bức tường từ lâu nay đã được dựng lên ngăn tiểu sử khỏi lịch sử, nó bị coi như là yếu tố ký sinh có thể làm khuấy động các mục đích của tính chất khoa học. Thể loại này đã bị buông hay đúng hơn là bị bỏ rơi cho những người mà người ta có thể gọi là “lính đánh thuê” của tiểu sử, với thành công trong công chúng cũng lớn tương đương với niềm khinh bỉ mà nó phải gánh chịu khi trở thành đối tượng của cộng đồng học giả. Đó là các tập sách trong bộ “Giấc mơ dài nhất lịch sử” của Jacques Benoist-Méchin, những vị quân vương vĩ đại của nước Nga được Henri Troyat kể lại, vô số tiểu sử viết bởi bàn tay André Castelot và Alain Decaux, bởi Pierre Gaxotte, bởi Jacques Chastenet, bởi Georges Bordonove và rất nhiều người khác nữa. Các yếu tố làm nên những thành công này thì ai cũng biết: một ít máu đổ, rất nhiều tình dục, các bí mật phòng the, những chuyện tình ái lằng nhằng và các tranh chấp ảnh hưởng, những giai thoại đủ mọi kiểu, với điều kiện là chúng được viết ra theo lối thật hoạt kê.
Ngày nay ta có thể nói tới một hành động rút đập ngăn nước thực thụ, đã bắt đầu từ giữa những năm 1980, và tới một cuộc biến chuyển bối cảnh vào năm 1985. Trong riêng năm ấy, 200 tiểu sử mới được ấn hành bởi 50 nhà xuất bản, và sự lạc quan của các ông chủ xuất bản là rất dễ nhận thấy trong lĩnh vực này, trong khi bầu không khí chung rất ảm đạm. Phong trào không ngừng được mở rộng, và Hiệp hội Các Hiệu sách ghi nhận 611 tiểu sử vào năm 1996, 1.043 cuốn vào năm 1999, chưa tính đến vô số tự truyện, hồi ký và lời tự thú. Ngay khi bức tường sụp xuống, ta liền được dự vào một sự bùng nổ tiểu sử thực thụ, nó chiếm lĩnh các tác giả cũng như công chúng trong một cơn sốt tập thể kéo dài mãi cho đến tận bây giờ. Thể loại này không chỉ chạm tới những người hành động, mà càng lúc càng có thêm các nhà văn, đến lượt mình đã trở thành đối tượng cho sự tò mò và cho công việc của nhà viết tiểu sử. Tuy nhiên, nếu nhìn thật rõ những gì nhà tiểu sử có thể mang lại khi đóng vai sử gia mà làm sống lại một “vĩ nhân” trong quá khứ được biết đến vì những hành động của mình, người ta có thể tự hỏi nhà tiểu sử có thể giữ lại gì từ một triết gia, một nhà văn, một nhà điện ảnh hoặc mọi kiểu người sáng tạo khác, những gì đã có ở trong tác phẩm của họ? Theo đúng định nghĩa con người suy tư cần được đọc qua những gì anh ta đã xuất bản chứ không phải trong những gì nằm ở bên riềm.
Các tiểu sử ngày nay đã bước ra khỏi cái hang và tự nuôi dưỡng bằng những thành tựu của lịch sử theo lối bác học cũng như tổng thể các khoa học nhân văn. Thậm chí chúng còn trở thành nguồn cho các đổi mới. Ngày nay thể loại tiểu sử, hơn bao giờ hết, hiện lên như một khu vực đầy ưu tiên thậm chí còn được cả các nhà văn tham gia.
Từ năm 2005, nhiều tiểu thuyết gia, và cả những tiểu thuyết gia xuất sắc nhất, bắt đầu say mê với thể loại này. Chẳng hạn như trường hợp của Yannick Haenel, kể lại theo cách của mình, ở hình thức hư cấu, cuộc đời Jan Karski, một trong những chứng nhân chính yếu của bộ phim Shoah của Claude Lanzmann. Gilles Leroy thì tiến hành việc kể lại cuộc đời người vợ của Francis Scott Fitzgerald, Zelda, trong Alabama Song [đã có bản dịch tiếng Việt], và Jean Echenoz đã không hề vi phạm gì các đòi hỏi văn chương khắt khe của riêng ông khi làm sống lại ba cuộc đời cho độc giả của mình. Ông vừa hoàn thành một bộ ba tác phẩm trong đó ông lần lượt đến viếng thăm lại những ngày cuối đời của Ravel (NXB Minuit, 2006), hành trình của Emil Zátopek (Chạy, NXB Minuit, 2008) và hành trình của một kỹ sư đặc biệt sáng tạo, Nikola Tesla, người đã cách mạng hóa hệ thống phân phối điện trong cuộc biến chuyển công nghiệp lớn đầu tiên (Những tia chớp, NXB Minuit, 2010).
Những nan đề của công việc
Giải Nobel văn chương năm 2003, nhà văn Nam Phi J. M. Coetzee, vừa cho xuất bản vào mùa thu năm ngoái, 2010, tập thứ ba trong bộ sách tự thuật hư cấu của mình: nhà văn tưởng tượng rằng sau khi ông mất đi, một học giả người Anh sẽ viết tiểu sử ông (Summertime [nguyên bản tiếng Anh in năm 2009, bản dịch tiếng Pháp in năm 2010]). Bằng việc tiến hành cuộc điều tra ở chỗ những người thân cận nhất với Coetzee, nhà tiểu sử-người kể chuyện dựng nên từ tác giả một hình ảnh không khoan nhượng, hình ảnh một cá nhân tầm thường, xa lạ, cứng nhắc, không có khả năng về hiểu biết người khác. Năm 2002 Coetzee đã tuyên bố rằng “mọi tự thuật đều là tha thuật” [ở đây Coetzee chơi chữ, sử dụng từ “auto-biography” và “autre-biography”]. Kể từ này người ta đã thống nhất rằng sự phóng chiếu của nhà tiểu sử vào sự viết của mình đã lớn đến mức các đường ranh giới chỉ còn có thể là rỗng giữa tiểu sử và tự thuật, cũng giống như mối quan hệ giữa các sự kiện thật và hư cấu ngay từ thời điểm các khả thể, các phiên bản được nhân lên nhiều lần. Về phần mình, Éric Chevillard trong cuốn tiểu thuyết mới nhất đã xây dựng một nhân vật nhà tiểu sử, Albert Moindre, lần lại dấu vết nhân vật của anh ta, Dino Egger, người hẳn đã có khả năng làm thay đổi bộ mặt thế giới, chỉ bởi ông ta chưa bao giờ tồn tại. Chevillard thực hiện một miêu tả rất hài hước về cuộc điều tra do nhà tiểu sử tiến hành, cái không hề đồng nghĩa với việc tìm ra dấu vết nào dù là nhỏ nhất của nhân vật chính bởi ở đây con người vĩ đại chỉ đáng giá là bởi ông ta chưa bao giờ mang bộ mặt con người, bởi nếu không ông ta sẽ chỉ còn lại số phận chung nhất của những kẻ phàm tục (Dino Egger, Éric Chevillard, NXB Minuit, 2011).
Nîmes tổ chức Xa lông về tiểu sử từ năm 1999, kể từ đó đã được chuyển thành Festival về tiểu sử. Về phần mình, tờ tạp chí Le Point vào năm 2006 đã bắt đầu trao giải thưởng cho tiểu sử. Ta cũng nên ghi nhận, trong số nhiều biểu hiện khác của cơn say sưa này, việc hình thành một tủ sách mới ở NXB Au Diable Vauvert vào năm 2010, mang tên “Ở tuổi 20” [À 20 ans], dành cho chân dung các nhà văn vào thời điểm họ bước ra khỏi tuổi thơ ấu để trở thành những người trưởng thành. Một cuộc điều tra về những người danh tiếng được viết tiểu sử nhiều nhất từ 2000 đến 2009 xác nhận cơn say sưa này vẫn rất nồng nhiệt đối với các nhân vật anh hùng. Ở đây ta tìm thấy, theo thứ tự giảm dần, một sự pha trộn những giá trị khá nhiều âm vang. Ta thử xem: Napoléon, nhân vật được viết tiểu sử nhiều nhất, tiếp theo sau là Sartre, de Gaulle, Louis XIV, Catherine de Médicis, Michael Jackson, Jean-Paul II, Freud, Mitterand và Jesus.
Tiểu sử có thể là một món khai vị được ưu tiên trong việc tái thiết lập một thời kỳ, với những giấc mơ và nỗi hoang mang của nó. Walter Benjamin từng hình dung sử gia như là người có trách nhiệm phải thực thi một cuộc giải cấu trúc đối với tính liên tục để thấy rõ được ở đó một cuộc đời cá nhân, nhằm “cho thấy bằng cách nào mà toàn bộ cuộc đời của một cá nhân nằm trọn vẹn ở một trong các tác phẩm của anh ta, một trong các hành động của anh ta [và] làm thế nào mà trong cuộc đời ấy cũng chứa đựng toàn bộ một thời kỳ”. Vào thế kỷ XIX, Wilhelm Dilthey không nói gì khác, khi coi tiểu sử như là phương tiện được ưu tiên để xâm nhập cái phổ quát: “Lịch sử phổ quát là tiểu sử, gần như ta còn có thể nói là tự thuật của nhân loại”.
Là diễn ngôn đạo đức về việc rèn luyện các đức hạnh, theo thời gian tiểu sử đã trở thành một diễn ngôn về tính chân xác, chuyển về một ý hướng tìm về sự đúng đắn từ phía nhà tiểu sử, nhưng vẫn luôn luôn còn lại xung đột giữa ham muốn sự thật này và một tự sự cần phải ngả sang hướng hư cấu, và là cái đặt tiểu sử vào một khoảng không gian lửng lơ, một sự giao cắt giữa hư cấu và hiện thực lịch sử, trong một hư cấu thực. Jorge Luis Borges đã diễn đạt rất rõ xung đột này trong truyện “Tiểu sử Tadeo Isidoro Cruz (1829-1874)” của ông. Bằng cách làm một việc trái khoáy so với truyện truyền thống thường dẫn dắt những tiếng khóc đầu đời cho tới những tiếng nấc hấp hối cuối cùng, Borges tập trung truyện tiểu sử của ông vào một đêm duy nhất và chỉ gợi lại những sự kiện trước đó nhằm làm sáng tỏ hơn những gì thiết yếu cho việc hiểu cái đêm ấy, khi Cruz, nhân vật chính, đột nhiên hết sức sáng suốt về bản thân mình, khám phá khuôn mặt ông ta khi rốt cuộc cũng nghe thấy tên của chính mình vang lên.
Công việc của nhà tiểu sử thường xuyên được đồng hóa với một công việc nặng nhọc của tín đồ Benedict, vì phải cống hiến cuộc đời chính mình nhằm soi rọi đời một người khác, với cái giá là những món hiến tế chuyển hóa lựa chọn của anh ta thành thiên chức. Nhà tiểu sử biết rằng mình sẽ không bao giờ kết thúc cho nổi, dù cho có khai quật được đến bao nhiêu nguồn tin. Những ngả đường mới mở ra trước anh ta, nơi anh ta gặp phải nguy cơ bị sa lầy ở mỗi bước đi. Anh ta phải chịu thua sự bó buộc của tính chất kiệt cùng nếu không muốn công việc dài dặc của mình bị nhấn chìm trong những lời chứng mới và những phát hiện mới về mặt tài liệu. Tuy nhiên sự toàn thể hóa này lại thuộc vào hàng huyễn tưởng, bởi vấn đề không phải là có thể khai thác hết chủ thể của mình, mà chỉ là có nguy cơ về một sự kiệt sức của người chạy đua đường dài.
Cao Việt Dũng (dịch)
Nguồn: Văn nghệ Trẻ.