Gia đình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ.

Nếm trải nhiều trong trường đời, sau này, Xuân Quỳnh tâm sự về nghiệp thơ: “Vì thích thú. Làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời nữa. Vì uất ức. Khi mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi phải quyết sống. Mà sống tức là phải viết. Nói được niềm vui nỗi khổ của mình, tôi cảm thấy có cái sung sướng không mấy ai có! Như người khác không được yêu, mình được yêu. Như người khác chỉ biết im lặng mà mình biết nói, và nói lên được thành tiếng”. Tâm sự đó cho thấy chiều sâu ý chí cùng khát khao thể hiện bản ngã của chị thật quyết liệt.

Có lẽ, từ quan niệm và thái độ quyết liệt ấy, ngay từ chặng đầu cuộc đời cầm bút của mình, Xuân Quỳnh đã đạt tới cái tôi trữ tình đẹp đẽ và sâu sắc hơn người:

Tôi đã đi đến tận cùng xứ sở

Đến tận cùng đau đớn, đến tình yêu!

Để đạt tới thơ ca như vậy, Xuân Quỳnh tài năng còn cần thêm thời gian, đồng thời cũng còn phải trải qua nhiều gian truân nữa. Đây là thời kỳ không lực Mỹ đánh phá rộng ra miền bắc, nhưng hễ có cơ hội đi thực tế là chị đeo ba-lô lên đường, lúc lên vùng đồi núi Bắc Giang, khi về đồng ruộng Thái Bình, hay vào vùng biển Thanh Hóa… Và, Xuân Quỳnh viết được bài Sóng, khiến bạn đọc và những người quan tâm ngạc nhiên, bởi thấy bút lực của chị sâu và mạnh hơn trước nhiều: Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ/ Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể…

Trong bom đạn ác liệt, văn chương nặng về biểu dương tuyên truyền, bài thơ tình ái say đắm được in ra, là một hiện tượng khá đặc biệt: Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức. Một tấm tình thật, trong một đời sống thật, không gượng gạo, không tô vẽ, nên bài thơ Sóng được nhiều người yêu thơ khi đó chép vào sổ tay, họ còn chép gửi cho nhau như một món quà tình cảm.

Hai năm 1969 và 1970, Xuân Quỳnh lặn lội vào tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh nhiều tháng trời. Với khát khao thể hiện cái tôi của mình trước cuộc đời, Xuân Quỳnh đã tìm ra bản lĩnh thơ của mình một cách thật tự nhiên. Tình cảm chị thế nào, lòng thương yêu cuộc sống của chị thế nào, muốn yêu thì phải gắng sức, phải hy sinh cách nào… chị bày tỏ bằng một ngôn ngữ giản dị, đầy tình thương mến, và nó thành cốt cách thơ của chị. Đó là một bản lĩnh thơ mạnh và sâu đặc biệt trong thơ thời kháng chiến chống Mỹ. Bài Gió Lào cát trắng, viết năm 1969, trình bày một thân phận trên miền quê cát trắng và gió như quạt lửa, có gốc gác, ngọn ngành, lại có chiều sâu đời sống kháng chiến: Mẹ ru tôi hạt cát sạn hàm răng/ Vừa lớn khôn tôi đã biết đào hầm/ Dưới bom đạn gió Lào vẫn thổi/ Và trên cát có thêm cồn cát mới/ Cỏ mặt trời lăn như bánh xe…/ Máu đồng đội và máu tôi đã đổ/ Trên cát này mà gió quạt vừa se. Bài thơ bày tỏ tình yêu sâu nặng đối với con người sống trên mảnh đất này, và cho thấy cái tôi trữ tình của nhà thơ đạt tới tầm mức thật lớn: Tôi sẵn lòng
đem hiến cả đời tôi/ Cho cát trắng và gió Lào quạt lửa.

Quãng ngày Xuân Quỳnh viết được những bài thơ quan trọng trong đời thơ của chị mà chúng tôi vừa nêu chút ít ở trên, là những năm đời sống riêng tư của chị vập vào những khó khăn rất lớn, đến mức không yên lành được. Vợ chồng Xuân Quỳnh đã phải ly hôn. Đối với Xuân Quỳnh, sự thành bại trong trường đời chỉ là thứ yếu, thơ ca do chị sáng tạo nên mới là thiết yếu. Chúng tôi cho rằng, các nhà thơ Việt Nam cùng thời với nữ sĩ này, không ai
có nguồn lực thơ đặc biệt như chị. Bởi, chị sống để làm thơ, hơn thế, chị sống cật lực trong đời và cuộc sống ấy thành thơ,
thứ thơ riêng chị có.

Sau hai tập thơ đầu (in chung) chị có thêm các tập Gió Lào cát trắng (1974), Sân ga chiều em đi (1984), Tự hát (1984), Lời ru trên mặt đất (1987), Hoa cỏ may (1989). Chị còn viết một số tập thơ và truyện cho thiếu nhi. Đời thơ Xuân Quỳnh có hai mảng rất thành công, là mảng thơ viết về chiến tranh, và mảng thơ tình yêu. Những năm trước 1973, Xuân Quỳnh đã có thơ tình thật hay, như bài Sóng đã nói ở trên, và đặc biệt là bài Thuyền và biển. Bài thơ ra đời, lập tức được bạn đọc và đồng nghiệp tán thưởng; sau đó được phổ nhạc và ca khúc này cũng được thính giả
hết sức yêu mến. Nhiều bạn đọc và những người quan tâm coi
Thuyền và biển là điểm sáng chói trong những thành công của thơ Xuân Quỳnh.

Nhìn nhận hiện tượng thơ Xuân Quỳnh, chúng tôi vẫn nghĩ, khi chị “quyết sống, mà sống là phải viết”, cũng bắt đầu giai đoạn bừng nở tài năng thơ, mà thành công đỉnh cao thời kỳ này của chị thể hiện qua các bài Sóng, Thuyền và biển, rồi Gió Lào cát trắng Những người mẹ không có lỗi… Trong bản ngã của nữ sĩ này có cả ồn ào và lặng lẽ, có cả dịu êm và dữ dội, có sự không hiểu mình mà phải ra tận bể… (bài Sóng). Đến Thuyền và biển, có hiền từ, thì thầm và cả vô cớ ào ạt xô đẩy. Cặp hình tượng con thuyền và biển cả biểu đạt người đang yêu và một mối tình lớn: Chỉ có thuyền mới hiểu/ Biển mênh mông dường nào/ Chỉ có biển mới biết/ Thuyền đi đâu, về đâu. Với sự thăng hoa của Xuân Quỳnh tài năng, ngôn ngữ thơ đạt tới vẻ đẹp cổ điển:

Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau – rạn vỡ

Nếu từ giã thuyền rồi

Biển chỉ còn sóng gió

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bão tố…

Năm 1973, nữ sĩ Xuân Quỳnh cùng nhà thơ Lưu Quang Vũ xây dựng một gia đình mới. Đây là một bước ngoặt lớn trong đời sống cũng như đời thơ Xuân Quỳnh. Chị sống chi chút hơn trong đời sống gia đình, và viết nhiều thơ về tình yêu. Đến chặng này, hiện rõ một Xuân Quỳnh hiền thảo, yêu tha thiết, đã có nét cười lặng lẽ trong thơ: Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng/ Trái tim em, anh đã từng biết đấy/ Anh là người coi thường của cải/ Nên nếu cần anh bán nó đi ngay. Những người biết chút ít về đời tư của chị, đọc bài thơ Tự hát, là biết chị viết về Lưu Quang Vũ: Em lo âu trước xa tắp đường mình/ Trái tim đập những điều không thể nói… Vợ chồng nữ sĩ Xuân Quỳnh mỗi người có một đứa con riêng, rồi lại có một đứa con chung nữa, lo miếng cơm manh áo thực sự là cực nhọc. Xuân quỳnh bày tỏ nỗi lo và tình thương yêu đối với chồng, chân thật và cũng sâu sắc lẽ đời: Trái tim đập cồn cào trong cơn đói/ Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn. Bài Tự hát là bài thơ tình rất hay của Xuân Quỳnh và cũng là bài thơ tình thật hay của thơ Việt Nam hiện đại. Đấy là tình yêu đời thường mà dài lâu hơn một đời người:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt, đời thường ai chẳng có

Cũng ngừng đập lúc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

Thơ Xuân Quỳnh nhất quán suốt đời với sự chân thật trong xúc cảm, và hết sức tự nhiên trong nghệ thuật thi ca. Có một nhà phê bình văn học nhận xét rất hay: “Thơ Xuân Quỳnh tự nhiên, như đã là phụ nữ thì phải sinh con, đẻ cái vậy”. Nhiều câu thơ tưởng như chị tiện miệng mà nói ra, mà hay: Tháng mười trời trải nắng hanh/ Có cô hàng xóm phơi chăn trước thềm… Đến khi bắt vào khổ thơ sau, mới thấy là thơ rất điêu luyện: Gia tài chỉ có bàn tay/ Đường gân xanh, vết chai dày từ xưa/ Gia tài chỉ có bài thơ/ Bao năm viết để bây giờ tặng anh… (bài Thơ viết tặng anh).

Thời trẻ, lên rừng xuống biển, vào tuyến lửa, cũng viết thơ tình, nhưng thơ thời ấy không có dấu vết đời sống tình cảm với người chồng đầu tiên của chị. Còn đến chặng này, hầu như bài thơ tình nào cũng có hình bóng Lưu Quang Vũ. Đôi khi, những câu thơ tình da diết đến mức thấy dường như chị sợ hãi sự cô đơn vì xa vắng anh (bài Chỉ có sóng và em): Một trời xanh, một biển tận cùng xanh/ Và gió thổi và mây bay về núi/ Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nói/ Nhưng bây giờ chỉ có sóng và em… Thơ Xuân Quỳnh viết khi ngoài bốn mươi tuổi đã xuất hiện những xúc cảm cô đơn, hoang vắng: Mắt anh nâu một vùng phù sa/ Vùng đất của nơi nao trong trí nhớ/ Em chiếm đoạt rồi em hoảng sợ/ Giữa vô cùng hoang vắng, giữa cô đơn. Cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh đến chặng này có thêm sự yếu đuối. Có thể do bệnh tim của chị đã chớm phát. Chỉ với tài năng, sự trải đời sâu sắc, với cảm xúc đau nhói trong ngực, nữ sĩ mới viết được thơ thế này:

Dòng sông này bãi cát cánh buồm quen

Hoa lau trắng suốt một thời quá khứ

Tôi đã đi đến tận cùng xứ sở

Đến tận cùng đau đớn, đến tình yêu

Ngay cả khi viết với xúc cảm nhói đau, bút lực thơ Xuân Quỳnh vẫn thật mạnh. Nhiều lần nằm viện vì bệnh tim, nhưng lúc có thể, Xuân Quỳnh lại làm thơ. Bởi người như chị, “sống tức là phải viết”. Thật sự là chị thèm được sống, thèm vô cùng: Ôi trời xanh xin trả cho vô tận/ Trời không xanh trong đáy mắt em xanh/ Và trong em không thể còn anh/ Nếu ngày mai em không làm thơ nữa…

Xuân Quỳnh không mất bởi bệnh tim, mà qua đời cùng Lưu Quang Vũ và đứa con của anh chị, bởi tai nạn giao thông đau đớn. Người chị yêu nhất đã cùng chị đi khỏi cuộc đời. Chỉ những bài thơ, là mong muốn được cất tiếng nói với mọi người, là khát vọng sống hết mình, là tình yêu và những gian nan khổ nhọc của Xuân Quỳnh trong cuộc sống trần thế, sẽ ở lại lâu dài trong cuộc đời này!

Theo Anh Chi – Nhân dân cuối tuần

Exit mobile version