Quý vị thân mến
Chuyên mục TRUYỆN HAY đầu năm 2023 Quý Mão, Cầm Kỳ Official xin được giới thiệu truyện ngắn TRẦN TRỤI CON NGƯỜI của nhà văn Đỗ Trọng Khơi
Nhà thơ Đỗ Trọng Khơi tên thật là Đỗ Xuân Khơi
sinh ngày 17-7-1960 (63 tuổi).
quê ở Trần Xá, Văn Cẩm, Hưng Hà, Thái Bình.
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001; Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình.
Hiện ông đang sống tại TP. Thái Bình.
Các tác phẩm:
Trước ngôi mộ thời gian (thơ, 1995);
Ma ngôn (tập truỵên ngắn, 2002);
Con chim thiêng vẫn bay (thơ, 1992);
Gọi làng (thơ, 1999);
Tháng mười thương mến (thơ, 1994);
Cầm thu (thơ, 2002);
Bến thời gian (thơ, in chung, 1995);
Tập truyện ngắn Ma ngôn (2001)
90 lần nhật nguyệt (thơ, 2004);
Thơ hay – một cách nhìn (tập bình thơ, 2006).
Với tay ngắt bóng (2010)
Hành trang tâm linh (2011)
Ở thế gian (tập thơ)
Giải thưởng:
Giải Nhì cuộc thi thơ Tuần báo Văn nghệ năm 1989-1990
Giải C của Uỷ ban Trung ương liên hiệp VHNT cho tập thơ “Con chim thiêng vẫn bay” năm 1993.
Giải A Lê Quý Đôn – UBND tỉnh Thái Bình 1991-1996.
Giải nhì cuộc thơ do nhóm thơ Thanh Xuân Hà Nội tổ chức năm 1992
Giải khuyến khích cuộc thi âm nhạc trẻ do nhà hát tuổi trẻ tổ chức năm 1992
Giải nhì và ba truyện ngắn của Báo Tài hoa trẻ (các năm 1998 và 2002)
Giải B của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2002
Giải tư cuộc thi thơ Đây biển Việt Nam do Vietnamnet tổ chức năm 2001
Giải Nhì của Uỷ ban Trung ương liên hiệp VHNT tập truyện ngắn “Ma Ngôn” năm 2003.
Giải ca khúc trẻ do Hội Nhạc sỹ Việt Nam và Nhà hát Tuổi trẻ trao tặng.
Giải thơ quốc tế dành cho người tàn tật của Đài Truyền hình NHK (Nhật Bản).
Nhà văn Võ Thị Xuân Hà:
“Đỗ Trọng Khơi xuất hiện thường xuyên với tư cách là nhà thơ. Tuy nhiên ông đã viết truyện ngắn khá thành công. Có nhiều điều cần ngẫm ngợi khi đọc các tác phẩm của ông.
Năm 2011, vào thời gian tôi đang đảm nhiệm vai trò Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn, tôi nhận được một truyện ngắn được gửi qua email của tạp chí do Bùi Thu Phương, Trưởng ban bạn đọc chuyển.
Tôi đã đọc ngay trong sự ngạc nhiên và quyết định cho in, không sửa chữa gì.
Tôi cứ nhớ mãi truyện ngắn này, có thể do tôi rất trân trọng tất cả những tư liệu quý về bậc Nữ Quyền Kỳ Ảo Huyền Mỵ Võ Mỵ Nương – Võ Tắc Thiên. Và tôi rất ám ảnh truyện ngắn này của một nhà thơ nằm kỳ tài.”
Trân trọng giới thiệu với quý độc giả truyện ngắn TRẦN TRỤI CON NGƯỜI của nhà thơ nhà văn Đỗ Trọng Khơi, do chính nhà văn Võ Thị Xuân Hà thể hiện.
TRẦN TRỤI CON NGƯỜI
Võ Chiếu – My Lang – Thiên Hậu – Võ Tắc Thiên Hoàng đế… là tên gọi của nàng cùng với vài ba danh xưng khác. Đời sống tinh thần, trí lự, nhân cách với rất nhiều biến thái số phận của nàng là rất riêng biệt, lạ lùng .
Truyện này được viết với chút nhận biết về Võ Chiếu – nhân vật kỳ lạ bậc nhất trong thế gian. Truyện xin chỉ dùng một tên gọi do cha mẹ nàng ban : Võ Chiếu.
*****
Sử viết, thời gian để tang Đường Thái Tông ở chùa Cảm Nghiệp chính là bước ngoặt cho tư tưởng Võ Hoàng Đế. Sự thực không hẳn là vậy.
Võ Chiếu với khả năng mẫn cảm, trí xét đoán cuộc đời thiên bẩm nên gần như ngay lập tức nàng nhận ra giá trị con người mình và cũng ngay lập tức nàng nhìn thấy rõ con đường số phận mình sẽ phải bước đi. Ấy là lần đầu tiên nàng mỉm cười với bóng mình trong gương và biết tự thỏa mãn nhu cầu cơ thể bằng cách “tự sướng” khi mân mê bầu vú căng tròn lúc lỉu trong những đêm khí trời an lành mát mẻ. Hành vi tâm lý này không qua được đôi mắt người mẹ. Ở tuổi mười ba, một lần bà quở: “Nòi đa tình. Đời mày rồi đa đoan, khốn nạn con ạ”. Nàng bao giờ cũng chỉ cười nắc nẻ trước mọi lời mắng mỏ của mẹ. Nàng rất có hiếu! Nhưng bà mẹ không biết rằng đứa con hiếu đễ này chưa bao giờ xem mẹ là người để mình noi theo. Nàng thầm nghĩ, đa đoan, khốn nạn ư? Dẫu thân gái có trải mấy lần chồng, có ham muốn thỏa mãn người đàn ông mình yêu thích mà bảo là đa đoan thì còn nghe được, nhưng hề chi mà khốn nạn!… Nàng bật cười vui vẻ cho ý nghĩ ấy là đáng kể. Trí tuệ non nớt chưa cho nàng soi tỏ ý nghĩa thế gian nhưng trái tim mẫn cảm dường sớm cho nàng thấm tháp sâu xa cùng mọi nghĩa.
Thế gian bé tẹo
đừng xem ngắn dài
đời người một đoạn
cầm lấy làm chơi
tiếng cười làm không
tiếng khóc lụy có
thiện ác…việc trời
con người vô tội
vạn pháp vô tâm
vạn vật vô hướng
kìa làn mây trôi
i à í ơi…
Võ Chiếu nhẩy chân sáo quanh mẹ hát bài thường hát, lại bị nghe mắng:
– Bà mày toàn mớm vào mồm những lời quái gở, vô nghĩa.
Nàng cười trừ.
Năm sau, vào tuổi mười bốn nàng được tiến cung. Có con làm cung nữ với nhiều bậc cha mẹ là một tin mừng thì với phận nhi nữ là cả canh bạc dài. Có người hóa thần tiên, có kẻ xem như kết thúc một đời con gái. Võ Chiếu thì vô cùng hân hoan đón nhận tin này. Đàn ông nuôi mộng đế vương bằng chí anh hùng, đàn bà nuôi bằng tấm thân mỹ nữ. Cái lẽ tạo vật nàng ý thức được là thế. Nàng – chính nàng nếu không có ai khác, là một tạo vật! Nàng luôn tự nhủ đúng một câu như vậy.
Đường Thái Tông gặp nàng đã sững sờ trước nhan sắc mặn nồng đượm vẻ ngây thơ mà dạn dĩ. Thứ dạn dĩ hồn nhiên mang một hấp lực thiên nhiên mê dụ ít gặp trên đời. Ngay hôm ấy nàng có bậc đế vương ấp ủ.
– Nàng là thứ hoa lạ, sẽ không bao giờ hết mùi hương. Làm sao được vậy? Thái Tông vui sướng hỏi.
– Tâu bệ hạ, con người phải lúc nào cũng trong trạng thái hưởng thụ cuộc sống. Võ Chiếu hồn nhiên đáp .
– Nghe nói nàng thường xem mình là một tạo vật?
– Câu đùa nhi nữ thôi mà. Cúi xin bậc đế vương lượng thứ. Bậc đế vương mới chính là tạo vật .
– Ô, thế ư. Ta chưa thấy có cái cảm nhận chết người này. Song quả như nàng nói thì quyền uy đế vương nay đã ở bên nàng. Tạo vật ơi, tạo vật tạo vui sướng, tạo một hoàng tử cho trẫm đi. Thái Tông nói cười, đùa vui trên tấm thân Võ Chiếu như trai trẻ. Ngài vốn là một chiến tướng quá đỗi đa tình mà .
Võ Chiếu vò vò mái đầu bạc của Thái Tông trong bầu ngực thanh xuân mình, mà rằng:
– Ai đó mà mỗi phần trí năng tri giác đều mang khả năng sinh hóa, cảm hóa đời sống, chi phối đời sống thì người đó là một tạo vật.
Thái Tông nghe vậy vô cùng kinh ngạc. Mồ hôi tứa ra, toàn thân bỗng rung chuyển. Nàng ta tí tuổi đầu đã lấy đâu ra những suy nghĩ sâu xa lạ lùng đến vậy. Cách nghĩ và lý giải cuộc sống thế gian vậy quả không hề có trong ngài cũng như trong cả đám cận thần nhiều chữ nghĩa của ngài. Nhận biết bất thần ấy vừa khiến Thái Tông e ngại vừa cho ngài niềm kích động chiếm đoạt. Thấy Thái Tông bỗng trong trạng thái tình cảm vậy Võ Chiếu làm vẻ nũng nịu trẻ con, vật ngửa vị hoàng đế ra giường mà cưỡi lên bụng tha hồ đùa vui ân ái. Hẳn không một cung nữ nào có gan hùm gan báo vậy. Hỏi, một lần nàng lộ bí quyết. Bọn người vương giả họ không thiếu ngườì tình mà chỉ thiếu cách làm tình. Cách làm tình, đúng hơn là cách hưởng lạc – là chủ nô của họ.
– Cái tình trẻ con ở nàng khiến trẫm thích thú lắm. Nàng mới là con ngựa quý, bất kham…
Thái Tông có ý gợi lại chuyện về con ngựa quý mà chưa được thuần dưỡng. Các cung nữ không ai dám cưỡi duy có Võ Chiếu dám. Hỏi, cần dùng vật gì để chế ngự thì bảo cần ba thứ, roi sắt, búa sắt, và dao sắc. Dễ thì dùng roi, khó thì dùng búa, không được thì dùng dao sắc giết bỏ. Tính cách mạnh mẽ khác người ấy ngay từ ngày mười mấy tuổi nàng đã gây cho Thái Tông nỗi lòng khó giải.
– Giời cho thần thiếp giáng thế để cải lão hoàn đồng bệ hạ. Nhưng…
– Nhưng sao? Sao? Nói! Nói… Thái Tông giục giã, giọng líu ríu như người say rượu. Chưa bao giờ người trong hậu cung thấy vua phấn khích nhường ấy.
– Bệ hạ chịu nghe lời thiếp không?
– Chịu! Chịu!
Chủ động bỏ dở câu nói ở đấy, Thái Tông gặng hỏi thế nào Võ Chiếu cũng không nói và cứ rũi đầu vào nách Thái Tông mà cười nắc nẻ. Tiếng cười nàng nghe lánh lót như chim mà đượm màu hương lửa. Thái Tông làm vẻ không vui bảo:
– Nàng hỏi chuyện mà thường không có ý đợi nghe trả lời, là sao?
– Bẩm, câu chuyện cuộc đời hiểu ra, xét cho cùng cũng chỉ để cả cuời lên một tiếng.
– Lúc nào nàng cũng cười. Đời không có gì buồn đau chăng?
Võ Chiếu càng lấy làm vui thêm, cười ròn rã.
– Nước mắt thường vô ích. Vả nữa, bậc đế vương có coi trọng nước mắt bao giờ.
Nghe vậy Thái Tông ngây người một hồi sau ngài mệt mỏi thoát ra khỏi vòng tay Võ Chiếu.
– Nàng thật đáng sợ. Qủa là vậy. Nước mắt vô ích với người mang nó. Nó chỉ hữu ích cho sách vở chữ nghĩa lũ học trò.
– Dạ. Đội ơn bệ hạ đã thấu hiểu. Võ Chiếu nói với nụ cươi có vẻ châm chọc nhẹ nhàng. Đọc được ý nghĩ ấy Thái Tông ngoảnh mặt đi:
– Ta hiểu, nàng cho ta còn e phải nói ra điều cốt tử chứ gì. Vậy điều đó đặt lại tim nàng đấy. Mai kia có dịp, trẫm tin nàng mới là người dụng nước mắt thiên hạ một cách hữu dụng nhất.
Thái Tông đi khỏi hậu cung hôm ấy vẻ mệt mỏi, thất thần. Có nỗi niềm nghĩ ngợi âu lo về người tài nhân mà ngài đang rất sủng ái này. Ít ngày sau Đường Thái Tông lâm bệnh. Căn bệnh trầm kha dai dẳng, thăng giáng bất thường, buồn vui u uẩn như thứ trời hành. Nhiều ngày Thái Tông không thiết triều được. Chừng năm sau bệnh tăng lên khá nhanh, thân thể như xúc thịt đi, tinh thần thì bải hoải, mơ mơ tỉnh tỉnh. Biết mệnh khó qua, Thái Tông cho gọi Thái tử Lý Trị lại, bảo:
– Trẫm biết con nặng tình với kẻ tài nhân đó. Là đàn ông, trẫm thể tình ấy. Qủa trong thiên hạ này hiếm mỹ nữ nào đủ sắc tài sánh được nó. Nó có khả năng quyến rũ và chế ngự đàn ông lạ lùng lắm. Tình nó thì có thể dung, sắc đẹp thì có thể hưởng. Còn cái tài cái ý chí trong nó thì tuyệt đối không thể quy nạp, không thể sử dụng được, bởi nó lớn lao vô cùng. Nó là một Tạo Vật! Khóe môi Thái Tông chợt hé nụ cười. Rồi ngài nói tiếp, khi trẫm băng, con phải cho chôn nó theo. Con chớ xem lời trẫm là do ghen tuông, tiếc nuối.
– Vì đâu nên nông nỗi vậy? Thái tử phân vân, ấp úng hỏi.
Thái Tông tỏ vẻ tuyệt vọng, mắng:
– Vì mày là đứa lụy tình. Lụy tình – điều tối kỵ bậc nhất của đế vương. Nước mắt vô ích! Chính đứa tài nhân trẻ tuổi ấy cũng đã nhận ra lẽ thế gian này. Mày làm vua đến nơi mà lại không biết. Mày tất bị hại trong tay nó.
– Nhưng cũng nàng lại bảo con điều khác về nước mắt trong thiên hạ.
– Nó bảo sao?
– Rằng, nước mắt của người thiên hạ bậc đế vương giỏi thì dùng lấy để dụ dỗ, thống trị, lớn lao hơn thì dùng để vẫy vùng mà ghi danh thiên cổ. Nhất tướng anh hùng vạn cốt khô! Chẳng có câu vậy sao? Chẳng đúng vậy sao, bệ hạ? Dựa vào tài chí Võ Chiếu con sẽ dụng được nước mắt lương dân mà dụ dỗ, thống trị.
Tâm thần Thái Tông càng thêm rời rã, kinh sợ. Lặng đi một hồi ngài mới nói. Tiếng đã rất mỏng:
– Nó ghê gớm hơn tao tưởng. Mày phải giết nó đi. Không tất có ngày mày phải dâng quyền lực đế vương cho nó dùng như cái ao con tha hồ vẫy vùng câu nhử thiên hạ này. Dứt lời ấy Thái Tông – vị chiến tướng anh hùng – bỗng ôm mặt khóc tu tu và xua tay đuổi Lý Trị đi. Nhà vua quả có lòng nhân và đa cảm.
Nửa canh giờ sau thì Võ Chiếu vào vấn an. Thái Tông cho vào và bảo khi trẫm băng muốn có nàng theo cùng. Võ Chiếu cúi thấp đầu vâng dạ nhưng làn môi giấu một nụ cười giễu cợt. Chừng Thái Tông có nhận ra nụ cươì đó nhưng ngài lại lặng im không tỏ thái độ gì. Sử viết rằng, nhà vua nhận thức quá rõ Võ Chiếu là một đe dọa lớn tới tôn ti trật tự nhà Đường, song song đó ngài hiểu với những phẩm chất thiên bẩm đặc biệt nàng cũng sẽ mang lại lợi ích cho thiên hạ, thứ lợi ích chỉ có thể sinh từ tư chất đặc biệt riêng ở nàng. Vì vậy chăng nên ngài đã không tự ban lệnh chôn nàng theo mình. Vua cha đã cho vua con quyền tự quyết vì thế. Sự còn mất sinh mệnh bậc đế vương xưa nay luôn ở ngoài mọi can thiệp của ý chí con người…
Không bao lâu Đường Thái Tông băng hà. Võ Chiếu ở với Thái Tông được mười hai năm.
Lý Trị kế ngôi, đổi hiệu là Cao Tông.
Việc này xảy ra năm sáu trăm năm muơi.
Trong mắt Võ Chiếu, Cao Tông chỉ đơn thuần là gã đàn ông lụy tình, bệnh tật yếu đuối và dâm đãng. “Là hoàng đế mà thiếu tư chất đế vương”. Võ Chiếu có bận bảo với đám cận thần thân tín của Cao Tông vậy. Mọi người lặng im, không ai nói lại gì.
Duy có người chị gái của Võ Chiếu chót lỡ mồm hỏi:
– Vậy sao nương nương vẫn yêu vì?
Thì tỏ ý coi khinh, thẳng thừng đáp:
– Lấy bố rồi lại lấy con, xưng thiếp thì là “yêu” hay là trò chơi?
Người chị run sợ, đáp:
– Là chơi trò ạ.
Thấy người chị sợ run lên cầm cập, Võ Chiếu mỉm cười vỗ vai tỏ vẻ độ lượng, nói:
– Đừng sợ. Muội có e gì thứ điều thị phi thường tình đó đâu. Nói xong câu thì hốt nhiên cười lên lánh lót. Tiếng cười của Võ Chiếu khác rất xa với hành xử của nàng. Hành động của nàng khiến cho người khác luôn nơm nớp lo sợ còn tiếng cười lại cho con người, dường cả vạn vật xung quanh được vui vẻ phấn khích vô cùng. Nhiều lần trong vườn Thượng uyển chim muông cũng họa tiếng hót theo. Tương truyền có hòn non bộ nghe tiếng cười nàng bỗng non mềm như đất sét. Mãi sau, trong lần Võ Hoàng đế ra tay giết con trai Lý Hoằng, cháu trai cùng mẹ của nó là người chị gái thì hòn đá đó mới trở lại kiếp đá rắn chắc. Sự thêu dệt văn chương, ngụ ngôn về tiếng cười và giọt lệ trong cảm ứng đất trời, vạn vật vốn không lạ gì. Thật là chuyện hoang đường nhưng ý vị nên sử liệu còn ghi.
Sử viết, Võ Chiếu ở với Thái Tông mười hai năm mà chưa lần thụ thai vậy mà khi về với Cao Tông một đoạn ngày đã khai hoa, sinh hoàng tử Vi Cương và liền sau đó sinh thêm ba hoàng tử cùng cô công chúa Thái Bình. Do vậy Cao Tông mới nói điều “Ý trời! Đế vương là mệnh trời. Với tiên đế nàng không có số được con ấy chăng?”.
Vi Cương khỏe mạnh, bụ bẫm, láu lỉnh, sớm biết cách gây cười cho mẫu thân vui nhưng ngược lại Võ Chiếu chả mấy khi tỏ ý vui vẻ bên hoàng tử này. Cao Tông lấy làm lạ, hỏi:
– Vi Cương không có tư chất đế vương chăng?
– Không cứ là con đẻ của vua cha đã có chân mệnh. Đứa trẻ này không có mệnh ấy đâu.
Cao Tông cười cợt đùa:
- Vậy trẫm lại ban đứa trẻ khác cho nàng.
Võ Chiếu chợt nghiêm sắc mặt:
– Phận kẻ Chiêu nghi, sao dám mong hơn. Đợi khi phụng mệnh trời, thiếp sẽ tự khắc sinh đứa đế vương cho bệ hạ. Nói rồi cương quyết gỡ vòng tay đang rối rít của Cao Tông ra khỏi người mình và đặt lại một nụ cười trêu ngươi ám ảnh. Khác với mọi người, với chim muông, gỗ đá chưa bao giờ Cao Tông hưởng được niềm vui thanh thản trước cái cười ấy. Cao Tông đem nỗi tình đó ra nói với người cậu ruột của nàng là Vô Kỵ. Kỵ bảo: “Chiêu Nghi tài trí phi phàm, đức năng lớn, là người mà không đem đạo lý thông thường ra để xét đúng sai được. Thường người như vậy trời cũng không để chịu thiệt thòi, không xếp dưới người phàm. Bệ hạ nên thuận theo mệnh trời mà xếp đặt”. Biết ý Vô Kỵ muốn lập Võ Chiếu làm Hậu, tâm ý Cao Tông cũng đã khi muốn vậy nhưng ngài còn e điều tiếng, e bọn Việp Vương, Long Nha Vương, Thượng Quan Nghi, Từ Kính Nghiệp… mà chưa dám quyết. Kẹt giữa tình yêu và đạo lý, giữa triều đình với hậu cung bao ngày tháng lòng dạ Cao Tông vương vấn, bứt rứt không yên. Tinh thần u uất, bệnh tật vì thế mà thêm khó chữa. Cao Tông đa bệnh.
Võ Chiếu với lòng ham muốn tột độ, lại rất cơ mưu, có biệt tài thuyết phục lòng người nên chẳng mấy chốc bè cánh nàng thành ra một thế lực lớn lao. Từ ngày Vương Hoàng Hậu bị hại chết quyền hành thực ra đã do một tay nàng chi phối.
Võ Chiếu về với Cao Tông được ba tư năm.
Năm sáu trăm tám tư Cao Tông băng hà.
Nhà Đường sau đấy đổi sang nhà Chu.
*****
Tiết Trọng thu, ngày trăng tròn diễn ra buổi Đại lễ nhạc với chín trăm vũ nhạc công biểu diễn. Điều thiên hạ chưa từng có. Điều chỉ có thể tưởng thưởng bởi ý thức thánh thần. Thành Tràng An đêm nay như trong mộng. Lòng người hoan hỉ, an bình. Hạng người đèn sách cầu danh lại được phen đem thời Nghiêu Thuấn ra so.
Khi chín dàn trống lớn nhỏ, mỗi dàn chín cái nổi lên ầm ầm, uy linh rung chuyển (không dàn trống trận nào sánh bằng), để rồi sau đó réo rắt, trầm bổng mơ hồ như nước Lam tuyền chảy, như hương phất dậy từ muôn loài hoa khi chín dàn nhạc các loại nổi lên cùng nhịp bước trên bẩy trăm vũ công đẹp tựa thiên tiên trong những cánh áo đủ màu diễm lệ hiện ra múa hát. Lời ca nghe được, có đoạn rằng:
Lòng đời – lòng biển
thiên hạ đầy vơi
trước, sau kiếp người
ai mà thấu tỏ
thời gian có không
trong rừng cây cỏ
cây cỏ có không
trong tình nắng gió
có không – không có
sinh đôi tiếng cười
tiếng cười sâu bọ
tiếng cười Chúa Trời
màng chi sinh – diệt
sỏi đá rong chơi
i à í ơi…
Sử viết, việc ấy xẩy ra vào năm sáu trăm chín mươi nhăm, tròn năm năm ngày Võ Hoàng Đế đoạt ngôi.
Thiên hạ sau đại loạn đã vào kỳ đại trị.
– Bớ bá quan văn võ cùng thần dân bách tính, thấy chăng, cái gốc của việc dựng nước là ở nông dân!.. Bản Đại lễ nhạc này cùng với bao bộ sách như Đại Bách khoa toàn thư, Đại vân kinh, sách Thủy cung tập, Kim luận tập, Thần quỹ… trẫm lĩnh phép tắc của đạo trời mà chẳng quản công khó nhọc soạn ra cũng là muốn tạo phúc cho dân, lưu lấy điều quý giá về văn hóa, đạo học, tâm linh nhằm truyền dậy cho dân muôn sau biết mà theo. Cái cây lớn nhờ gốc rễ sâu chắc, dòng nước phải có ngọn nguồn, con người sống phải có văn hóa, mùa màng phải có nông dân. Nông dân là hoa trái mùa màng của giang sơn xã tắc. Giang sơn này trời đất giao cho trẫm gây dựng. Vì vậy lòng trẫm luôn yêu dân như con. Lời gan ruột tâm huyết này của trẫm có trời cao chứng giám…
Trên lễ đài, cách chỗ Võ Hoàng Đế ngự lãm vài sải tay, Phùng Tiểu Bảo ghé tai một vị sư thì thầm: “Nông dân là loại người tạo bằng nước mắt, mà kinh Đại vân là thứ giấy thấm kỳ đặc. Kèo cột dui mè ở chùa chiền đem ninh ra mà xem, toàn có nước mắt nông dân, chảy, chảy mà nên!…”. Nói rồi cười khùng khục. Nghe vị sư nọ cả kinh bịt tai, nguây nguẩy bảo: “Phạm thượng! Ngài mà nghe được thì đi luôn đấy…”. Tiểu Bảo càng cười to: “Ngài có tin vào nước mắt bao giờ…” – “Lẽ nào lời tuyên chỉ kia…” – “Ô hô, thưa bậc chân tu đạo hạnh. Ngài nói vậy mà không phải vậy!”. Vị sư nọ ngây người ngẫm ngợi một hồi rồi như ngộ ra, miệng cười mỉm, đầu gật gù đáp: “Lời lẽ bậc đế vương như núi Thái ngự trong tâm bão, gió giật ầm ầm mà không hề chuyển đổi. Hệt như một công án thiền …”
Cuộc chuyện ấy không qua được mắt Võ Chiếu. Khi bản Đại nhạc dứt ngàn người còn như không tin mình vừa mới được thưởng thức ngay ở trần thế này thứ âm nhạc hùng tráng vừa đầy uy linh chế áp lại vô cùng quyến rũ an ủi lòng người. Ấy là âm nhạc của thần tiên chế ra, trí não phàm trần sao tới được. Ngây ra một hồi người người mới như choàng tỉnh, ai nấy đều bái lạy Vỗ Hoàng Đế trăm lạy không thôi. Chính lòng Võ Chiếu cũng lấy làm ngỡ ngàng hoan hỉ lắm. Dù vậy, lúc hồi cung nàng vẫn không quên hình ảnh hai vị sư chụm đầu trò chuyện, bèn cho vời Tiểu Bảo lại hỏi:
– Giới tăng ni các người, nói xấu trẫm chăng?
– Bẩm, ngợi ca còn không hết ạ. Hạng thường nhân như bọn thần dám đâu xét việc thánh nhân.
– Ô, Tiểu Bảo của ta khéo nói tự bao giờ vậy. Đem ta ra đùa chơi ư?
Tiểu Bảo hoảng sợ sụp xuống, níu lấy chân Võ Chiếu mà rằng:
– Có nói, nhưng chỉ là câu đùa vui thôi. Cúi xin bệ hạ tha thứ.
Võ Chiếu không nhìn sự cuống quýt của Tiểu Bảo, chỉ mỉm cười:
– Là câu đùa chơi gì? Cứ nói, khanh biết trẫm sống chỉ như ghé qua cuộc đời chốc lát chơi vui.
– Bẩm, là nói chùa Đại vân là cái ao, kinh Đại vân là thứ giấy thấm đặc biệt cho nước mắt nông dân.
Sắc mặt Võ Chiếu hơi chùng lại, thoáng qua nàng lại tươi tỉnh như thường, vui vẻ bảo:
– Ô là là. Các nhà sư cũng văn vẻ vậy như. Lạ nhỉ! Là ao thì thả giống gì? Có câu nhử được không?
Tiểu Bảo lén nhìn sắc mặt người tình thấy đã vui vẻ thì buông lời đùa ghẹo:
– Dạ được, mồi lũ Phật tử, câu tình Thích Ca.
Võ Chiếu trìu mến, phấn khích cực độ trước câu nói bất ngờ rất hiếm gặp ở một trí năng như Tiểu Bảo. Đúng là chàng ta có biến đổi về chất.
– Ta muốn điều ngược lại, mồi Thích Ca câu Tiểu Bảo, cơ.
– Thân Tiểu Bảo này chỉ đáng giá cái lông chân Võ Hoàng Đế. Đâu dám kể gì.
Võ Chiếu lừ mắt, lấy làm phật ý bảo:
– Nhà người rẻ rúng thế, xứng với ta ư. Mà thôi, các người hẳn không chỉ luận đàm có vậy. Trẫm muốn qua các người thêm hiểu lòng thiên hạ. Cứ nói hết điều mình nghĩ ngợi cho trẫm nghe. Trẫm miễn tội, đừng sợ.
– Bẩm, thực là nói mấy vẫn những lời bệ hạ đã tường. Rằng đế vương không tin vào nước mắt, không đứng về phe nước mắt.
Võ Chiếu lặng đi, sau mới bảo:
– Nói đúng hơn, tin nhưng không thể gần, dùng nhưng không quý. Đế vương dụng nước mắt thiên hạ như nhà buôn dụng tiền tệ. Tiền khi dùng việc dựng đền đài khi chỉ để mua trò tiêu khiển. Khác chút ở chỗ, dân ví như cỏ, cỏ rẻ rúm nhưng không bẩn. Tiền thì bẩn.
Khi nói năng trần tình, dài lời lý giải vậy có nghĩa lòng Võ Chiếu đã cởi nghi kỵ, giận dữ. Là kẻ tâm phúc hầu hạ Võ Chiếu bấy lâu không ai trong triều tỏ lòng sâu tối nhà vua hơn được Tiểu Bảo, cả việc làm tình càng không ai sánh được ngón nghề vừa ý nhà vua, nên Tiểu Bảo mới dám thực lời thưa thốt, mới dám bông đùa khi vui vẻ.
Thời Võ Hoàng Đế trị vì nền kinh tế, văn hóa rất phát triển nhưng nạn tham quan ô lại, bán tước mua quan là căn bệnh nặng nề. Võ Chiếu dụng hình phạt rất hà khắc, dùng cả hình thức hòm thư tố giác đặt khắp các quận huyện. Hình phạt nặng nề khiến xã hội từ chỗ lũng đoạn, nhũng nhiễu đến chỗ xã hội tràn lan nỗi lo sợ tố giác lẫn nhau. Qủa tấn bi kịch tố giác, hãm hại nhau trong nhiều ngày tháng khiến cho bao người, bao gia đình gặp cảnh máu rơi lệ chảy bi thảm vô cùng. Một xã hội bên ngoài có vẻ phồn vinh nhưng thực chất bên trong chất chứa đầy mâu thuẫn, bất an. Nói chung kiểu nào cũng không đạt được một nhà nước trung thực, công bằng. Võ Hoàng Đế hiểu rằng khi ngài lỏng tay chuyên chế thì lập tức cái xã hội được xem là tiến bộ này sẽ lâm vào cảnh năm cha ba mẹ, rối như canh hẹ. Không đại thần nào thấu hiểu lòng ngài có lúc bối rối thế nào. Đêm thu này nhà vua cho mở Đại nhạc hội nhằm biểu dương văn hóa và cũng nhằm dùng các hình thức vui chơi giải trí, đề cao nghệ thuật cuốn hút tâm trí lớp sỹ tử, để xoa dịu, gây mối quan tâm khác trong lòng bách tính. Ngài viết “Nông dân là gốc của nhà nước…” là một nhận thức mang tầm vóc lịch sử. Đúng là nền nông nghiệp đang phát triển tốt nhưng sâu xa không phải không có mùi vị mị dân trong mơ hồ âu lo rạn vỡ nền tảng triều đại. Đã có lúc âm thầm Võ Chiếu tự nhủ, kệ thây cái cõi nhân quần tham lam, ngu dốt, bần tiện này. Nó sẽ tự mục rữa. Nó muôn đời vô phương cứu chữa. Lòng tham lam ích kỷ là bản chất gốc, là thuộc tính của các giống sinh vật trên đời mà con người luôn là biểu hiện sâu sắc nhất, dù khi nó được mỹ tự hóa bằng nhiều ngôn thuyết cũng chỉ nhằm bảo vệ lấy cái lợi ích tối hậu – Lợi ích của cá thể – ngưòi mà thôi. Một đời sống mà sự thiện ác vẫn khốc liệt giao tranh, những tấn bi kịch bi hài cứ thay nhau vần xoay dù phương thức, ngôn thuyết có khác thì bản chất thế gian vẫn mang gương mặt ngàn xưa. Con người bị cưỡng đoạt phẩm tính ngay từ khi trong nó xuất hiện nhu cầu sống quần thể, nhu cầu mở rộng không gian, đất đai, ngay từ khi nó tìm ra lửa và biết lợi dụng lửa để bước ra khỏi hang lỗ… Thế mà các khanh, bọn ti toe đôi chữ lại đem cái kính gọi là “tiến bộ” nhằm soi xét việc biến cải thế gian này. Thật là thứ trò hủ nho, ngụy biện. Cứ xem bộ kinh Đại vân trẫm soạn, dân trăm họ ra rả đọc hàng ngày kia, song vì thế mà bảo là có tiến bộ tâm linh được ư? Trẫm thấy chỉ có giá trị cá thể người là giá trị phản ánh được cái gọi là – Chân lý con người. Vì vậy, cái triều đại này nó mang gương mặt của trẫm chứ nó có thể nào mang gương mặt bọn nông nô. Vậy mà trẫm vẫn phải nói nông dân là gốc của nước và câu nói đó được cho rằng “tiến bộ” trong tư tưởng xã hội. Thật là một trò chơi con người vui vẻ! Đời sống – xã hội là một canh bài chỉ Siêu – Cá – Thể mới có quyền đặt cái! Quyền lực đế vương là như thế đấy!…
Tiểu Bảo đêm ấy lòng dạ không hiểu sao cứ quay quắt hồi tưởng những gì đã trải bên Võ Chiếu, những gì nàng đã từng nói với đám cận thần nô dịch của nàng, nói riêng với người tình Tiểu Bảo và đối chiếu với điều nàng vừa trần tình về thuật dụng nước mắt thiên hạ, về cách dụng nông dân mà lòng hốt nhiên kinh sợ. Qủa nàng là một tạo vật có thể sinh hóa, thao túng trọn vẹn đời sống thế gian nhẹ nhàng tự nhiên như con trẻ chơi trò. Có người bảo Võ Chiếu chơi trò đế vương, chơi tâm linh, chơi xác thịt – dâm không từ mánh lới nào là cách trả thù cuộc đời cho những nhận thức, trải nghiệm sâu sắc trong sự đồi bại ghê tởm về nó. Nàng đem chính sư sống đời mình ra để trả thù con người – nhân thế trong mình. Như một cách tự hiến sinh! Tiểu Bảo trước nhận biết này chỉ mơ màng, u u minh minh. Một lần đem điều ra hỏi một bậc sỹ phu, thì được bàn: Con người – bệ hạ là một thế giới. Trong thế giới đó có cả hai mặt sống thế gian, sáng tối, chân ngụy, sang hèn, thật giả, tiếng cười và nước mắt… Ngài trải nghiệm sâu sắc cả đôi phần sống đó. Nhưng ngài lựa chọn Một – năng lực để xuyên suốt mọi hình thái nhân sinh, để chốt cửa cho mọi kết cục, đó là Tiếng cười. Ngài sống qua hết thẩy và mỉm cười khinh khi hết thẩy. Ngài rong chơi qua dâu bể cõi người. Tất nhiên, chơi kiểu đế vương. Mà thuật cao cường, lớn lao nhất của cuộc chơi ấy là thuật dụng nước mắt trong khổ nghèo, dốt nát, chiến tranh của thiên hạ để dụ dỗ, kích động nuôi điều lý tưởng. Nền thống trị mọc lên từ đó. Ngài là một nhà thống trị siêu việt. Xét ở cách nhìn này, chưa hẳn sự trả thù con người là một lựa chọn duy nhất. Trong trí lự kẻ thiên tài không có điểm Duy Nhất. Thiên tài – Đế vương là người đa diện, hai mặt, nhiều mặt! Thiếu trung thực, bỉ ổi, dối trá, trả thù, mị dân… là cách thức thống trị. Cách thức đế vương! Dĩ nhiên không phủ nhận sự hi hữu cao đẹp!… Bậc sỹ phu đó luận một hồi rồi nheo mắt cười, nheo mắt nhìn sư Tiểu Bảo nói thêm, đừng chê ta dùng lời lẽ ba que mách qué. Dính đến nền thống trị bá đạo thì từ ngữ nào cũng trở nên đểu giả cả. Ông chớ nói lại với bệ hạ kẻo mạng ông cũng không giữ nổi đâu. Trong đêm Đại nhạc hội này Tiểu Bảo nhớ lại đầy đủ và thấy toàn thân mồ hôi cứ dịn ra dù tiết trọng thu khí trời đã se lạnh. Tinh thần bứt dứt không yên mà chẳng hiểu ra sao cả.
Về Phùng Tiểu Bảo, sử viết, tên vua ban là Tiết Hoài Nghi, vốn là mỹ nam được tuyển vào cung thời hoàng đế Cao Tông. Hắn tính tình dễ dãi, ham vui, hay sa đà rượu chè, vóc dáng thì đẹp đẽ, cường tráng có thể nâng bổng vật nặng trăm cân lại có khiếu múa may uốn lượn như thân nhi nữ. Nhờ có vẻ cơ thể đó mà Tiểu Bảo không bị thiến và được đưa ngay vào hầu hạ ở hâu cung. Tiểu Bảo được Võ Hoàng Đế yêu thích vô cùng. Mối quan hệ ân ái giữa Tiểu Bảo và Võ Chiếu có từ thời Cao Tông còn sống. Cao Tông ghen ghét đã định giết đi. Võ Chiếu phải lén đưa Tiểu Bảo trốn vào một ngôi chùa, cho xuống tóc tu, cấm không được hoàn tục. Khi Cao Tông băng, Võ Chiếu đón Tiểu Bảo về, dựng chùa Đại vân kề cận bên cung cho trụ trì ở đó để sớm tối tiện qua lại.
Được đế vương nuông chiều lại với bản tính dễ sa đà, Tiểu Bảo ngày tỏ ra tiểu nhân đắc chí, càn rỡ đủ điều, cả gan vụng trộm ái ân với công chúa con Cao Tông mà không ai dám khuyên can gì. Chuyện này lâu sau Võ Chiếu mới hay, nàng nổi giận giết chết mấy người. Song lần ấy Võ Chiếu vẫn chưa xuống tay với Tiểu Bảo. Chỉ tới ngày Tiểu Bảo quá chén đã cưỡng hiếp một dân nữ vào chùa lễ Phật, ngay bên tượng thờ thì mới bị giết. Hôm phải giơ đầu chịu chém Tiểu Bảo mới thẫn thờ nói: Sư tôi thường bị cưỡng tình ngay chính chỗ này, thế mà vẫn vui vẻ cả!.. Phập! Xong chóng vánh một thằng người… An ủi là tình sâu đậm Võ Chiếu dành cho Tiểu Bảo không nhẹ. Sau khi Tiểu Bảo chết Võ Chiếu buồn thơ thẩn mất thời gian dài. Tâm trạng, tình cảm vậy quả chưa hề có trong lòng – Một con người vốn sớm tối chỉ lấy tiếng cười làm chủ, lấy quyền lực để ra ân uy.
Phải tới khi được hai anh em nhà họ Trương, là Trương Xương Tông và Trương Dị, Võ Chiếu mới nguôi quên người tình cũ. Võ Chiếu bảo với anh em nhà họ Trưong: Trẫm ở trần gian bằng ấy năm, xét thấy cũng vẫn là trong lẽ lời dạy, lời nguyền của bà nội và của thân mẫu. Thân mẫu muốn trẫm giữ đạo nữ nhi “tứ đức tam tòng”, nội thì dạy cho cái lẽ sinh tồn muôn đời vẫn trong vòng bản năng nguyên thủy. Cầm lời thân mẫu trẫm làm văn hóa – tâm linh. Cầm lời nội trẫm chơi trò con người vương giả. Nay trẫm đã gần ngày về với hai người thân đó rồi mới hiểu, rút cục nội trẫm có lý hơn. Thế gian vô thường, trời đất vô hướng vậy con người cố thủ lấy cái hữu tâm hữu lý được không? Không được! Không được! Phật ngữ có câu buông tay đồ tể thành Phật. Thích Ca xứng là lão ca ca của trẫm. Lão mà sống cùng thời với trẫm thì phải biết. Hì hì… Sống cho mỗi từng khoảnh khắc thực tại. Cái ngàn năm nó cư trú trong mỗi sát na, chứ còn ở đâu. Tương lai – là chữ mù mờ nghĩa, xét về thời gian. Mà thời gian – cũng là cái bẫy chữ bọn hủ nho đặt ra để nuôi giấc mộng công danh, đạo lý cho lũ học trò hậu bối mà thôi. Đáng ngờ hơn là chữ Chân lý. Là đế vương, điều hành sắp đặt thế gian bao năm nay trẫm mới ngộ ra điều cốt yếu đó. Sống là một quá trình luôn luôn tự phủ định. Con người là thứ cần phải vượt qua. Có ai nói vậy chưa nhỉ? Chữ nhà Phật dùng cho nghĩa sống, chân xác hơn là Sinh và Diệt! Chẳng có phần thưởng gì dành cho mỗi cá nhân trong cái Tương lai xa lắc lơ đó. Luôn biến đổi, sinh rồi diệt. Đó là nghĩa thế gian! Có cái gọi là Chân lý tương đối chăng? Chân lý chính là chữ cần phải cảnh giác bậc nhất! Hì hì… Khốn thay cho trẫm, trong cơn giẫy giụa quyền lực trẫm cũng có khi phải thủ đoạn, bày đặt đủ trò chữ nghĩa. Vật trẫm sợ nhất là Chữ đấy. Nó là vật đáng sợ bậc nhất trên đời! Đã có lúc trẫm định ra chiếu lệnh Cấm chữ. Ôi, đây là cái lệnh mà kẻ làm thống trị xã hội nào cũng muốn ban. Đây là sự bất lực duy nhất của trẫm… Võ Chiếu nói khi thủ thỉ, lúc líu lô và không ngừng cười cợt, khoái hoạt lạ thường. Này, hai anh em, đứa xoa chân đứa vỗ lưng cho trẫm đi. Cơ bụng trẫm đã xệ xuống rồi, cặp đùi cũng không còn săn chắc nữa rồi. Gần đây trẫm thấy cơ thể khác rồi. Bát thập đến nơi rồi. Chẳng hưởng lạc thú trần gian được mấy nả nữa. Tiếc! Nhưng mà thôi… Mai kia ngủ giấc thiên thu, buông tay bỏ lại tù mù thế gian, vầng trăng đáy nước ngấn vàng, từ lâu tađã để tang ta rồi, bây giờ dắt cỏ rong chơi, cỏ ơi những dấu con người còn không, bây giờ dắt gió lông nhông, gió ơi đáy của mênh mông chỗ nào, từ ngày biết có chiêm bao, dắt tay hư ảnh tìm vào gọi tên… Thơ bọn nông dân đấy. Nó như mộng mà không phải mộng. Nó tựa như việc thu hoạch mùa màng…
Anh em nhà họ Trương nghe như vịt nghe sấm. Biết rõ điều đó nhưng Võ Chiếu vẫn say sưa trò chuyện như chuyện với người tình Tiểu Bảo hồi trước. Chừng vì bọn họ không thể hiểu lẽ thế gian đó thì nó mới được lộ ra… Bọn họ trước Võ Hoàng Đế chừng chỉ là cái bia câm, vô ngôn. Điểm cần là ở lẽ đó.
Chữ – là vật đáng sợ đến thế ư! Anh em họ Trương có chút chữ, chưa nhiều, chưa đủ biết để mà kinh chữ, chúng mới biết khinh chữ thôi. Bọn biết khinh chữ đời thường nhàn, sướng, có khi còn làm quan. Chức quan càng to càng khinh chữ, khinh bọn trí giả. – Anh em các người, có nhẽ còn biết cách hầu tình trẫm hơn Tiểu Bảo. Đúng là thú vị hơn. Đừng chê trẫm ham ái tình quá, nhé. Trẫm cũng là một cái thằng con người thôi. Khi đau đẻ, trẫm biết mình là đàn bà. Khi vui thích với vẻ đẹp trai trẻ anh em ngươi, trẫm biết mình là đàn bà. Và trẫm biết mình sắp nguột sức trần gian rồi. Trẫm sẽ ban bổng lộc đời đời cho anh em ngươi… Võ Chiếu nói nói cười cười rổn rang như đang riêng mình một cõi sống, như trong chiêm bao. Chỉ anh em họ Trương là đang trong thực tại nồng nàn, đúng như mơ ước. Bấy nay họ thấp thỏm chờ chỉ một lời ban phát ấy…
Sử viết, mới hay Võ Hoàng Đế vẫn còn góc lòng thường tình của một người – đàn bà.Và vì vậy, nàng có đời sống trong nghĩa thế gian, dù cho đó là cái thế gian tội lỗi, xác thịt nhơ nhớp. Cái thế gian mà ở đó Con người – Tập thể chưa một lần thừa nhận nhau, luôn loại trừ, phủ định nhau. Con ngườì chỉ có thể là Một Cá Thể. Sự vĩ đại và tấn bi kịch của họ là ở đó. Vinh danh thay cho Võ Chiếu Con Người bởi nàng đã xác định được tư cách cá thể đời mình trong thực tại. Và quan trọng hơn, ngay trong nhận thức – cá thể nàng đã thoát ra mọi sức dụ dỗ, tôn vinh hay trói buộc của nó do ngàn đời đã bị tập nhiễm bởi những quy ước, tập quán, bị thao túng bởi thói vụ lợi xã hội. Vinh danh thay cho Võ Chiếu Con Người không phải nàng là chủ nhân của một vương quốc, điều căn bản hơn, quý báu hơn nghĩa sống cõi thế gian này, là nàng – chủ nhân của Tiếng cười mà nửa bên còn lại của thế gian là Nước mắt. Phú ông xin đổi hòn xôi, Bờm cười! Người phương Nam từ rất lâu họ đã ngộ ra lẽ sống ấy và Võ Chiếu đã hạnh ngộ gặp được lời ca đó khi còn là cô gái ngồi bên khung cửi, cùng duyên may, nàng có được người bà nội có cách giải nghĩa thế gian lạ, đã truyền bảo bao điều “quái gở, vô nghĩa” (Theo lời mắng mỏ của thân mẫu mà nàng vẫn nhớ), trước ngày nàng vào cung – nơi mà nguồn sống hồn nhiên, bản năng bị mài mòn bởi những giáo điều khô cứng; nơi mà cái nghĩa Đức hy sinh bị lợi dụng triệt để nhất, tàn bạo nhất để phục vụ cho sự hưởng lạc và thống trị xã hôi.
Vinh danh thay cho những nhận thức về giá trị nhân sinh trong từng khoảnh khắc sống, và vì nó, nàng đã tự hiến sinh!..
*****
Linh sơn ngày đẹp trời. Bên mười tám ngôi mộ, trên bia ghi đầy đủ danh tính, công trạng với bao diễn từ ngợi ca, có một ngôi bia không chữ. Tuyệt không một vết chữ! Điều bí ẩn thách thức cách lý giải thế gian. Hôm ấy dù cảnh trời đất rất tươi sáng nhưng là tiết Lập đông nên khí núi phương Bắc tỏa ra đã thấm lạnh, người ngựa co ro. Rừng cây tiếp giáp trùng điệp núi non sắc xám pha một màu lá cây vàng rực, lác đác rơi. Một cảnh đẹp lộng lẫy hoang sơ, vẻ cô đơn và tiêu huyền lắm. Thực như vẫn còn đây không gian Đường thi vậy.
1.Từ rất lâu trong tôi có một ý thức dù mơ hồ nhưng khôn nguôi rằng tôi sẽ phải đến thăm nơi Linh sơn mộ địa này. Bây giờ, khi trang bản thảo viết về nàng Võ Chiếu sắp hoàn thành, phần còn lại là điều trăn trở về tấm bia mộ không chữ trên ngôi mộ nữ hoàng đế – Một con người công trạng hiển hách, trí tuệ uyên nguyên, chữ nghĩa đầy một bụng và hành trạng tinh thần thì bội phần phúc tạp, bí nhiệm, lý do nào xui nên quyết định đặt tấm bia mộ vậy? Nàng e điều tiếng gì đó trên cõi thế ngàn năm ư? Nàng coi thường mọi vinh quang con người? Hay chỉ đơn giản nàng tự quên mình, muốn xóa mọi dấu vết vật chất – dù chỉ là xác chữ, thuộc về mình?… Dường đều không phải. Nàng không “muốn” lãng quên hay nhắc nhớ – vì thảy đều vô nghĩa khi các thực tại trần gian với nàng đã trở thành thăm thẳm, thành hư không. Sự “vô ngôn” khi là một chủ ý thì hiển nhiên điều đó đã mang một ý nghĩa. Là: ý nghiã về sự vô nghĩa thế gian mà tinh thần – tình yêu con người phải chịu đựng?
2.Tiếng khóc thiên hạ và Tiếng cười thế gian mà nàng ý thức được, nàng mượn để sống, để rong chơi qua cõi đời này, có can dự ý nghĩa gì trong tấm bia mộ vô ngôn? Nhớ trong khúc hát nàng hay hát thời thiếu nữ do người bà nội dậy, có câu: Tiếng cười làm không, Tiếng khóc lụy có… Phải chăng sự Vô ngôn của tấm bia kia gần với nghĩa Tiếng cười?
3. Nàng bảo: Có nên tìm đến tận ngọn nguồn chữ nghĩa không? Có vẻ anh là người chơi chữ không sợ đứt mạng. Nói và làm một động tác chặt đầu. Bản tính khó rời, hơn ngàn năm rồi nàng vẫn ưa đùa cợt.
Tôi bảo: Nàng chơi cả trò chữ nghĩa như bọn thi nhân? Chơi trò con người mãi, móm cả lợi mà chưa chán chê sao?
Nàng bảo: Khiếp. Anh nói năng cứ như bọn đế vương vậy.
Tôi bảo: Thời tôi sống tự do dân chủ, xem đế vương là đồng chí đồng bào và nhẹ hơn người tình. Nàng còn nhớ Tiểu Bảo không?
Nàng bật cười khinh khích, tay chân ý chừng muốn ra hình phạt, và bảo:
– Ta giờ trọng hư hơn thực, trọng bóng hơn xác bóng. Không còn thấy Tiểu Bảo đâu nữa.
Tôi bảo: Ngày còn hưởng dương nàng cũng “trọng bóng, khinh hình” rồi. Đấy cũng là cách thức thế gian, cứ gì tiên cảnh, phải không?
Nàng bảo: Có thế. Nhưng là cái thằng con người thì vẫn phải dựa vào vật chất.
Tôi bảo: Tâm mượn vật mà hiện.
Nàng bảo: Phải!
Tôi bảo: Người ta trách nàng quá tàn nhẫn. Không trọng sinh mạng kẻ khác.
Nàng bảo: Luật tự nhiên cũng có coi trọng một ai à? Cách thức thế gian khắc nghiệt lắm.
Tôi bảo: Có người nói, nàng phủ nhận chân lý nên mới ác. Và dạy, chân lý cứu cánh cho con người.
Nàng bảo: Gặp hình ảnh sư tử yêu con, con người có thấy cái ác ở nó không? Ngày sau thấy nó cắn xé đồng loại, con người có thấy điều thiện ở nó không? Ông Lão Tử bảo, Trời – đất coi vạn vật như chó rơm. Ông Trang Tử bảo, Đạo có trong cục phân. Chân lý của các anh có ở trong cục phân không? Và hỏi thêm, vẻ như anh là một anh giáo học?
Tôi bảo: Phải thì sao?
Nàng bảo: Hành nghề ấy đáng thương lắm. Thân lừa ưa nặng, mang toàn điều giả tạm thế gian.
Tôi bảo: Dường có một cách thức thế gian khác, tôi chưa biết?
Nàng bảo: Ta ít học lắm. Mắt môi nàng đều ánh nụ cười mỉa mai, khinh bỉ.
Tôi bảo: Cũng có người ngợi khen nàng.
Nàng bảo: Hẳn đó là người biết không riêng chỉ chữ chân, thiện, mỹ.
Tôi bảo: Nàng biết hơn ba chữ đó, chữ nào nàng trọng?
Nàng bảo: Ta biết chữ “không” – Trời, ông ấy không có chữ.
Tôi bảo: Như tấm bia kia.
Nàng bảo: Phải. Như tấm bia kia… Chợt đắn đo.
Tôi bảo: Nó rất nặng. Những ngót trăm tấn mà cái trọng lượng ấy vẫn bằng “không”, bởi một giá trị ngoài nó. Nó chỉ cần một chữ.
Nàng bảo: Phải!
Tôi bảo: Một chữ, lập tức tấm bia hết sức nặng trần thế.
Nàng bảo: Phải!
Linh sơn mộ địa hôm ấy không một bóng khách hành hương. Phía bên phải dẫy núi có khói lam mờ bay lên. Phía bên trái núi thấp thoáng mấy bóng chim thưa thớt. Trên đỉnh núi chỉ có bầu trời hẹp, cô đơn. Lòng tôi mong thấy tuyết. Lạnh thì cơ thể con người thấy rõ về sự sống hơn.
****