Tôi không biết trong Hán ngữ ngày nay còn có từ vựng nào kỳ lạ như số phận của “nhân dân”. Nó không ở đâu là không có, đồng thời lại bị con người nhìn mà không thấy. Trung Quốc ngày nay, hình như chỉ có các quan chức là mở mồm ngậm mồm nói “nhân dân”, còn nhân dân rất hiếm đề cập đến từ vựng này, hay nói cách khác đang quên nó. May nhờ có nước bọt của các quan chức, từ vựng này mới tỏ ra mình vẫn tồn tại.
Trước kia từ vựng này đã từng hiển hách biết chừng nào. Nhà nước chúng ta gọi: “Nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa”. Mao chủ tịch nói: “Vì “nhân dân phục vụ”.” Lúc bấy giờ tờ báo quan trọng nhất gọi là “Nhân dân nhật báo”. Những cá nhân chúng ta, ngày ngày nói: Từ sau năm 1949 nhân dân đã trở thành người làm chủ.
Trong những năm tháng thơ ấu của mình, “Nhân dân” là từ vựng thiêng liêng giống như “Mao Chủ tịch”. Lúc tôi vừa học chữ, trước hết là học hai từ vựng này, sau đó mới học viết tên mình và tên bố mẹ. Tuổi thơ ấu tôi đã từng cho rằng: “Nhân dân chính là Mao Chủ tịch, Mao Chủ tịch chính là nhân dân”.
Thời đó đang diễn ra cuộc đại cách mạng văn hoá, tôi dương dương đắc ý tuyên bố phát minh của mình khắp nơi, tôi nhìn thấy rất nhiều nét mặt nghi hoặc, hình như họ cảm thấy phát minh của tôi còn phải bàn thêm, nhưng không ai tỏ vẻ phản đối rõ ràng. Lúc bấy giờ ai cũng hết sức cẩn thận giữ mồm giữ miệng, chỉ cần nói sai một câu, là sẽ có thể trở thành phần tử phản cách mạng, từ đó mà tan cửa nát nhà. Khi bố mẹ tôi nghe thấy phát minh của tôi, cũng tỏ vẻ như vậy, bố mẹ hết sức thận trọng nhìn tôi nói vòng vo: câu này hình như nói không sai, nhưng tốt nhất không nói.
Đây là phát minh quan trọng nhất ở tuổi nhi đồng cuả tôi, tôi đâu có xá đi tuyên truyền, tôi tiếp tục nói ra ở cửa miệng. Một hôm tôi đột nhiên tìm được chứng cứ cho phát minh của mình. Thời đó thịnh hành một câu nói: Mao Chủ tịch trong trái tim nhân dân. Tôi đã phát huy câu nói này. Tôi nói: Trong tim mỗi người dân đều có Mao Chủ tịch. Trong tim Mao Chủ tịch có gì? Có mỗi người dân chúng ta. Cho nên nhân dân là Mao Chủ tịch, Mao Chủ tịch là nhân dân.
Những nét mặt nghi hoặc tôi nhìn thấy đã mất dần trên thị trấn của chúng tôi, có người bắt đầu gật đầu tỏ vẻ đồng ý, có người bắt đầu cũng nói như thế. Đầu tiên là các bạn nhỏ của tôi, sau đó đến bọn người lớn.
Khi rất đông người đều nói: Nhân dân là Mao Chủ tịch, Mao Chủ tịch là nhân dân, tôi có cảm giác khủng hoảng. Trong những năm tháng cách mạng không có độc quyền, tôi phát hiện mình là người phát minh đang nhanh chóng mất đi tên tuổi. Ở đâu tôi cũng bày tỏ: Mình nói câu ấy đầu tiên. Nhưng không ai tỏ ra hứng thú. Cuối cùng ngay đến các bạn nhỏ bên tôi cũng không thừa nhận tôi phát minh câu nói đó. Trước cãi lý của tôi, hay nói cách khác, trước sự van nài đáng thương của tôi, bọn chúng đều lắc đầu nói: Mọi người ai cũng nói như thế.
Tôi bắt đầu đau lòng, thậm chí hối không kịp. Tôi hối hận đã công bố phát minh của mình trước dư luận. Tôi cảm thấy nên mãi mãi giấu kín phát minh của mình trong lòng để độc quyền hưởng thụ suốt đời.
Sự kiện Thiên An Môn (Trung Quốc) 1989.
Những năm qua, phương Tây kinh ngạc trước sự thay đổi to lớn của Trung Quốc. Lịch sử ở Trung Quốc quay quắt giống như trong kịch Tứ Xuyên, chỉ ba mươi năm ngắn ngủi, một đất nước Trung Quốc lấy chính trị làm trên hết, chỉ rung người một cái đã biến thành một Trung Quốc lấy tiền bạc làm chí tôn.
Trước bước ngoặt lịch sử thường xuất hiện sự kiện có tính chất đánh dấu. Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 chính là sự kiện như vậy. Sinh viên Bắc Kinh đi ra khỏi cổng trường, đến tụ tập tại quảng trường Thiên An Môn, yêu cầu tự do dân chủ, đồng thời phản đối quan phe, do chính phủ giữ lập trường cứng rắn, từ chối đối thoại với học sinh, sinh viên bắt đầu tuyệt thực, dân chúng đổ ra đường phố ủng hộ sinh viên tuyệt thực. Thị dân lúc đó quả thực không có hứng thú lớn đối với tự do dân chủ, cuốn hút họ gia nhập phong trào này trên quy mô lớn là khẩu hiệu: Phản đối quan phe. Thời đó cuộc cải cách mở cửa do Đặng Tiểu Bình dẫn dắt đã bước sang năm thứ mười một. Tuy cải cách dẫn tới tăng vật giá, nhưng kinh tế tăng trưởng ổn định, mức sống ngày càng nâng cao, nông dân là người được lợi của cải cách mở cửa. Các nhà máy phá sản đổ vỡ trên quy mô lớn trong những năm chín mươi vẫn chưa diễn ra, rất đông công nhân vẫn chưa trở thành nạn nhân. Mâu thuẫn xã hội lúc đó vẫn chưa nổi trội, khác với xã hội thời nay đâu đâu cũng bùng lên ngọn lửa căm giận. Xã hội lúc đó chỉ tràn ngập không khí oán thán, tỏ ra bất mãn đối với những con em quan chức cao cấp lợi dụng tài nguyên nhà nước phát tài làm giầu, trước tình hình bất mãn như thế họ đã tụ tập lại dưới khẩu hiệu phản đối quan phe. Bây giờ xem ra, nạn tham nhũng của một số ít quan phe hồi đó so với nạn tham nhũng nhiều mầu sắc trên quy mô lớn hiện nay quả tình chưa thấm vào đâu. Từ những năm 1990 đến nay tốc độ tăng trưởng tham nhũng ở Trung Quốc cũng kinh khủng như tăng trưởng kinh tế.
Phong trào quần chúng như lửa như trà loang rộng khắp Trung Quốc đã rất nhanh chóng lắng xuống trong tiếng súng lúc sáng sớm ngày 4 tháng 6. Tháng 10 cùng năm, khi tôi đến trường đại học Bắc Kinh một lần nữa, đã là một cảnh tượng hoàn toàn khác hẳn. Sau khi mặt trời lặn, bên hồ Vị Danh xuất hiện từng đôi từng cặp bóng người yêu. Trong nhà tập thể của sinh viên vang lên những tiếng đánh mạt chược và tiếng học thuộc từ đơn tiếng Anh. Chỉ qua một mùa hè, tất cả đều thay đổi, y như lúc sang xuân không xảy ra chuyện gì. Sự khác biệt lớn như thế dường như nói lên một sự thực: Sự kiện Thiên An Môn đánh dấu một lần bùng nổ tập trung lòng nhiệt tình chính trị của người Trung Quốc, hay nói cách khác đánh dấu nhiệt tình chính trị tích lũy từ cách mạng văn hoá đến nay cuối cùng đã được một lần phớng thích sạch sẽ, tiếp theo là nhiệt tình kiếm tiền đã thay thế nhiệt tình chính trị. Khi muôn người như một đều kiếm tiền, sự phồn vinh kinh tế của những năm 1990 tự nhiên đã đến.
Sau đó những từ vựng mới toanh bỗng dồn dập ập đến. Ví dụ dân mạng thường xuyên lên mạng, dân cổ phiếu chơi cổ phiếu, dân quỹ mua quỹ, những kẻ tôn sùng chạy theo các ngôi sao, công nhân mất việc làm, nông dân đi làm thuê vv…, đang xâu xé chia tách từ vựng: “nhân dân” đã phai mầu xuống nước. Trong thời kỳ cách mạng văn hoá, định nghĩa nhân dân vô cùng giản đơn, đó là “công nông binh học thương”. “Thương” ở đây không phải chỉ thương nhân mà là chỉ đám người làm công tác thương nghiệp như người bán hàng trong cửa hàng. Tôi nghĩ, sự kiện Thiên An Môn năm 1989 chính là đường ranh giới để nội dung “nhân dân” thoát thai đổi cốt, hay nói cách khác để “nhân dân” tiến hành tổ chức lại tài sản. Nội dung cũ bị bóc tách, nội dung mới được thay vào.
Trong hơn bốn mươi năm bắt đầu từ cách mạng văn hoá đến nay, từ vựng “nhân dân” trong hiện thực của Trung Quốc hình như trống rỗng, nói theo thuật ngữ kinh tế thịnh hành ở Trung Quốc hiện nay, “nhân dân” chỉ là tài nguyên vỏ, mỗi thời đại khác nhau dùng nó làm cái vỏ tung ra thị trường với nội dung khác nhau.
Bắc Kinh mùa xuân năm 1989 là một thiên đường của những người theo chủ nghĩa vô chính phủ. Cảnh sát đột nhiên mất hút, sinh viên và thị dân tự phát đảm nhiệm trách nhiệm của cảnh sát. Tôi nghĩ, một Bắc Kinh như vậy có lẽ cũng không bao giờ xuất hiện nữa. Mục tiêu chung và nguyện vọng chung làm cho một thành phố không có cảnh sát có trật tự nề nếp, chỉ cần đi ra ngoài đường, bạn sẽ cảm thấy không khí thân thiết hữu hảo ập đến trước mặt, khỏi cần mua vé là có thể ngồi tầu điện ngầm và xe giao thông công cộng, tất cả mọi người đều mỉm cười với nhau, giữa người với người không có cảm giác xa lạ. Không có những cuộc cãi vã ở đường phố chúng ta thường thấy: Những chủ tiểu thương tính toán chi ly cung cấp thức ăn và nước uống miễn phí cho đám đông diễu hành, những người già nghỉ hưu rút tiền mặt ít ỏi của họ trong sổ tiết kiệm ngân hàng, quyên góp cho sinh viên tuyệt thực trên quảng trường. Còn có cả bọn ăn cắp lấy danh nghĩa hiệp hội ăn cắp ra tuyên bố: Để chi viện cho sinh viên tuyệt thực đã dừng mọi hành vi trộm cắp… Có thể nói Bắc kinh lúc đó là một thành phố người trong bốn bể đều là anh em.
Sống trong thành phố Trung Quốc có một cảm thụ mạnh mẽ: tức là người đông, nhưng sau khi trải qua cuộc biểu tình lớn hàng triệu quần chúng ở quảng trường Thiên An Môn, bạn sẽ thật sự cảm nhận Trung Quốc là một nhà nước đông người nhất thế giới. Quảng trường Thiên An Môn ngày nào cũng là một cảnh tượng hoành tráng núi người biển người. Một số sinh viên ở tỉnh ngoài kịp đến đứng ở một góc quảng trường, hoặc đứng ở đường phố diễn giảng hết ngày này sang ngày khác, nói đến khản cổ, thậm chí mất tiếng. Những người vây xem là già trẻ trai gái, cho dù là các bậc lão giả nếm trải phong sương, hay là những bà mẹ bế trẻ con, đứng trước những khuôn mặt sinh viên non trẻ, thậm chí những lời nói ấu trĩ, họ đều tỏ vẻ tôn trọng, luôn gật đầu và vỗ tay nhiệt liệt.
Cũng có lúc tôi cảm thấy buồn cười. Buổi chiều hôm ấy, tôi đến một gian nhà lớn tối om của Viện khoa học xã hội Trung Quốc ở cửa Kiến quốc, tham dự một cuộc họp mặt của Hội liên hiệp giới trí thức thủ đô, khi chờ đợi Nghiêm Gia Kỳ đến muộn, tôi trông thấy mấy người đang chỉ trích ông phó tổng biên tập của một tòa báo, tòa báo này vừa cho đăng một bản tuyên bố của Hội liên hiệp giới trí thức thủ đô. Mấy người này bất mãn là bởi vì vị trí ký tên của họ trong tuyên bố sát phía sau quá. Trong chỗ ký tên phía trước họ có vài người không có danh tiếng bằng họ. Họ trách hỏi tại sao lại để trước họ những người không có tên tuổi? Ông phó tổng biên tập xúi quẩy kia cứ giải thích mãi không phải trách nhiệm của ông, thậm chí còn có lời xin lỗi, thế nhưng mấy vị kia đâu có chịu buông tha. Mãi đến khi Nghiêm Gia Kỳ xuất hiện, vở kịch vui này mới coi như kết thúc.
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Nghiêm Gia Kỳ, từ đó về sau không gặp lại ông ấy nữa. Tôi còn nhớ rất rõ cảnh tượng chiều hôm đó. Vị học giả nổi tiếng gần gũi Triệu Tử Dương lúc đó đi vào gian nhà tối tăm đầy vẻ lo âu. Mọi người yên tĩnh trở lại, Nghiêm Gia Kỳ đem đến một tin xấu, giọng ông nói trầm buồn:
– Triệu Tử Dương đã nằm viện.
Trong môi trường chính trị lúc đó, nhân vật chính trị chỉ cần lấy lí do bị ốm đi bệnh viện là có ý đã mất đi quyền lực, hoặc có ý lảng tránh. Nghiêm Gia Kỳ đem đến tin Triệu Tử Dương đi viện, anh chị em trí thức trong gian nhà lớn lập tức hiểu đã xảy ra chuỵện gì, có người bắt đầu lẳng lặng chuồn thẳng, sau đó mọi người nhanh chóng xẻ nghé tan đàn như lá rụng mùa thu.
Sau sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương không xuất đầu lộ diện, mãi đến năm 2005 qua đời, Tân hoa xã mới đăng một tin ngắn gọn về nhân vật chính trị quan trọng này: “Đồng chí Triệu Tử Dương bị nhiều loại bệnh về hệ thống hô hấp và hệ thống tim mạch hành hạ lâu dài, nhiều lần phải nằm viện điều trị, gần đây bệnh tình xấu đi, trải qua cấp cứu không có công hiệu, đã qua đời tại Bắc Kinh ngày 17 tháng 1, hưởng thọ 85 tuổi”.
Ở Trung Quốc ngay đến một bộ trưởng về hưu qua đời, phía nhà nước ra thông báo còn phong phú hơn nhiều bản tin này. Trong bản tin này không có giới thiệu thân thế và sự nghiệp của nhà lãnh đạo trước kia của đảng và nhà nước, cũng không đề cập đến ngày tháng làm lễ truy điệu từ biệt di thể, nhưng một quần thể sống ở ga nam Bắc kinh, những người đi kiện bị xưng là nạn dân của nền tư pháp Trung Quốc lại biết ngày tiễn biệt di thể Triệu Tử Dương. Tôi không biết những “nhân dân” yếu thế nhất trong xã hội Trung Quốc này biết tin từ nguồn nào, họ đã tự phát tổ chức lại đi tiễn biệt di thể Triệu Tử Dương. Đương nhiên cảnh sát đã không cho họ vào cổng, bởi vì họ không có giấy phép cho vào dự lễ tiễn biệt di thể, họ liền căng ngang bức khẩu hiệu lớn ở bên ngoài tưởng nhớ và truy điệu Triệu Tử Dương.
Trung Quốc có một chế độ khiếu kiện xây dựng ngoài pháp luật để cho những ai chịu oan khuất khác nhau có một hy vọng còn lại, để cho những nạn nhân bất công của nền tư pháp và tham những ảo tưởng vẫn có sự tồn tại của quan thanh liêm. Đây là ảnh hưởng của truyền thống nhân trị lâu dài trong lịch sử Trung Quốc. Sự mong mỏi của người ta đối với thanh quan vượt trên cả sự tín nhiệm đối với pháp luật. Những người khiếu kiện này chạy vạy khắp nơi một cách khuynh gia bại sản, mộng tưởng sẽ có ngày xuất hiện một ông quan thanh liêm giải oan cho họ. Trong năm 2004 nhà nước công bố có mười triệu vụ khiếu kiện. Đời sống gian nan của những người khiếu kiện này người thường khó mà tưởng tượng nổi. Họ chịu đói chịu rét ngủ nghỉ ở đầu đường xó chợ, giống như kẻ ăn mày bị cảnh sát xua đuổi khắp nơi, lại còn bị số ít những phần tử trí thức có đời sống ưu việt gọi là kẻ mắc bệnh tâm thần. Chính những nhân dân yếu thế này đã đến tiễn biệt di thể Triệu Tử Dương tháng 1 năm 2005. Họ cho rằng Triệu Tử Dương là người oan nhất Trung Quốc, còn oan hơn họ. Tuy họ chịu nhiều oan khuất, nhưng vẫn có cơ hội đi khiếu kiện, họ nói, Triệu Tử Dương oan uổng đều không có nơi nào để khiếu kiện.
Cuối tháng 5 tôi trở vể Triết Giang thu xếp việc nhà. Chiều ngày 3 tháng 6 tôi đáp tàu hỏa trở lại Bắc Kinh. Tôi nằm trên giường toa ghế cứng nghe tiếng bánh xe xình xình trên đường ray. Trong toa tầu sáng ánh đèn, tôi biết trời đã tối. Lúc ấy tôi cảm thấy phong trào sinh viên kéo dài đằng đẵng chẳng khác nào cuộc chạy đua ma ra tông, tôi không biết khi nào mới kết thúc. Nhưng lúc sáng sớm khi tôi thức dậy, đoàn tàu đã đến gần Bắc Kinh, tôi nghe thấy tiếng loa trong toa tàu nổi lên, giọng sôi nổi của phát thanh viên khiến tôi hiểu quân đội đã vào đến quảng trường Thiên An Môn.
Sau tiếng súng ngày mùng bốn tháng sáu, sinh viên Bắc Kinh, hay sinh viên đến từ tỉnh ngoài bắt đầu rút lui. Tôi nhớ rất rõ cảnh tượng biển người núi người đi ra ga Bắc Kinh lúc sáng sớm ngày hôm đó, trong khi dòng người rút khỏi Bắc Kinh trên quy mô lớn, thì tôi lại trở về Bắc Kinh một cách không đúng lúc. Không hiểu gì hết, tôi đeo túi hành lý đi ra quảng trường trước nhà ga, luôn luôn va vào đám đông ùa tới như ong vỡ tổ, tôi liền hiểu mình cũng nên lập tức rời khỏi nơi này.
Ngày mùng bảy tháng sáu tôi rời Bắc Kinh, lúc đó vì đoàn tàu Thượng Hải bị đốt cháy, tuyến giao thông đường sắt Bắc Kinh Thượng Hải tạm thời bị cắt đứt, tôi định đi tàu vòng qua Vũ Hán rồi từ Vũ Hán đi thuyền trở về quê Triết Giang. Mấy người chúng tôi ngồi trên một chiếc xe ba bánh chở hàng thuê đi dọc phố Tràng An đến nhà ga Bắc Kinh. Mấy hôm trước còn là một Bắc Kinh náo nhiệt, vậy mà mấy hôm sau đã là một cảnh tượng vắng tanh vắng ngắt, trên đường phố hầu như không có người qua lại, một số ôtô bị đốt cháy vẫn còn đang âm ỉ nhả khói đen, khi đi qua cầu vượt tại cửa Kiến Quốc, một chiếc xe tăng đỗ trên cầu, nòng pháo đen ngòm chĩa thẳng vào chúng tôi. Đến nhà ga Bắc Kinh mọi người xô đẩy nhau chen lấn trước cửa bán vé, khó khăn lắm cuối cùng tôi đã mua được vé đứng, lúc đó đã không còn chỗ đứng, khi vào ga bị quân nhân trực ban kiểm tra chặt chẽ, sau khi xác định nét mặt tôi không giống ảnh của những người chụp trên lệnh truy nã, họ mới cho tôi vào
Xưa nay tôi chưa bao giờ ngồi phải đoàn tàu chen chúc như vậy. Trong toa toàn là sinh viên chạy khỏi Bắc Kinh. Người và người chen nhau hầu như không còn khe hở. Phiền toái nhất là sau khi đoàn tàu ra khỏi Bắc Kinh một giờ, tôi cần phải ra nhà vệ sinh, tôi chen mạnh ra hướng nhà vệ sinh của toa tàu, khi chen được nửa đường, tôi biết có chen nữa cũng vô ích. Tôi nghe thấy có người quát và đấm mạnh vào cửa nhà vệ sinh, nhưng trong nhà vệ sinh cũng chật ních người, bên trong có người kêu không mở được cửa. Tôi đành phải nín nhịn suốt 3 tiếng đồng hồ. Khi đến Thạch Gia Trang tôi lập tức xuống tàu tìm nhà vệ sinh, sau đó tôi tìm đến chỗ gọi điện thoại công cộng, gọi cho ông tổng biên tập tạp chí văn học của Thạch Gia Trang xin được viện trợ. Nghe xong lời tôi trong điện thoại, ông tổng biên tập nói:
– Đang loạn lạc thế này anh đừng đi đâu hết, hãy ở lại đây viết cho chúng tôi một truyện ngắn.
Tôi sống ở Thạch Gia Trang hơn 1 tháng, viết tiểu thuyết trong tâm trạng thấp thỏm không yên. Lúc đầu trên tivi ngày nào cũng phát họ tên sinh viên bắt được theo lệnh truy nã, hơn nữa còn phát đi phát lại theo hình thức nóng bỏng. Lối phát thanh nóng bỏng tới tấp này từ đó về sau chỉ xuất hiện trên tivi khi vận động viên Trung Quốc đoạt huy chương vàng trong thời gian diễn ra Olimpic quốc tế. Trong gian phòng của khách sạn xa lạ nơi đất khách quê người, tôi nhìn nét mặt thẫn thờ của sinh viên bị bắt trên tivi, nghe giọng nói sôi nổi của phát thanh viên, tôi cảm thấy hoảng sợ. Đột nhiên có một hôm, màn hình tivi thay đổi hẳn, không có những pha sôi động bắt được sinh viên theo lệnh truy nã, cũng không có lời giải thích dương dương tự đắc. Tuy hành động lùng sục truy bắt vẫn đang tiến hành, nhưng phát thanh trên tivi đã trở về những pha quen thuộc: Tổ quốc của chúng ta chỗ nào cũng cảnh tượng phồn vinh. Giọng của phát thanh viên hôm trước còn xơi xơi cực lực lên án các tội ác của sinh viên bị bắt, hôm sau đã biến thành giọng điệu vui vẻ ca tụng tổ quốc hưng thịnh. Bắt đầu từ hôm ấy, sự kiện Thiên An Môn đã mất tăm mất tích trên đài báo của Trung Quốc, cũng giống như sự mất tích của Triệu Tử Dương, từ đó trở đi tôi cũng không nhìn không nghe thấy một lời nào có liên quan tới nó, hình như chưa từng xảy ra sự kiện này, nó bị vùi lấp hoàn toàn. Cho dù là những người đã từng trải qua cuộc mít tinh biểu tinh xuân hè 1989, hình như cũng lãng quên, có thế là sức ép đời sống sau đó đã khiến họ không còn thời gian để nghĩ lại chuyện cũ. Sau 20 năm đã qua đi, một sự thực đã xuất hiện. Đó chính là trong thế hệ tuổi trẻ Trung Quốc hiện nay, rất ít người biết đến sự kiện Thiên An Môn 1989, cho dù có biết họ cũng nói một cách hàm hồ, nghe đâu có rất đông người tham gia diễu hành.
Thoáng cái đã 20 năm trôi qua, tôi tin rằng ký ức của lịch sử không mất đi trong chốc lát. Tôi nghĩ, mỗi người đã từng tham gia sự kiện Thiên An Môn 1989, mặc dù hôm nay họ đứng trên lập trường như thế nào, thì một ngày nào đó đột nhiên nhớ lại chuỵên xưa, họ cũng có cảm thụ sống để dạ chết mang theo.
Cảm thụ khắc cốt ghi xương của tôi chính là nó đã khiến tôi hiểu được từ vựng “nhân dân”. Sự gặp gỡ chân chính của một người và một từ vựng có khi cần phải có một cơ hội. Điều tôi muốn nói là mỗi con người gặp rất nhiều từ vựng trong cuộc đời mình, có những từ chỉ nhìn một cái đã hiểu ngay, lại có những từ tuy chung sống hết đời nhưng vẫn không hiểu nổi.
“Nhân dân”chính là vấn đề khó khăn như thế. Nó là từ vựng tôi nhận biết sớm nhất và sau đó lại nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên đường đời của mình, nó luôn luôn xuất hiện trước mắt tôi, nhưng chưa bao giờ nó thật sự đi vào trái tim tôi. Mãi đến năm tôi 29 tuổi, một từng trải đến từ một đêm khuya cuối cùng đã khiến tôi thực sự hiểu ra từ vựng vĩ đại này. Khi tôi và từ vựng này có sự gặp nhau thật sự, chứ không phải hư cấu. Điều tôi muốn nói không phải sự gặp nhau trên ý nghĩa ngôn ngữ học, xã hội học hoặc nhân loại học, mà là sự gặp gỡ thật sự trong sự từng trải của cuộc đời, một sự gặp gỡ sinh động sau khi đã loại bỏ mọi lý luận và định nghĩa, sau đó tôi mới có thể nói với mình: từ vựng “nhân dân” không phảỉ trống rỗng, bởi vì tôi đã từng nhìn thấy nó có xương có thịt hẳn hoi, đã nhìn thấy trái tim nó đang đập mạnh.
Sự lý giải của tôi đối với hai tiếng “nhân dân” không phải đến từ cuộc diễu hành lớn của một triệu người trên quảng trường Thiên An Môn, mà là xảy ra từ sự từng trải nhỏ trong đêm khuya hạ tuần tháng 5. Bắc Kinh lúc đó đã giới nghiêm, sinh viên và thị dân đã đứng lên bảo vệ các tuyến giao thông trọng yếu của Bắc Kinh cùng tất cả cửa ra đường sắt ngầm và cầu vượt nhằm ngăn cản quân đội được vũ trang hiện đại. Lúc ấy tôi đang ở học viện văn học Lỗ Tấn cách phía đông Bắc Kinh 10 dặm, gần như trưa nào tôi cũng đến quảng trường Thiên An Môn ở đó đến khuya hoặc sáng sớm mới đạp xe về trường.
Bắc Kinh hạ tuần tháng 5 năm 1989, buổi trưa rất nóng, nhưng đêm khuya lại lạnh. Tôi còn nhớ một hôm,vì nóng quá, tôi chỉ mặc chiếc áo cộc tay, đến đêm tôi cảm thấy lành lạnh, đạp xe từ quảng trường về trường, gió lạnh thổi thốc vào mặt khiến cơ thể tôi run rẩy. Tôi đạp xe trên phố tối om, ánh trăng chỉ lối cho tôi. Tôi càng đạp càng thấy lạnh. Dần dà khi gần về đến Hô Gia Lâu, tôi đột nhiên cảm thấy làn khí nóng ập tới, càng đạp làn khí nóng càng mạnh lên. Tiếp theo tôi nghe thấy từ xa xa có tiếng hát vọng tới, tiếp theo nữa, tôi thấy xa xa có ánh đèn nhấp nháy, rồi một cảnh tượng kinh khủng đã xuất hiện, khi làn hơi nóng ập đến tôi đã nhìn thấy cầu vượt Hô Gia Lâu ánh đèn sáng choang, trên cầu dưới cầu có hơn một vạn người đang canh giữ, dưới bầu trời đêm, họ say sưa hát quốc tế ca:
“…Đem xương máu của chúng ta xây nên bức trường thành mới! Dân tộc Trung Hoa đã đến lúc nguy hiểm nhất, mỗi người buộc phải hét lên tiếng thét cuối cùng! Vùng lên! Vùng lên! Vùng lên! Chúng ta muôn người như một…”
Tuy họ không có tấc sắt trong tay, nhưng tự tin kiên định, họ nhận thấy xương thịt của mình có thể cản trở quân đội và xe tăng. Họ tụ tập với nhau, không khí sôi bỏng, hình như mỗi con người là một bó đuốc đang cháy rừng rực.
Đây là lúc quan trọng trong đời tôi. Trước đó tôi luôn luôn cho rằng ánh sáng truyền đi nhanh hơn tiếng nói của con người, tiếng nói của con người lại truyền đi nhanh hơn năng lượng trên thân người. Nhưng cái đêm khuya năm tôi 29 tuổi, tôi phát hiện mình đã sai, khi nhân dân đoàn kết lại, tiếng nói của họ truyền nhanh hơn ánh sáng, còn nhiệt lượng trên thân họ lại truyền xa hơn tiếng nói của họ. Cuối cùng tôi đã thật sự lý giải được từ vựng “Nhân dân”.
Ngày 15 tháng 4 năm 2009
Vũ Công Hoan dịch
(Theo cuốn Trung Quốc trong mười hai từ vựng)
Theo vanvn.net.