Khi chọn những bài thơ hay của thế kỷ 20 để bình luận, với sự kỹ tính, khắt khe của mình, tôi khá thận trọng. Nhưng với nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, tôi đã chọn bình 3 bài. Đó là các bài: “Thuyền và biển”, “Hoa cỏ may” và “Tự hát”.

Nhà thơ Xuân Quỳnh. Ảnh: Internet

Ba bài tôi chọn bình tuy rất tiêu biểu cho giọng thơ Xuân Quỳnh, nhưng chưa thể đại diện hết được vì thơ Xuân Quỳnh có nhiều đề tài và chủ đề rất rộng, từ những chủ đề có tính công dân gọi là thơ chung, cho đến chủ đề về cá nhân người viết, mà ta gọi là thơ riêng và đặc biệt nhất lại là những bài thơ viết về tình yêu, một thế mạnh của thi sĩ.

Tuy nhiên, hôm nay, để nhìn bao quát về gương mặt tâm hồn và gương mặt thơ Xuân Quỳnh, tôi lại muốn nói đến bài thơ mang nhiều nét tự sự của chị nhất, bài “Tự hát”.

TỰ HÁT

Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng

Trái tim em anh đã từng biết đấy

Anh là người coi thường của cải

Nên nếu cần anh bán nó đi ngay


Em cũng không mong nó giống mặt trời

Vì sẽ tắt khi bóng chiều đổ xuống

Lại mình anh với đêm dài câm lặng

Mà lòng anh xa cách với lòng em


Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Biết làm sống những hồng cầu đã chết

Biết lấy lại những gì đã mất

Biết rút gần khoảng cách của yêu tin


Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Biết khát khao những điều anh mơ ước

Biết xúc động qua nhiều nhận thức

Biết yêu anh và biết được anh yêu


Mùa thu nay sao bão mưa nhiều

Những cửa sổ con tàu chẳng đóng

Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm

Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh


Em lo âu trước xa tắp đường mình

Trái tim đập những điều không thể nói

Trái tim đập cồn cào cơn đói

Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn


Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt, đời thường ai chẳng có

Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.

XUÂN QUỲNH

Khi bình bài thơ “Hoa cỏ may” cũng của Xuân Quỳnh, tôi có nói, cũng như thơ ca cách mạng nói chung, thơ của nữ thi sĩ này vẫn thuộc lối thơ sáng rõ và dễ hiểu và còn nói thêm rằng, đến lúc bình bài “Tự hát” tôi sẽ chứng minh điều đó. Thì đây, bạn đọc có thể dễ dàng thấy hầu như cả bài thơ này là một thứ ngôn ngữ rất gần với văn xuôi: Cũng một ít tả, một ít kể và khá nhiều triết lý… Chẳng hạn, ở hai khổ đầu, nhà thơ lập luận về cái việc không muốn cho trái tim mình trở thành một thứ gì khác với chính nó, dẫu cho thứ ấy có quý giá như vàng hay rực rỡ chói lọi như mặt trời … Và cái lý chị đưa ra cũng đơn giản, thực thà đến ngộ nghĩnh: “Anh là người coi thường của cải/ Nên nếu cần anh bán nó đi ngay”. Ở hai khổ tiếp theo, nhà thơ vẫn dùng một lối lý sự chặt chẽ như ngôn từ khoa học để nói cái điều giản dị: Tốt nhất trái tim cứ là trái tim. Nào là lý lẽ về phương diện sinh lý của trái tim: Biết làm sống lại những hồng cầu đã chết. Nào là lý lẽ về phương diện hoạt động tinh thần: Biết rút gần khoảng cách của yêu tin, biết khao khát những điều anh ao ước, biết yêu anh và biết được anh yêu, và nhất là cái câu nghe như bản thu hoạch chính trị này: “Biết xúc động qua nhiều nhận thức”! Phải chân thành đến mức… ngây thơ mới đặt bút viết một câu hồn nhiên toàn khái niệm chay như vậy.

Trong một lần tham gia “Câu lạc bộ của những người yêu thơ” trên truyền hình, tôi đã được nghe đến mấy bài thi bình bài thơ này của các em học sinh trung học phổ thông, thấy các em tỏ ra rất hứng thú khi phân tích cặn kẽ đâu ra đấy, cứ như những… bà cụ non về các lý lẽ của bài thơ. Các em hào hứng là có lý vì thứ thơ sáng rõ và nhiều triết lý luôn là những bữa tiệc cho các thầy giáo và các em học sinh yêu văn. Đối với thơ, điều ấy cũng đáng quý, nhưng có vẻ như chưa đủ. Chẳng hạn, ngay với bài thơ này, hầu như các em đã nhất tề bỏ qua khổ thơ:

“Mùa thu nay sao bão mưa nhiều

Những cửa sổ con tàu chẳng đóng

Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm

Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh”

Ngồi bên tôi, nhà phê bình văn học Lưu Khánh Thơ, một người thân của tác giả, nói khẽ cho tôi biết: Sinh thời, Xuân Quỳnh thích nhất chính là khổ thơ trên. Tôi hiểu. Thế mới là Xuân Quỳnh, mới không chịu lẫn vào cái dàn đồng ca bạt ngàn của thứ thơ chưa đọc đã hiểu-“sắp sáng thì nghe có tiếng gà”. Mấy câu thơ trên cứ như lạc sang một giọng khác, nó có làm cho các nhà bình luận lúng túng một chút nhưng vì thế mà đã cứu cho cả bài thơ, hoặc nói chừng mực hơn, nó mở thêm một cánh cửa cho bài thơ vốn chỉ có độc một cửa trên. Bởi vì, sau khi lý luận một hồi về giá trị đích thực của trái tim bằng những lời lẽ đầy tự tin, tự tại… thi sĩ chợt thấy hình như trái tim có thật ở trong lồng ngực vẫn còn điều gì muốn nói, vẫn đập những nhịp gì đó mà chính cái đầu tỉnh táo và sáng láng vẫn chưa hiểu hết. Điều đó chính là một tâm thế âu lo, bất an vốn là bản chất của một trái tim đang yêu, yêu đến đắm đuối. Những câu thơ trên đã để lộ thứ tình yêu đến mê muội, khi người phụ nữ này nói về người yêu rằng “anh là người coi thường của cải”, một lời khen hết sức có giá dành cho một người đàn ông-hoặc khi chị ước ao “biết khao khát những điều anh mơ ước” thì thứ tình yêu ấy đã tiến đến sự thành kính, sùng phục của một con chiên ngoan đạo. Chính vì quá yêu như vậy mà trong lòng có sự bất an, nhất là khi tâm thế ấy lại có trong một trái tim tinh tế và nhạy cảm. Và đến đây, để diễn đạt thứ cảm xúc quá tinh vi, nhà thơ không thể nhờ cậy vào thứ ngôn từ duy lý rạch ròi như ở mấy khổ thơ kia nữa, chị đã buột miệng cất lên thứ ngôn từ thuần túy hình tượng, với những hình ảnh nửa thực nửa siêu thực-những “bão mưa nhiều”, những “cửa sổ con tàu chẳng đóng”, những “dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm”… những hình ảnh mở ra như đe dọa, như dự báo bất thường, nó khiến con người bé nhỏ này hoang mang mất cả phương hướng đến “lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh”. Những chi tiết thực của đời sống được dùng với phương thức biểu tượng có sức gợi mở và ám ảnh đã mang lại cho thơ sức truyền cảm trực tiếp vào tâm thức chứ không còn là thứ ngôn từ nặng chất khái niệm và được nói bằng cái đầu như ở trên kia.

Với khổ thơ này, Xuân Quỳnh đã làm tươi xanh, đắp thêm da thịt cho bài thơ vốn mang nặng tính luận đề. Để từ đó nhà thơ phát triển thứ ngôn ngữ hình tượng này sang khổ tiếp theo:

“Em lo âu trước xa tắp đường mình

Trái tim đập những điều không thể nói

Trái tim đập cồn cào cơn đói

Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn”.

Và như một đoàn tàu đã lăn đúng đường ray, nhà thơ yên tâm dẫn bài thơ về đến nhà ga cuối cùng đúng như lộ trình quen thuộc, khi gióng lên tiếng còi khải hoàn sau chót bằng câu thơ rất giàu bản sắc Xuân Quỳnh với lối bày tỏ quyết liệt và táo tợn đến bất ngờ:

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.

Ấy là câu thơ có thể làm bất tử một tình yêu, cũng như chính tình yêu đã bước qua đầu cái chết.


Nguồn QDND

Exit mobile version