Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, học giỏi, đậu đạt sớm nên người dân ở quê thường gọi ông là “Cậu tú Loan”. Hữu Loan sớm đến với phong trào yêu nước từ Mặt trận bình dân 1936. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm phó ban khởi nghĩa ở Nga Sơn. Sau Cách mạng tháng Tám ông là uỷ viên văn hoá trong Uỷ ban hành chính lâm thời của tỉnh Thanh Hoá, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Hữu Loan gia nhập quân đội; ông từng làm chính trị viên tiểu đoàn thuộc đại đoàn 304 và chủ bút tờ báo: “Chiến sỹ” ở miền Trung. Trong thời gian 1955 – 1957, ông làm việc ở Báo Văn nghệ Hội nhà văn VN.
Theo Hà Đình Cẩn: “Bước thăng trầm của Hữu Loan bắt đầu cuối năm 1957. Một đêm Hà Nội nhiều sương muối, buốt giá, ông và nhạc sỹ Văn Cao trắng đêm dạo quanh hồ Thiền Quang… Đến sáng thì Văn Cao tiễn ông ra bến xe về quê Nga Sơn kiếm kế sinh nhai”. Đó là thời kỳ sau Nhân văn – Giai phẩm bị dập tắt, bạn bè cùng thời với Hữu Loan tan tác nhiều phương, đổ nỗi buồn thi nhân thăm thẳm vào đâu, ông chưa hình dung ra. Riêng ông, ông chỉ biết “Đổ lên đá, và bám đá để sống”. “Hữu Loan trở thành người thợ khai thác đá, đen như sừng, chân tay sần sẹo, tua tủa râu tóc rễ tre, đi đứng, nói năng mạnh mẽ. Cặm cụi vật lộn với núi đá, cùng với người vợ tần tảo, nuôi 10 đứa con khôn lớn”.
Hữu Loan bám núi đá trên mười năm. Trong mười năm ấy, ông đã thực hiện tiếp điều mình luôn tâm niệm: thờ chữ “Tâm”, sống để “bận việc làm người”. Một cuộc mưu sinh cương cường cùng với văn chương một thời bi hùng mà hào sảng, Hữu Loan đã tạc nên tượng của chính mình.
Sự nghiệp văn chương của Hữu Loan gắn liền với một thời chiến tranh vệ Quốc hào hùng của dân tộc. Với những cảm xúc to lớn, đầy phong vị sử thi, tình ca, ông viết không nhiều, chín năm kháng chiến chống Pháp với số lượng đưa ra chỉ mười bài (trong khoảng trên 40 bài ông đã viết), điển hình là hai bài thơ: Đèo Cả và Màu tím hoa sim, nhà thơ Hữu Loan đã ghi tên mình vào nền thơ ca thời đại. Hình ảnh của ông, vị thế của ông trong nền thơ ca kháng chiến đương đại là không thể phủ nhận.
Là người lính, mải miết hành trình theo cuộc kháng chiến, Hữu Loan hầu như không có sự đắn đo, lựa chọn hình thức thơ. Cuộc kháng chiến gian khó, thương đau mà sống động, kiêu hùng đã dội vào lòng ông, rồi tràn xuống trang viết, trào sôi mãnh liệt, hào sảng, kỳ vĩ, yêu thương mà thành: Đèo Cả – Một bài thơ điển hình trong thời đại thơ mới, thơ ca kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc.
… Núi cao ngất mây trời Ai Lao
Sầu đại dương dặm về heo hút
Đá bia mù sương…
Đèo Cả, bài thơ đầu tay của ông, dọc đường kháng chiến với tâm hồn tráng sỹ, đầy chất gian lao, máu lửa, chân thực mà hào hùng, cao cả: “Rau khe/ cơm vắt/ áo phai sa trường…/Gian nan lòng không nhạt/ căm thù trăm năm xa…”.
Hữu Loan viết Đèo Cả từ mùa Thu 1946, khi ông mới ngoài 30 tuổi. Rõ ràng cuộc kháng chiến lớn lao của dân tộc, lòng yêu thương đồng đội, đất nước vô hạn đã giúp cho Hữu Loan có được cảm xúc đặc biệt, thành bút pháp hiện thực tinh hoa điển hình cho thơ kháng chiến:
Chân đèo Nam máu giặc bao lần nắng khô
Sau một lần thắng những người lính Đèo Cả về bên suối đánh cờ người hái cam rừng ăn nheo mắt người vá áo thiếu kim mài sắt người đập mảnh chai vênh cằm cạo râu…
Nhà thơ Hữu Loan (1916 – 2010)
“Đèo cả” đăng trên báo “Chiến sỹ” của Quân khu IV in tại Vinh, Nghệ An, số 8 năm 1947 với bút danh là Hữu, được bộ đội, công chúng đón đọc nồng nhiệt, rồi thành tiếng vang lớn. Bài thơ có bút pháp khúc triết, mạnh mẽ, trong sáng đạt đến phong vị tinh hoa cổ điển của thơ Đường. Trên Văn nghệ Việt Bắc số 7 tháng 12/1948, Xuân Diệu viết:
“ Tôi yêu, tôi phục bài thơ hoang vu Đèo Cả. Một Đỗ Phủ của thời đại mới đã gọi cái đèo chênh vênh ấy, đứng trong Đất nước ta, giữa Phú Yên và Khánh Hoà, mà hoá thành heo hút quá, vì bên này là ta, bên kia là giặc. Từ Bắc bộ đi suốt vào Đèo Cả, lên đèo, thấy bên kia giặc rắc tai ương!… Đèo Cả thành biên thuỳ, đứng trên đầu bể thẳm, đụng tới mây cao. Đèo Cả treo giữa biên thuỳ mà cái đẹp trầm hùng ngang với lòng chiến sỹ”.
Từ một “cậu tú” đi dạy học, làm gia sư rồi theo kháng chiến, đánh giặc, làm báo, làm thơ, Hữu Loan đã thực sự chiếm được trái tim yêu thương của cô học trò cũ của ông, người xứ Thanh mới 17 tuổi – Lê Đỗ Thị Ninh là con gái của ông bà Tham Kỳ – một gia đình danh giá. Ông Lê Đỗ Kỳ từng làm Tổng thanh tra canh nông Đông Dương, là đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của Chính phủ ta.
Ngày 06/2/1948 đám cưới của Hữu Loan và Lê Đỗ Thị Ninh được tổ chức như ông viết: “Tôi ở đơn vị về/ cưới nhau xong/ là đi…”. Thật đau đớn, chỉ hơn ba tháng sau, người vợ trẻ của Hữu Loan bị chết đuối! Lúc này Hữu Loan đang ở Ban Tuyên huấn của đại đoàn 304. Một thời gian dài, Hữu Loan hụt hẫng, đau khổ tột cùng và ông đã khóc người vợ trẻ quá cố bằng bài thơ Màu tím hoa sim. Bài thơ đã ghi lại cuộc tình duyên có thực, đẹp như mộng bị tan vỡ. Một thực tế đau thương bị nén chặt xuống đáy lòng nhiều ngày, rồi bật nấc lên thành tiếng tơ lòng làm người đọc xúc động, bi xót đến rơi lệ.
Đã có rất nhiều ý kiến bình luận về Màu tím hoa sim: Buộc tội, khen, chê… nhưng có một điều mà phần lớn tri thức, học giả, người đọc đều phải thừa nhận: đây là bài thơ tình nổi tiếng một thời, toả sáng thi ca Việt Nam, góp một phần tạo nên dấu ấn thời đại, hình tượng Hữu Loan trong lòng độc giả.
Đó là – Nỗi đau chiến chinh, chia ly, tang tóc:
Lấy chồng thời chiến chinh mấy người đi trở lại…
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh…
Chiều hành quân qua những đồi hoa sim những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt…
Đó là – Sự thấm đẫm nguyện ước, hy sinh, tình yêu trong trắng, cao đẹp của tuổi trẻ:
Tôi người vệ Quốc quân xa gia đình yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không may áo cưới tôi mặc đồ quân nhân đi dày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi…
Và – Đọc thơ, là thấy hình, thấy nhạc, sự sáng tạo của bút pháp trữ tình kể chuyện: Những nốt nhạc của cuộc đời thấm dội vào lòng ta, thành bản tình ca bi hùng mà thánh thiện. Chính vì giàu chất thơ, chất nhạc mà Màu tím hoa sim đã được nhiều nhạc sỹ nổi tiếng như Phạm Duy, Dũng Chinh, Duy Khánh… phổ nhạc. Các ca khúc trở thành những bản tình ca sâu lắng, được phổ biến rộng rãi, nhất là ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ. Theo Nguyễn Trọng Tạo: “Hữu Loan là nhà thơ cách mạng, ông vừa làm cán bộ cách mạng vừa làm cách mạng thơ. Bài Màu tím hoa sim mở ra những bài thơ nổi tiếng khác như Núi Đôi của Vũ Cao, Quê hương của Giang Nam…”.
Sau này, Màu tím hoa sim đã được Công ty cổ phần công nghệ Việt (Vitek VTB) xin tác giả mua bản quyền với giá 100 triệu; thời điểm đó là năm 2004, đời sống còn nhiều khó khăn. Đây là món quà làm vơi bớt những đắng cay, oan trái từ tác phẩm mà Hữu Loan đã phải trả.
Cùng cuộc hành trình chín năm kháng chiến, sau Đèo Cả, Màu tím hoa sim, thơ Hữu Loan vẫn nặng tình làng bản, quê hương ruột thịt: “Đôi làng/ như làng quê/ người mẹ già/ như mẹ…”. Là nỗi nhớ thương của gái làng, trai lính trong Những làng đi qua. Rồi đến Hoa lúa có cái gì đó quen thuộc, gần gũi, thân thương như ca dao: “Đôi mắt em mang/ chân trời quê cũ/ giếng ngọt cây đa/ anh khát tình làng quê/ trong mắt em/ thăm thẳm…”.
Vẫn với tính cách hoàn toàn riêng biệt, đầy sinh lực và sáng tạo, gồ gề, thang bậc như cuộc đời của ông, cùng với thế hệ Văn nghệ sỹ kháng chiến chống Pháp như: Nguyễn Đình Thi, Trần Mai Ninh, Chính Hữu, Vũ Cao, Trần Hữu Thung… Hữu Loan đã có những đóng góp xứng đáng cho nền thi ca kháng chiến Việt Nam, và ông sẽ còn mãi với thời gian.
Hữu Loan mất ngày 18/03/2010. Với cuộc đời “Tuổi gần thế kỷ ”, ông đã sống một cuộc sống sôi nổi, cao đẹp, khói lửa, trầm luân…“Ông ra đi thanh thản, nhẹ nhõm và mãn nguyện như vừa chở xong một chuyến xe đá giữa bà con xóm giềng. Những người như ông không bao giờ coi cái chết là trút xong một món nợ đời, mà chính là bước sang một thế giới khác sinh sinh, hóa hóa vô thường. Thế hệ đời sau nhớ mãi một Nhà thơ chiến sĩ, nhớ mãi Thi nhân chở đá xây Đời…” – (.Điếu văn tiễn biệt Nhà thơ Hữu Loan của Chủ tịch hội nhà văn Việt Nam : Hữu Thỉnh).
Phan Tất
Nguồn: Người Hà Nội.