Giữa năm 2015, dịch giả Lê Bá Thự trình làng tiểu thuyết “Những khoái cảm khác” của nhà văn Jerzy Pilch, cuối năm ông lại cho ra mắt tập truyện ngắn “Vợ chưa cưới chủ nhật” của nữ nhà văn Hanna Samson. Thầm lặng và hiệu quả, Lê Bá Thự cho thấy ông như “người tình” say đắm văn học Ba Lan…


Có một thời đất nước của thiên tài âm nhạc Chopin và bốn nhà văn nhận giải Nobel thường chỉ được nhắc đến bởi bài thơ “Em ơi Ba Lan” của nhà thơ Tố Hữu, rồi những vần thơ thông minh và sắc sảo của nữ sĩ Wislawa Szymborska, người được Giải thưởng Nobel Văn chương 1996. Những năm gần đây, nhờ đội ngũ dịch giả từng có nhiều trải nghiệm ở xứ sở tuyết trắng này mà văn học Ba Lan du nhập mạnh mẽ vào Việt Nam và đóng vai trò quan trọng làm cầu nối văn hoá giữa hai quốc gia. Trong đó, Lê Bá Thự là dịch giả hàng đầu với 25 tác phẩm đã chuyển ngữ và xuất bản ở Việt Nam. Nhờ đó, ông được Tổng thống Ba Lan trao tặng Huân chương Công trạng năm 2012. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với dịch giả Lê Bá Thự.

– Thưa dịch giả Lê Bá Thự, ấn tượng nào thường hiện lên trong ông mỗi khi nhắc đến đất nước Ba Lan mà ông từng gắn bó?


+ Cách đây trên 50 năm, lần đầu tiên đặt chân lên đất Ba Lan tôi vô cùng ngạc nhiên và ngỡ ngàng khi nhìn thấy toà nhà cao chọc trời, sừng sững như một ngọn núi, tọa lạc ở trung tâm thủ đô Warszawa. Toà nhà khiến tôi ngỡ ngàng, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với tôi, một chàng trai tuổi đôi mươi vừa đến từ Việt Nam nghèo khó, nơi nhà bốn năm tầng đã là cao lắm rồi. Đó chính là ấn tượng đầu tiên khi đến Ba Lan mà tôi vẫn nhớ đến tận bây giờ.
Toà nhà này chính là Cung Văn hoá và Khoa học của Ba Lan, xây dựng năm 1955, cao 237 mét, với 3.288 phòng, trong đó có sảnh đại hội 3000 chỗ ngồi, Viện Bảo tàng Kỹ thuật, Viện Bảo tàng Tiến hoá thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan, Cung Thanh niên, nhiều nhà hát, rạp chiếu phim và các cơ quan văn hóa khoa học khác của Ba Lan. Cho đến bây giờ đây vẫn là toà nhà cao nhất, đồ sộ nhất Ba Lan, đứng ở cách xa thủ đô Warszawa cả chục cây số ta đã nhìn thấy Cung Văn hoá và Khoa học đồ sộ này.

–  Là dịch giả hàng đầu của văn học Ba Lan, ông nhận thấy văn học có vai trò như thế nào trong mối bang giao hữu nghị giữa Việt Nam với Ba Lan?


+ Rất nhiều người gọi tôi và các bạn dịch giả văn học Ba Lan khác là “Người nối nhịp cầu văn hoá Việt Nam – Ba Lan”. Cách gọi này cho thấy vai trò của văn học quan trọng như thế nào trong mối bang giao hữu nghị giữa Việt Nam và Ba Lan. Cho đến nay, chừng một trăm tác phẩm văn học lớn của Ba Lan đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt. Rất nhiều tác phẩm văn học cổ điển và đương đại Ba Lan đã đến với bạn đọc Việt Nam.

Thưởng thức các tác phẩm văn học Ba Lan, người đọc Việt Nam đã có thể khẳng định được rằng, Ba Lan quả là một cường quốc văn học với bốn nhà văn và nhà thơ được giải Nobel. Đọc các tác phẩm văn học Ba Lan, hẳn người Việt Nam đã hiểu được người Ba Lan xưa và nay làm ăn, sinh sống, chiến đấu, yêu, ghét, trăn trở ra sao, văn hóa và phong tục tập quán của họ như thế nào. Đọc các tác phẩm văn học của nhau, người Việt Nam và người Ba Lan, dẫu cách xa nhau trên mười ngàn cây số, càng ngày càng hiểu nhau hơn, yêu nhau hơn và hợp tác với nhau tốt đẹp hơn.

Việc Tổng thống Ba Lan quyết định tặng Huân chương Công trạng Cộng hòa Ba Lan cho tôi và một vài dịch giả văn học Ba Lan khác của Việt Nam là một bằng chứng cho thấy văn học có vai trò quan trọng như thế nào trong quan hệ giữa hai nước và được lãnh đạo cấp cao quan tâm như thế nào.

– Theo ông, cái khó nhất của người dịch văn học nói chung và dịch văn học Ba Lan nói riêng là gì?


+ Tôi vẫn thường nói, tác giả viết những gì mình biết, còn dịch giả phải dịch tất cả những gì tác giả viết. Đó chính là cái khó bao trùm nhất đối với người dịch, vì người dịch luôn luôn ở vị thế thụ động. Dịch giả chẳng thể đòi tác giả phải viết những gì mình biết để cho dễ dịch, trái lại dịch giả phải dịch tuốt tuột những gì tác giả viết, bất kỳ đề tài nào, bất kỳ lĩnh vực nào, bất kỳ đối tượng nào… Cho nên, ngoài những yêu cầu như phải giỏi ngoại ngữ, giỏi tiếng Việt, người dịch phải có phông văn hoá rộng là một yêu cầu không kém phần quan trọng. Người dịch càng từng trải, càng uyên thâm, càng hiểu nhiều, càng biết lắm thì càng thuận lợi, càng tự tin trong công việc, có thể chuyển ngữ đúng và hay bất kỳ tác phẩm nào của tác giả. Cái tài của người dịch cũng chính là ở đó.

– Bằng hiểu biết của mình, ông nhận thấy hiện nay tình hình văn học Ba Lan như thế nào? Nó có vị thế ra sao ở châu Âu và thế giới? Ngoài tài năng của nhà văn thì còn có những yếu tố nào giúp Ba Lan trở thành cường quốc văn học?


+ Đây là câu hỏi có tầm vĩ mô. Để trả lời thì phải nói rất dài, đưa ra nhiều dẫn chứng, bằng chứng thuyết phục. Tôi chỉ xin nói rằng, Ba Lan vẫn tiếp tục là một nước mạnh về văn học ở châu Âu với hàng ngàn nhà văn nhà thơ. Năm 1989, cùng với việc thay đổi chế độ ở Ba Lan, thêm một tổ chức mới của các nhà văn Ba Lan được thành lập. Đó là Hội Nhà văn Ba Lan SPP.

Như vậy cùng với Hội Nhà văn Ba Lan ZLP được thành lập từ năm 1918, việc SPP ra đời đã khiến cho Ba Lan có hai hội nhà văn cùng song song tồn tại, hoạt động độc lập với nhau, và không được nhà nước tài trợ. Hai hội nhà văn này có số hội viên gần như ngang nhau, mỗi hội có khoảng một ngàn hội viên, nhưng SPP đa phần là hội viên trẻ, còn ZLP có nhiều hội viên luống tuổi, nhiều người từng gắn bó với chế độ cũ. Cùng với sự sụp đổ của chế độ cũ, kể từ năm 1990, văn học trong nước và văn học hải ngoại của Ba Lan hòa nhập với nhau.

Văn học Ba Lan vừa được hưởng lợi, vừa phải trả giá khi đất nước phát triển theo kinh tế thị trường. Giờ đây nhà văn được tự do sáng tác, không bị kiểm duyệt, không có vùng bị cấm kỵ, họ tự thân vận động, tự chịu trách nhiệm. Chưa bao giờ sách văn học lại được in và phát hành nhiều như bây giờ. Giải thưởng văn học Nike (Nữ thần chiến thắng), giải thưởng văn học hàng nămdanh giá nhất Ba Lan, được trao tặng từ năm 1997, với mức thưởng là 100 ngàn zlôty tiền BaLan (khoảng gần bảy trăm triệu đồng tiền Việt), được coi là điểm nhấn hàng năm và là hoạt động có tác dụng động viên khuyến khích các nhà văn trong sáng tạo, phấn đấu có tác phẩm đỉnh cao.
Mười bảy nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học đã được nhận giải thưởng cao quý này. Ba Lan có một đội ngũ dịch văn học Ba Lan rất hùng hậu, với hàng ngàn dịch giả trên khắp thế giới. Mỗi năm có hàng trăm đầu sách văn học Ba Lan được trực dịch ra hàng chục thứ tiếng nước ngoài, nhà nước Ba Lan dám chi những khoản tiền khá lớn để tài trợ cho công việc dịch thuật. Cũng như tại Việt Nam, văn học Ba Lan được biết tới ở khắp năm châu là nhờ đội ngũ dịch giả văn học Ba Lan này và tất nhiên thông qua hoạt động dịch thuật của họ vị thế văn học Ba Lan ở châu Âu và trên thế giới không ngừng được nâng cao.

– Trong số 25 tác phẩm văn học Ba Lan mà ông đã dịch và xuất bản ở Việt Nam, ông cảm thấy tâm đắc nhất với những tác phẩm nào?


+ Tiêu chí chọn tác phẩm để dịch của tôi là phải hay, tôi thích và tôi cảm nhận bạn đọc của mình cũng sẽ thích. 25 tác phẩm văn học tôi đã dịch và xuất bản ở Việt Nam về căn bản đều thoả mãn tiêu chí này. Tuy nhiên, nếu chọn ra vài tác phẩm tôi tâm đắc thì trước tiên là “Pharaon” – bộ tiểu thuyết lịch sử khá đồ sộ của nhà văn Boleslaw Prus, viết về Ai Cập cổ đại thế kỷ XI trước Công nguyên. Đây là một tác phẩm hay về phương diện tiểu thuyết, đồng thời cũng là một cuốn sách rất giá trị, đầy ắp những kiến thức về Ai Cập cổ đại, giúp người đọc có thể hiểu biết các pharaon (các vị vua Ai Cập), khám phá các công trình thế kỷ là biểu tượng của nền văn minh Ai Cập, như Kim tự tháp Kheov, tượng nhân sư và đền ngầm Horus, Mê cung Lope-ro-hunt, hồ nhân tạo Moeris rộng 300 cây số vuông, tục ướp xác và các phong tục tập quán khác của người Ai Cập cổ đại. Các tác phẩm tiếp theo tôi tâm đắc là “Quà của Chúa”, “Xin cạch đàn ông”, “Hy vọng”, “Những khoái cảm khác” (tiểu thuyết), “Ban công lên trời”, “Con voi”, “Vợ chưa cưới chủ nhật” (tập truyện ngắn).

–  Văn học Ba Lan du nhập vào Việt Nam khá mạnh. Ngược lại, văn học Việt Nam đến nay đã được dịch thuật và đón nhận ra sao ở Ba Lan, thưa ông?


+ Tổng cộng đã có trên 30 tác phẩm văn học Việt Nam được chuyển ngữ sang tiếng Ba Lan. Từ năm 1929, Nhà xuất bản Rój ở Warszawa đã in “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, đến năm 1966 và năm 1975 “Truyện Kiều” lại được in ở Ba Lan. Trong số các tác phẩm văn học Việt Nam đã được dịch sang tiếng Ba Lan phải kể đến: “Thơ Việt Nam” – 1962, “Nhật ký trong tù”- 1963, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan – 1965, “Mặt trận trên cao” của Nguyễn Đình Thi- 1970, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh – 1995,….

Nhìn chung văn học Việt Nam còn khá khiêm tốn ở Ba Lan, chưa xuất hiện nhiều và chưa có nhiều người đọc. Nguyên do, theo tôi là chưa có nhiều tác phẩm văn học trực tiếp dịch từ tiếng Việt sang tiếng Ba Lan. Tôi hy vọng sẽ đến lúc văn học nước ta hiện diện mạnh mẽ ở Ba Lan như văn học Ba Lan đang hiện diện ở Việt Nam.

–  Xin cảm ơn ông. Năm mới, chúc dịch giả thành công với nhiều tác phẩm mới!

Theo Phan Huỳnh – Văn nghệ công an