Nguyễn Trọng Tạo sáng tác hai bản trường ca vào đầu những năm 80 của thế kỷ nhưng hình ảnh người chiến sĩ khi bước vào trận chiến với những đau thương và lòng quả cảm luôn sống dậy trong mỗi trang của trường ca. Đó là sự thật mà còn nguyên vẹn tính thời sự, còn “khét lẹt” mùi đạn bom nơi chiến trường. Khi đất nước có chiến tranh, người chiến sĩ đã xác định được xứ mệnh của cuộc đời mình. Đối diện với chiến tranh là giáp mặt với đau thương, hy sinh và hủy diệt vì mũi súng của kẻ thù vẫn ngày đêm dòm ngó nơi biên cương: “Bom nổ chậm vãi đen trời Đồng Lộc/ Chui xuống đất sâu mang cái chết nằm rình” (Con đường của những vì sao).

Trên mỗi chặng đường hành quân, người chiến sĩ phải biết chấp nhận những thiếu thốn về vật chất, những đeo đẳng của căn bệnh sốt rét rừng để tiến lên phía trước: “Với ngày hai thỏi lương khô/ Với cơn sốt rét mùa mưa tái rừng” (Tình ca người lính – số 2). Hình ảnh người chiến sĩ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo hiện lên chân thực với bao vất vả, thiếu thốn và sự hoành hành của bệnh tật nơi rừng thiêng nước độc: “Bao chiến sĩ tựa vào cây khi lên cơn sốt/ Cánh rừng rung lên nhận cơn sốt về rừng” (Con đường của những vì sao).

Là người trong cuộc, người đã trực tiếp cầm súng dấn thân vào cuộc kháng chiến của dân tộc, đi sâu vào dòng tâm tư với những suy nghĩ rất đời thường, mộc mạc mà mạnh mẽ, các bản trường ca của Nguyễn Trọng Tạo đã có sức gợi rất lớn khi để người chiến sĩ đứng trước chiến tranh, đối diện với chiến tranh và vận mệnh của dân tộc. Đó là những cảm xúc rất thực của người chiến sĩ dường như không kiềm chế nổi: “Ôi! Tổ quốc ta muôn đời muốn khóc/ Sau cơn bão chiến tranh quyết liệt/ Tóc biển xanh ôm vai đất mỡ màu” (Con đường của những vì sao).

Đất nước đau thương khi bóng đen của kẻ thù xuất hiện, đó cũng là khi tâm trạng của người chiến sĩ có những cảm nhận rất sâu sắc về cuộc chiến tranh. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ, hình ảnh Tổ quốc luôn thôi thúc và trở thành niềm tin để họ ý thức về vai trò của cá nhân mình, về nền độc lập của nhân dân. Sự trở đi trở lại điệp khúc: “Nhưng chiến tranh, chiến tranh không thể nào ngừng” (Tình ca người lính – số 1) như một ám ảnh xót đau của người chiến sĩ về đất nước. Tình ca người lính được Nguyễn Trọng Tạo viết năm 1984, đó là khoảng thời gian mà cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã lùi xa gần 10 năm nhưng cảm giác chua xót, đớn đau và ớn lạnh từ trong sâu thẳm tâm hồn người chiến sĩ vẫn còn nguyên: “Chiến tranh/ Ngỡ đôi lần ớn lạnh” (Tình ca người lính – số 1). Ngay cả khi biết trước ngày mai đất nước được giải phóng, chiến tranh sẽ chấm dứt, họ vẫn nguyện xả thân. Bởi những người chiến sĩ đã nhận thức được: “Nếu cửa tử này đoàn quân không qua được/… Có thể bùng cháy mái nhà tranh” (Tình ca người lính – số 1).

Đất nước đau thương và chìm trong lửa đạn khi bóng đen nòng súng của kẻ thù xuất hiện. Người chiến sĩ sẵn sàng đi vào nơi nguy hiểm để bảo vệ từng tấc đất, từng ngọn cỏ quê hương. Một câu hỏi đặt ra là, chiến tranh với biết bao gian khổ và hy sinh như thế thì sức mạnh nào đã trở thành điểm tựa thôi thúc người chiến sĩ tiến lên phía trước để tiêu diệt kẻ thù? Nguyễn Trọng Tạo khi viết hai bản trường ca không đi vào kể lể sự kiện hay thành tích mà ông đi sâu lý giải những điều rất đỗi thiêng liêng được hình thành trong tâm hồn người chiến sĩ. Đó là lý tưởng cách mạng, là vẻ đẹp của lòng quả cảm “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong mỗi bản trường ca, sức mạnh và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã được nhà thơ khai thác như một yếu tố không thể thiếu khi nói tới diện mạo của cuộc chiến tranh và vẻ đẹp hình tượng người chiến sĩ trên chặng đường hành quân đầy gian khổ, vẻ đẹp của “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ” (Lê Anh Xuân).

Là những chàng trai, cô gái căng tràn sức trẻ, những người chiến sĩ không thể khoanh tay đứng nhìn đất nước chìm trong lửa đạn. Họ tự nguyện bước vào trận chiến, sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân của mình khi đất nước lâm nguy: “Ngày mai chàng trai thành người lính/ Đường người lính – đường ra mặt trận” (Con đường của những vì sao). Người chiến sĩ ra đi để lại sau lưng mình mẹ già, em thơ, cả làng quê yêu dấu và tình yêu trong ngày cưới dang dở: “Nào riêng hai người yêu nhau hoãn cưới/ Bao cô dâu đêm tân hôn tất bật” (Con đường của những vì sao). Trong những giây phút quyết định nhất đối với vận mệnh của đất nước, người chiến sĩ xin được quên niềm riêng để hướng con tim mình về Tổ quốc thiêng liêng: “Nhưng em ơi, chính giây phút này đây/ Cho anh được quên niềm riêng nồng cháy/… Cho anh được quên để nhớ về Đất Nước!” (Tình ca người lính – số 1). Điệp khúc “Đi Đi và đi…” trở đi trở lại trong bản trường ca Tình ca người lính vang lên như một khúc ca hào sảng về tư thế lên đường chiến đấu đầy quyết tâm và rắn rỏi. Họ tiến thẳng về phía trước, nơi đó họ sẽ tiêu diệt kẻ thù, nơi đó họ sẽ cắm lá cờ chiến thắng. Bởi “Cuộc chiến đấu ấy là cuộc chiến đấu chấp nhận hy sinh cho thắng lợi cuối cùng”.

Trong phút giây quyết định, khi mà số phận của họ cận kề với cái chết, khi mà đất nước sẽ một còn một mất cũng là lúc mà tâm thế của con người họ đẹp hơn bao giờ hết: “Những người lính vững vàng như cột mốc/ Những người lính/ Đứng/ Làm cột mốc” (Tình ca người lính – số 3). Chính họ, những “cột mốc” ấy sẽ làm nên chiến thắng, sẽ quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi.

Sức mạnh của lý tưởng và lòng quả cảm hướng về phía trước, người chiến sĩ trong đêm công đồn đã quên mình để giáp lá cà với kẻ thù. Sức nóng của con tim, sức căng của chân lý độc lập đã thôi thúc bước chân của họ: “Anh lao lên/ Và xe pháo/ Và người/ Cánh cửa thép Hòa Bình tung mở” (Tình ca người lính – số 1). Tiếng reo vang “Hòa bình! Hòa bình!” như cất lên từ sâu thẳm con tim những người còn sống và cả những người đã nằm xuống trước cánh cửa tự do.

Trường ca viết về chiến tranh nói chung và trường ca của Nguyễn Trọng Tạo nói riêng không hề né tránh những hy sinh. Trên chiến trường cam go và quyết liệt, người chiến sĩ cận kề với cái chết, cái chết đối với họ “nhẹ tựa lông hồng”: “Nhưng em ơi, biết bao đồng đội/ Nằm lại với non sông như đá tảng cây rừng” (Tình ca người lính – số 1). Họ nằm lại chiến trường cùng đồng chí, đồng đội của mình, nằm lại với non sông đất nước, hóa thân vào dáng hình xứ sở. Khi nằm xuống, họ vững tin một ngày mai thắng lợi, đất nước được giải phóng. Và có lẽ, trong sâu thẳm tâm hồn, những người chiến sĩ nhớ về người mình yêu, những người đang chờ đợi mình nơi hậu phương. Để rồi ngày mai, sự hy sinh của họ trở thành bất tử, máu của họ chan hòa thành sự ngời sáng tự hào trên lá cờ đỏ thắm, hiện diện niềm tự do trên mỗi cây cành: “Em tìm anh, không thể nào gặp được/ Máu anh bay lên trên những lá cờ/ Tóc anh xanh cây lá tự do/ Mắt anh sáng bao mắt nhìn đắm đuối” (Tình ca người lính – số 1).

Nếu trong trường ca Tình ca người lính, người chiến sĩ trong tư thế hiên ngang tiến lên phía trước để “cắm cờ độc lập” thì trong trường ca Con đường của những vì sao, hình ảnh những cô thanh niên xung phong mà cụ thể là hình tượng 10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc đã đi vào những dòng thơ tràn đầy niềm xúc động và cảm phục của Nguyễn Trọng Tạo. Không hề ngần ngại khi nhà thơ đặt tên cho nhân vật trong trường ca của mình với những cái tên như La, Cúc, Tần, Xuân, Hà, Rạng… Ở chương thứ 8 – Đỉnh cao, nhà thơ dựng lên bức tượng đài bi tráng về hình tượng 10 chiến sĩ thanh niên xung phong nơi Đồng Lộc ác liệt: “Tiếng La gọi nghẹn ngào trong khói đắng/ Tiếng La gọi xiên qua tầng đất nặng/ Xiên qua bom đạn rú gầm/ Chỉ có gió ầm ầm” (Con đường của những vì sao). Thời gian và không gian Đồng Lộc lúc này như đặc quánh bởi tràn ngập khói đắng và lửa đạn. Trong khoảnh khắc, đạn bom, đất đá, tín hiệu và giọng nữ thất thanh như bị hòa trộn vào nhau tạo nên một tình thế hết sức cam go. Trong hoàn cảnh ấy, người chiến sĩ – những cô thanh niên xung phong là những người sẽ phải xông pha để thông những tuyến đường. Song, sức công phá của dã tâm hủy diệt không chỉ băm vằm những tuyến đường mà còn vùi lấp những “mái tóc tuổi hai mươi” nơi Đồng Lộc. Điệp khúc “La lại quẫy mình…/ không làm sao gượng dậy” trở đi trở lại như khắc họa một tình thế của người chiến sĩ, một sự vùng vẫy để vượt lên phía trước. Và đó cũng là một hiện thực vô cùng xót đau khi những người chiến sĩ bị bom đạn vùi lấp trong đất đá. Lúc này, sự sống và cái chết gần như gang tấc song lòng quả cảm vẫn cố vùng lên để đối chọi với sự hủy diệt của đạn bom. Nguyễn Trọng Tạo đã buông vào những câu thơ đầy tính lãng mạn này để mong làm át đi, giảm đi sự thật đau thương đó là sự hy sinh của 10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc: “Mái tóc bay trong đất – tóc hai mươi/ Tóc trong đất, gió thời gian thổi mãi…” (Con đường của những vì sao).

Xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong hai bản trường ca Tình ca người lính và Con đường của những vì sao, Nguyễn Trọng Tạo đã có những thành công nhất định về mặt nghệ thuật của thể loại. Nhà thơ xây dựng kết cấu của trường ca theo hình thức tự sự xen trữ tình, trong đó ông đã tạo ra hệ thống nhân vật có tên như La, Mùa trong Con đường của những vì sao, nhân vật không tên như anh ấy, cô gái ấy trong Tình ca người lính. Dòng sự kiện xuyên suốt tác phẩm cùng hệ thống các nhân vật như là một nhân chứng sống đã làm nổi bật chủ đề mà nhà thơ muốn thể hiện. Với kết cấu thành từng chương, tác giả đã có sự đan xen những đoạn vĩ thanh, đoạn thơ lục bát, chất sử thi cùng yếu tố dân gian trong những đoạn có sự nhấn mạnh cảm xúc. Tất cả những yếu tố nghệ thuật này đã góp phần dựng lên hình tượng người chiến sĩ vừa gần gũi bình dị vừa thiêng liêng cao đẹp. Đó là hình ảnh trở đi trở lại trong mỗi bản trường ca tạo nên cảm hứng ngợi ca bi hùng về những con người đối diện với lửa đạn, với sự hy sinh và niềm tin vào một ngày mai hòa bình tươi sáng.

N.T.L

Nguồn tin: TCNV 05-2013

Exit mobile version