Nhà văn Chu Văn Sơn (ảnh), tiến sĩ phê bình văn học (sinh ngày 19.8.1962, quê Đông Hương, TP.Thanh Hóa, hội viên Hội Nhà văn VN), sau thời gian lâm trọng bệnh đã qua đời lúc 13 giờ 40 ngày 18.4 tại Bệnh viện E (Hà Nội).

Sau khi tốt nghiệp Khoa Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, từ năm 1984 đến nay, nhà văn Chu Văn Sơn ở lại làm cán bộ giảng dạy khoa văn của trường và trở thành tiến sĩ phê bình văn học. Nhiều tác phẩm của tiến sĩ Chu Văn Sơn đã được xuất bản và dư luận trong giới văn chương đánh giá cao như: Hàn Mặc Tử, văn chương và dư luận (2002); Ba đỉnh cao thơ mới (tiểu luận chân dung 2003); Tự tình cùng cái đẹp(tùy bút văn học 2019)… Tiến sĩ Chu Văn Sơn đã được trao giải thưởng văn học của một số tạp chí văn nghệ uy tín.

Lễ viếng và truy điệu nhà văn từ 8 – 10 giờ 30 ngày 21.4 tại Nhà tang lễ Q.Cầu Giấy, Hà Nội. Lễ an táng sau đó diễn ra tại nghĩa trang Vĩnh Hằng, Ba Vì, Hà Nội.

(Việt Chiến – báo Thanh Niên)

Tonvinhvanhoadoc.vn xin đăng tùy bút của Chu Văn Sơn, như một nén nhang tiễn ông lên miền cực lạc

Vĩnh biệt Nhà Phê bình văn học, thầy giáo Chu Văn Sơn

 

 

 

Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn

PHẬN HOA BÊN LỀ

Tùy bút

 

Đó là loài hoa nở vào cuối năm

Đó là loài hoa mọc nơi cuối đất

Đó là loài hoa đợi ở cuối đời

 

1.

Khi hầu hết các loài hoa trong năm đã khoe sắc phô hương cả rồi, nó mới nở. Nếu xem mỗi niên hoa như một dãy dằng dặc, xếp hàng đợi đến lượt nở, thì nó đứng ở cuối hàng. Kiên nhẫn, nhún nhường, hay biết phận biết thân ? Thật khó nói. Chỉ biết khi năm hầu tàn, mùa hầu cạn, chẳng còn loài hoa nào tranh chòi nữa, nó mới dâng hoa. Nó nở trong gió bấc mưa phùn, dưới màu mây xám bạc của ngày đông tận. Nhưng không ai đợi nó dịp tất niên. Càng không ai chờ nó cho tân niên.

Nó là loài hoa không được chào đón.

Nó là loài hoa không biết đến hội hè. Nó không có chỗ trong các bình hoa bày trang trọng tại những chốn cao sang. Cũng không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa bày trên phố xá. Không ai đầu tư, không ai khuyến mại. Nó không bao giờ có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết cho bất cứ kì cuộc nào. Và nó cũng chẳng dám mơ được nằm trên bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạc. Bàn tay chăm thôi còn chả dám mong, nói gì đến bàn tay tình. Có phải bàn tay duy nhất nó được biết đến trong đời là bàn tay cầm nắm nó khi triệt bỏ nó ?

Không có chỗ trong vườn nhà. Không bén mảng tới những hoa viên. Nó không có căn cước tại đấy. Có ai cấp thẻ xanh để cho nó quyền cư trú tại đấy đâu. Thảng hoặc có bóng nó vươn hoa ở góc vườn nào, thì nó chỉ được xem như dân lậu, dân liều. Nó thường bị trục xuất trước tiên khỏi những hoa viên, hoa uyển. Họa chăng, chỉ khi vườn đã bỏ hoang, nó mới có hi vọng. Chủ nhân chả còn đoái hoài, các loài khác chả thèm giành giật đất nữa, thì nó mới đến mọc. Nó rón rén mọc trên đất bỏ, đất thí. Dạng nhảy dù. Sống chui. Nó là loài hoa vườn hoang.
Ta thường thấy nó ở bên đường. Đúng hơn, nó vẫn ở bên đường mà ta thường không thấy. Nó không phải là địa chỉ cho những ánh mắt thưởng ngoạn kiếm tìm. Từng đoàn xe cứ vút qua. Những ánh mắt vãng cảnh cứ rướn xa. Nhưng điểm nhìn của dòng người thường không đặt vào nó. Nó bị lãng quên ngay trong tầm mắt người đời. Dù ngọn hoa có đâm ngang tầm nhìn, xiên vào nhãn giới, thì cũng thế thôi. Cả khi du khách dừng lại để chụp ảnh, ống kính zoom qua đầu nó là để chớp lấy những cảnh hớp hồn phía xa. Về xem lại, thấy nó lỡ có mặt trong khuôn hình ngoài ý muốn, thì bực mình. Khi in ra, người ta cẩn thận dùng photoshop xóa nó đi, cho hết vướng. Nó là loài hoa bên đường.

Nhưng, vương quốc thực sự của nó là miền hoang, là núi đồi gò bãi. Nó là cư dân của những miền đời quên lãng. Lãng quên, đó mới là không gian cho nó, của nó. Một kiếp hoa chung thân chốn lãng quên. Có phải nỗi hoang vu vón lại thành loài hoa ấy. Có phải nó là đứa con tự túc của nỗi hoang vu. Sinh ra nó để tự khuây khỏa, khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần nào không, mà giữa chốn hoang vắng, có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng thêm hoang dại.

Nó là hoa lau.

 

2.

Nó là loài cỏ. Mà nào có như cỏ mật được giấu vào túi áo, cỏ gà được chọn chơi, cỏ gừng, cỏ nhung được chăm chút trong công viên. Nó là loài cỏ bị bỏ rơi. Người ta vẫn trông mà đâu có thấy… Mặc, lau vẫn sống đời lau. Lầm lụi thanh bần. Lau vẫn mọc, theo cách riêng. Không riêng từng thân, mà thành từng bụi. Khi nở thì nhất loạt, cứ tua tủa vươn lên. Mỗi ngọn như một tia phun mạnh vào không trung. Tất cả như một chùm pháo hoa bừng sáng. Lau tự bắn pháo hoa, tự mình hội hè lễ lạc chăng ?

Thực ra, lau là chị em của mía. Cùng một xuất thân mà hai thân phận. Mía thành cây vườn, lau thành cỏ hoang. Chị em xa cách từ đó. Nhờ có đường, mía thành loài có ích, được chăm chút, vồ vập. Chỉ có hoa thôi, mà lại là thứ hoa bạc phận, lau cứ như kẻ vô ích, bị bạc đãi, thờ ơ, dù không ít đời lau được trưng thu làm đệm. Nếu vườn mía xuất hiện cỏ lau, chủ vườn sẽ diệt lau lập tức. Người ta gom lau thành đống, đợi khô, rồi đốt, ngay bên những luống mía. Nào ai biết mía của phần xác, lau của phần hồn, kể cả khi đứng nhai mía bên lau.

Lau cũng nở theo cách riêng. Không bày từng cánh, không đơm từng phiến, mà vươn từng sợi. Từng sợi nương nhau mà thành lọn, tụ lại mà thành bông. Như bông tuyết khô. Như núm bông lẻ. Như lọn mây thất lạc thinh không, rơi rụng khỏi bầu trời, đậu hờ trên ngọn mảnh. Nhưng bao giờ lau cũng vươn cao nhất, cố nghển cổ lên mà nở hoa. Có lẽ trong các loài, đây là loài hoa cổ gầy nhẳng mà vươn dài nhất. Dài đến ngất nghểu chon von. Khi toàn thân đã hết hẳn tầm vươn, nó mới đành trổ hoa. Như để được diện kiến với trời, như để được giao lưu với mây, díu dan với gió. Lau phải lòng mây, gió, phải lòng khoảng không chăng ? Nhiều khi ngắm nó, tôi cứ miên man với những giả tưởng cổ tích. Phải chăng, thuở xưa lau vốn là một cụm mây trắng út ít ? Một lần theo chúng theo bạn xuống nhởn nhơ trần giới, rồi mải quyến luyến cây cỏ, đến lúc ngẩng lên thì ngày đã khép, nắng đã tắt, chẳng còn kịp theo bầy mà về trời. Thế là cụm mây út rớt lại miền hoang. Nó lìa khỏi gió. Đậu vào đầu cỏ. Mà thành hoa lau. Từ đấy, mây út sống kiếp cỏ hoa để một đời luôn nhớ tiếc khoảng không, ngóng vọng bầu trời. Suốt đời thèm về lại kiếp mây trắng. Mà không thể. Phải vì thế mà những bông lau buồn nhất là lúc hoàng hôn ? Khi mặt trời khuất dần sau núi, thu hết nắng đem đi, trên đầu mỗi bông lau chỉ còn le lói vài tia nán lại, dáng lau mới bồn chồn làm sao. Những ánh bạc cứ tím rực lên rồi thẫm lại. Đầu bông cố rướn lên rồi lả xuống. Xốn xang mà u uất. Lau bơ phờ rủ bờm trong hoàng hôn. Rồi những ánh chiếu li ti cũng tắt dần trên từng sợi bạc của hoa lau, bóng tối ngấm sâu vào cây cỏ. Đó là lúc ngày thực sự trút hơi thở tàn cuối cùng để chết lịm vào lòng đêm. Cả chùm lau muôn sợi bạc mềm óng ánh thế, tím rực thế, bỗng tím bầm, tím ngắt, như vẻ mặt thất thần của kẻ chợt nhận ra mình khánh kiệt… Đón được gió mà đành buông gió. Muốn cất mình bay, mà suốt đời chỉ đậu. Cuối cùng, lau chọn một cách bay riêng. Không toàn thể, thì từng phần. Chẳng tưng bừng, thì lặng lẽ. Không có một chuyến chung, thì làm vô vàn chuyến riêng. Lau cứ âm thầm xé mình ra. Đời hoa là đời của ước mơ lớn xé lẻ thành những sợi lau con. Mỗi sợi bạc một ước mơ bay. Cứ từng sợi, từng sợi, gửi vào gió. Mà bay. Nhung tuyết một đời tan thành từng chuyến bay như thế. Bợt bạc rồi xơ xướp. Hết nhung hết tuyết, cũng hết đời hoa.

 

 

3.

Đã có khi tôi nghĩ lau như phận hoa lưu đày. Ấy là lần đi dọc đèo Bông Lau trên đường số Bốn vắt từ Thất Khê sang Đông Khê mạn Cao Bằng. Nhưng rõ nhất là lần trên đất Lào từ Luang Prabang về Viên Chăn. Toàn đường núi là đường núi. Hành khách trên xe ai nấy kẻ gà người gật. Cũng gà gà gật gật nhìn ra, tôi cứ thấy núi đồi hai bên chập chờn trắng, trập trùng trắng. Nhìn quấy nhìn quá, nghĩ là mây bám tuyết phủ đó thôi. Nhưng Lào thì làm gì có tuyết nhỉ ? Ừ, làm gì có. Thế là bừng tỉnh. Thì ra lau. Chao, có đến hàng mấy chục cây số núi đồi bạt ngàn lau trắng. Mênh mang đồi này núi khác những bờm lau trắng trùng phùng như bầy bầy đàn đàn những ngựa trắng là ngựa trắng. Chúng tập kết ở chốn núi đồi này là do bị xua đuổi mà cụm lại ? Hay đang tìm đến nhau, hội quân tại đây để dàn hàng nghênh chiến trong một trận sinh tử nào ? Tôi đã ngất ngây đến hàng giờ với liên tưởng đó. Nhưng, khi kịp nhìn lau trong toàn cảnh núi non rừng rú trải đến vô tận ấy, tôi mới nhận thấy dáng lau kia đâu có kiêu hùng sát khí. Một nỗi buồn trắng xóa phủ khắp núi đồi hoang. Lau trầm cảm thế kia mà. Bấy giờ, tôi mới thấy lau như một bộ lạc bị hất ra rìa lãnh thổ. Lau như kẻ thất thổ, lưu vong, phải khăn gói theo nhau tìm đến những chốn heo hút này để náu mình, để làm nơi trú xứ. Lau như bầy người di tản. Rừng xanh núi đỏ kia là chốn tị nạn của lau. Lau của kiếp người phát vãng. Rừng sâu rú thẳm kia là chốn chôn đời của những kiếp người vô tăm tích. Lau mang phận lưu đày.

Nhưng lau lại là công dân toàn cầu. Ở đâu mà chẳng gặp lau. Giữa cố đô Luang Prabang của Lào, tôi cũng gặp lau nép mình bên những nếp chùa cổ, cạnh những pho tượng Phật được khắc tạc sơ giản đến sơ sài. Ở Bhutan, vương quốc nhỏ xíu treo mình trên rặng Hymalaya, tôi cũng luôn gặp những dáng lau. Lau bình thản đứng bên lề đường nhìn từng toán người hành hương lên Tigernet, ngôi chùa thiêng mà như gá trên vách núi, dựng cheo leo bên mép vực sâu. Ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ, cái thủ đô độc đáo nửa phần thuộc Á, nửa phần thuộc Âu, tôi cũng gặp lau. Những bông lau cứ điềm nhiên mà trắng hết phận mình, chẳng cần biết mình là lau Âu hay lau Á. Lạ, vào Đà Lạt, gặp những đồi lau nương mình trong các thung lũng khuất sau hồ Tuyền Lâm, sang Angkor, gặp lau liêu xiêu trắng dưới đôi chân sa thạch của những vũ nữ Apsara, phất phơ bên nụ cười của Bayon bốn mặt, lên Vạn Lý Trường Thành, gặp lau rạp mình dưới chân cái tấm bia khắc câu “Bất đáo trường thành phi hảo hán” của Mao, qua Malaysia gặp lau nấp sau bức tường đổ của pháo đài Malacka, … tôi không thấy ngạc nhiên lắm. Thì những chốn xưa xưa khuất nẻo thế ấy vốn là nơi trú ngụ của lau mà. Còn cái lần gặp lau ở Mỹ, thì tôi thực sự ngạc nhiên. Đó là hôm đến New York, ra đảo tượng Nữ thần Tự do. Ở cái nơi hiện đại tối tân, nơi được chăm sóc cẩn thận bậc nhất thế giới này, mà phía sau tòa tháp tượng sừng sững ngất trời lại có hoa lau. Lau thầm trắng những bông ẩn nhẫn. Tất nhiên, du khách đều đổ xô vào thần tượng. Đến đây đâu phải để ngắm lau. Nhìn những bông lau bạc lạc lõng, lơ ngơ ấy, tôi bỗng ngộ một điều : phía sau mỗi thần tượng đều có những đời lau….

Và lần vừa rồi, về Lao Cai, đúng cái nơi con sông Hồng nhập mình vào đất Việt, tôi lại thêm một lần ngỡ ngàng về lau. Cả một bãi nổi giữa sông, dài đến hàng dặm, ngập tràn lau trắng. Từng bông trắng xóa, cả bãi bạc xóa, toàn đảo cứ lấp lóa lên như đang phơi tơ bạc ròng dưới cái nắng hiếm hoi của ngày đông. Dòng nước hồng thì vờn quanh đảo trắng. Còn lau trắng cứ bồng bênh soi bóng xuống mặt sông hồng. Chẳng phải kia là Thiên Thai trong cõi thực sao ? Chẳng phải kia là chốn dành cho những mối tình ngư phủ sao ? Tôi bỗng thèm thấy bóng một chiếc thuyền không, chủ nhân của nó bỏ lại bên bến lau. Và ước sao khi ấy, giữa ngàn lau xôn xao kia, họ đang thầm thĩ với nhau những lời chỉ có họ và lau mới biết. Khung cảnh trữ tình đó cứ xui tôi tin rằng : hẳn là thuở xưa, Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng đã gặp nhau rồi bén duyên nhau trong đám lau như thế ! Thì trong lau vẫn ẩn cái nhịp sống đời đời trên mặt đất này thôi.

 

 

4.

Là thứ hoa đạm bạc vào bậc nhất, lau mang trong mình một chút thiền ý. Thiền ý về cái lẽ sắc không của tồn sinh. Không màu mè, không hình nét. Có sắc mà vô sắc. Là hoa mà như không phải hoa. Có mà như không có. Hoa lau nhắc ta nhiều nhất về sự chập chờn mong manh của phận người. Cũng là nhắc về cái bạc lý bạc nghĩa của sự tồn sinh. Có lẽ vì thế mà thiền nhân bao đời thường thấy nhân gian trong một thoáng hoa lau. Nhiều khi cứ ngắm mãi cái bông trắng hiu hắt bất định ấy, chính tôi cũng từng lâm vào nghi hoặc : nó là hoa hay không phải hoa ? nó là hoa lau hay chỉ là cái bóng nhòe mờ, phôi pha của một loài hoa nào khác ?
Nhưng nó cũng nhắc ta về ý nghĩa bền bỉ của sinh tồn. Mỗi tồn sinh trên cõi này chỉ là một bóng hiu hắt, một thoáng chập chờn, thế thôi. Có nghĩa gì lắm đâu. Nhưng mà vẫn cố. Vẫn thản nhiên. Vẫn cứ mỉm bông lau. Nên lau đâu có giấu mình. Trái lại, luôn vươn mình. Mọi loài hoa đều sợ gió. Gió làm phai sắc, nhạt hương, rã cánh. Gió thành kẻ thù của hoa. Nhưng riêng lau thì không sợ gió. Lau chung tình cùng gió, nô giỡn, cợt cười cùng gió. Lau chờ gió để được tung bờm. Lau nương gió để cùng khiêu vũ. Đứng rủ bờm trong sương sớm, nhưng một khi nắng lên, gió dậy là nó lại tung những chỏm bờm ánh bạc, rúng động, náo nức như muốn tung mình tề phi cùng gió. Chỉ mình nó nô giỡn với lãng quên, làm cho lãng quên đỡ phần cô tịch… Song, có lẽ phải trong canh khuya mới thấy hoa lau nhẫn nại thế nào. Nó gục đầu vào sương khuya. Nhưng sương khuya đâu phải là điểm tựa. Sương khuya lại từng giọt đậu lên đầu nó, dụi mình vào nó. Nó tìm nơi tựa, rốt cục lại phải làm chỗ tựa cho kẻ khác. Nó chỉ còn biết tựa vào chính mình. Đành tìm sự vững vàng trong thế chon von. Lấy cái chênh chao để làm sự cân bằng. Cứ thế, nó yên phận làm lau để an ủi mặt đất này.

 

5.

Có tình cờ không, khi theo nhau suốt bao năm, mà phải đến lần này, khi về đất Hoa Lư tôi mới có thể viết về lau. Có phải đó là ý muốn của lau ? Có phải lau muốn tôi phải viết những trang lau này trên đất cờ lau ? Thực ra, nơi chúng tôi ở và làm công việc soạn đề thi suốt hai tuần, nhìn ra xung quanh đến hàng cây số đồng ruộng, có bóng lau nào đâu. Nhưng, Hoa Lư là hoa lau. Đồn rằng xa xưa chốn này là ngàn lau rậm rạp. Rậm rạp đến mức người ta ngỡ lau đã độc chiếm toàn bộ vùng này làm căn cứ của mình. Lau đồn trú trên mọi triền đồi, vách núi của cái xứ sở lắm núi nhiều non vẫn được xem là vịnh Hạ Long trên cạn này. Cứ vào cữ đông này đây là lau nhất loạt phất cờ trên toàn xứ. Lau rợp đất, lau rợp trời khiến người nay cứ mơ hồ thấy bóng đội quân cờ lau của Đinh Bộ Lĩnh hàng ngàn năm trước vẫn thấp thoáng đâu đó trong lau. Nhớ lần tha thẩn vào Tràng An Bái Đính. Tôi muốn có cuộc hành hương đến ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á, nằm sâu trong non nước Hoa Lư, nơi mà thiên nhiên hoang sơ dường như vẫn còn bảo lưu trong nó màn sương khói thời vua Đinh vua Lê, cùng màn sương Dương Vân Nga, người đàn bà kì lạ, làm hoàng hậu của những hai vị hoàng đế, với hai triều đại khác nhau. Lại cũng muốn kiếm tìm cho mình một ngọn lau mang hồn vía chốn này. Nhưng cuối cùng, cái ấn tượng còn lại không phải về chùa, mà về lau. Chả biết do mải tìm lau hay lau dẫn lối mà tôi đã lạc đến một cồn lau ẩn sau một bến nước hoang hút, âm u. Rêu dày ngập gót, dây dại nghênh ngang chen đá lấn cây. Chốn rậm rạp và rờn rợn ấy mách bảo tôi rằng có lẽ bao nhiêu năm rồi chẳng có ai mò tới đây. Và, bất ngờ tôi gặp một vạt lau già có đến cả ngàn bông trắng muốt. Bông nào cũng như một chòm râu bạc phất phơ bên bến vắng. Cứ như vẫn phất phơ ở đấy tự bao đời. Chà, những bông lau ẩn dật ! Những bông lau tự tại, thích thảng ! Tôi nhớ đã kêu lên thế. Và đã đinh ninh đó là lau xưa, những cây lau vẫn ẩn mình ở đây từ thời Đinh Bộ Lĩnh. Trong giây lát, tôi ngỡ mình đang ở ngàn xưa. Và khi bần thần bước ra khỏi vùng lau ấy, tôi thoáng thấy mình như vừa trở về từ xa xưa vậy. Tôi đã giữ riêng cho mình cái ảo giác hiếm hoi đó suốt bấy nay và thầm biết ơn những bông lau đã tặng cho mình khoảnh khắc thi vị ấy. Và, biết ơn cả cái ông vua Đinh Bộ Lĩnh nữa. Có lẽ ông cũng là vị vua độc đáo nhất trong những đấng quân vương. Bởi ông là người đầu tiên mà cũng có thể là người duy nhất đã nhìn thấy trong lau một lá cờ. Người nhìn thấy trong lau tiềm ẩn ngọn cờ, người ấy là hoàng đế. Càng xứng là hoàng đế khi nghiệp vương của người ấy cũng là sự nghiệp biến cờ lau thành một ngọn quốc kì. Vậy là cái lá cờ Đại Cồ Việt sau này được trương lên khi Đinh Tiên Hoàng Đế đăng quang đã được phất lên lần đầu trong cờ lau Hoa Lư rồi. Nó là những bông lau trắng xốp này đây. Nhưng, sau khi lên làm vua, liệu Đinh Bộ Lĩnh có còn quý lau, nhớ lau nữa không ? Khi hoàng đế là thằng bé con, thì mới nhìn thấy cờ trong lau. Chỉ có con mắt trẻ thơ mới có cái nhìn ấy. Còn khi đã ngự ngai vàng, có lẽ vua chỉ còn thấy cờ trong những tấm vóc đại hồng. Lá cờ lau xưa thì gửi trả lại cái thời chỉ xem là ấu trĩ thôi.

 

 

6.

Vậy là chỉ có con trẻ và giống nghệ sĩ là đoái hoài đến hoa lau. Đám trẻ con thì thấy cờ trong lau. Đám nghệ sĩ thì thấy mình trong lau. Cầm trên tay bông lau lúc ấy, một kí ức lau cũng lộn xộn kéo về. Tôi nhớ cái bến lau của Phan Huy Vịnh đã chuyển một không gian rặt thảo mộc Tàu trong câu Tầm Dương giang đầu dạ tống khách / Phong diệp địch hoa thu sắt sắt thành một không gian rất Việt, trong đó phận tài hoa lận đận bên trời đã lẫn vào lau lách đìu hiu : Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách / Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu. Tôi nhớ đến thứ lau nặng duyên nghiệp Nguyễn Du gửi vào nỗi tương tư của chàng Kim, vào nỗi hoang vắng của nàng Kiều trong cái đêm nàng đành thả phận mình theo gã Mã Giám Sinh Vi lô heo hắt hơi may / Một trời thu để riêng ai một mình, cũng như bố trí Tiền Đường thả một bè lau cho Vãi Giác Duyên cứu Kiều. Sau này, Thích Nhất Hạnh đã tựa vào chiếc bè ấy mà đọc Kiều bằng cái nhìn thiền quán để chỉ ra ở đó bao nhiêu là Phật lí cùng những công án Thiền. Tôi nhớ góc nhìn lau vượt đầu núi Phú Sĩ của Hokusai. Nhớ ngàn lau hào hoa vẽ tranh trong nhạc của Văn Cao Ngàn lau thấp thoáng bóng kinh kì sầu bao la. Nhớ đến hồn lau đa tình của Quang Dũng Người đi châu Mộc chiều sương ấy / Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Và nhớ phận lau của ý niệm phôi pha đầy se xót về cõi tạm của Trịnh Công Sơn Chập chờn lau trắng trong tay … Nhưng, nhớ nhiều hơn là lần đến viếng Hoàng Hữu tại nghĩa trang Việt Trì. Chiều muộn hôm ấy, sau khi thắp hương, tôi có hóa ngay bên mộ cho anh bài mình viết về Hai nửa vầng trăng. Lúc hóa xong, ngước lên, bất ngờ tôi thấy bảng lảng sau làn khói một bóng hoa lau trắng. Thứ hoa bạc mệnh từng nhập vào thơ anh, ám vào đời anh Người xa phơ phất hồn lau gió / Thổi trắng chân trời như khói pha đã theo anh về đây chăng ? Tình cờ hay là vận vào ? Bấy giờ, đọc trên mộ chí, thấy bạn văn đã chọn khắc cho thi sĩ một câu hoành tráng Bến bờ anh tim dội sóng khôn cùng. Tôi nghĩ, ừ, đành rằng đó cũng là một câu hay. Nhưng khoa trương chưa hẳn đã là Hoàng Hữu. Câu thơ xuất thần nhất, Hoàng Hữu nhất phải là cái câu đem hồn mình nương náu vào lau gió kia…

 

7.

Thì ra, người có thể hờ hững với lau, lau đâu hờ hững với người. Chẳng thế mà một trong những nơi quần cư của lau là nghĩa địa. Hầu như nghĩa địa nào cũng ẩn hiện những lau. Có phải ở đó, nó mới sống cái sứ mệnh bí ẩn nhất của loài hoa được gọi là lau : sứ mạng lau xóa hệ lụy nhân gian và an ủi những vong hồn. Nó hảo tâm hiến mình làm giá thể để cho mỗi linh hồn đậu lại. Nó là đội quân thiện nguyện, tìm đến an trú nơi nghĩa địa để an ủi những vong linh. Mỗi bông lau cứ như sự hiển linh của một cô hồn. Trước khi Phật bà vẩy nước cành dương để hóa giải cho mỗi kiếp người, thì lau đã an ủi cho họ bên từng nấm mộ.

Khi bông hoa cuối cùng của những vòng hoa phủ quanh mộ tàn úa, rã rời, thì lau mọc. Lau lặng lẽ đến và cúi đầu mặc niệm. Bấy giờ nó mới thực sự là lau. Nó lau đi những vết hoen cuối cùng trong dương gian. Nó lau cho hư vô thêm trong suốt. Nó túc trực bên ngưỡng cửa hư không để đón đợi, để an ủi những vong hồn, lau khô những khổ lụy cuối cùng, rồi tiễn đưa từng vong linh vào sâu cõi hư bằng cái vẫy tay phơ phất. Có hoa lau người ta mới biết, thì ra, hư không cũng bám bụi, cũng cần lau xóa thường xuyên. Hoa lau cứ lầm lụi lau đi những lớp bụi vô hình, vô minh. Lau cho cả gió, cả mây, cả trời…

Và, chỉ khi nào bước vào đến chốn ấy, may chăng, mỗi chúng ta mới thấy giật mình: con đường của phận người là đường tới hoa lau.