Nguyễn Ngọc Phú
Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, xin giới thiệu bài cảm nhận về hình ảnh người thầy qua những bài thơ của các nhà thơ nổi tiếng viết về nhà trường và thầy giáo.
Tiếng trống trường đã điểm chưa em …
Tôi muốn lấy một câu thơ trong bài “Một giờ mười phút” của nhà thơ Phạm Tiến Duật để làm đầu đề cho bài viết này khi đọc lại một số bài thơ viết về đề tài nhà trường và thầy giáo. Phạm Tiến Duật vốn là sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội và bài thơ này ông viết tặng người yêu là giáo viên dạy toán, sau này là bạn đời của ông. Bài thơ “Một giờ mười phút” là sự phát hiện đồng hiện của: “Cứ một giờ lại nghỉ mười phút – trong buổi hành quân đi bộ sáng nay – Anh bỗng nhớ em lên lớp mỗi ngày – Cứ mỗi giờ lại nghỉ mười phút”. Cái thông lệ tuần tự thời gian ấy ai trong nghề giáo cũng biết. Nhưng chỉ có nhà thơ mới nhận ra khi ông liên hệ với người lính hành quân đã rút ngắn khoảng cách hậu phương với chiến trường. Và thật ra, trong con người ông vẫn đầy ắp những kỷ niệm, ký ức nghề sư phạm của mình trước khi thành người lính: “Lúc em ngồi với học sinh là lúc – Anh đứng đỉnh trời gió thổi mênh mông”. Trong trường liên tưởng của Phạm Tiến Duật hay có cách nói song song như một sự so sách thật tự nhiên mà cảm động: “Tấm bảng đen vẽ những đường cong – tấm bảng đêm anh vạch lên đường đạn – Viên phấn trắng và đường chớp sáng – Ở hai đầu trận địa em ơi”. Cách nói của Phạm Tiến Duật có chút tếu táo chất lính nhưng ngẫm lại đằng sau đó là bao lắng sâu trải nghiệm, nhất là khi nghĩ về công việc của nhà giáo.
Cũng như thế nhà thơ Đặng Hấn vốn là một thầy giáo dạy toán đã viết nhiều cuốn sách công trình toán học lại rất hồn nhiên và độc đáo dí dỏm khi viết thơ cho thiếu nhi với những hình ảnh gần gũi với nghề giáo để thổi vào tâm hồn các em tình yêu thiên nhiên và vạn vật quanh mình. Ông đã “lạ hóa” “trẻ thơ hóa” với cái nhìn ngộ nghĩnh của tư duy thi sĩ vốn là thầy giáo dạy toán mới phát hiện ra. Ví như bài thơ “Cầu chữ Y” “Một cây cầu lớn ở thành phố Hồ Chí Minh”: Cầu nào cũng chữ I nhưng chỉ là I ngắn – Cầu quê em lạ lắm – giống hệt chữ Y dài”. Và tứ thơ bất ngờ được nâng lên một khái quát tạo cho các em bao sự thú vị khi lần đầu nhận ra: “Ôi người đi trên chữ – Chữ nâng người lên cao”. Cả bài thơ không nói gì đến phẩm chất giáo dục mà gieo vào tâm hồn các em những ý nghĩa của tri thức “chữ”hơn nhiều.
Có một điều đặc biệt trong các bài thơ viết về hình ảnh người thầy giáo bao giờ các nhà thơ đều tỏ lòng biết ơn và trân trọng vì họ từng trải qua lứa tuổi học trò. Như dân tộc việt Nam ta có truyền thống “Tôn sư trọng đạo” hay “muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”. Nhà thơ Hữu Thỉnh có bài thơ “Thưa thầy” (Đã từng được giải nhất cuộc thi thơ do Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cùng Đoàn thanh niên CSHCM tổ chức). “Thưa thầy” hai tiếng thiêng liêng ấy gắn bó với tất cả những ai có một thủa cắp sách tới trường. Hữu Thỉnh bằng kinh nghiệm sống từng trải của mình khi gửi về thầy giáo cũ đã viết: “Trước ngọn Thước là con đường xa lắc”. Ngọn thước của thầy giáo đã chỉ ra một đường thẳng nhưng cuộc đời không đơn giản thế. “Thưa thầy” là một lời thưa mà cũng chính là lời tự thú khi nhà thơ là cậu bé học trò ngày nào nhận ra: Đã vấp ngã , thưa thầy nhiều vấp ngã – Chẳng ở đâu xa ở ngay giữa con người” – Đó là cách nhìn thẩm thấu sâu sắc nhiều trực cảm. Hình ảnh người thầy giáo hiện lên: “Đời mau quá tóc thầy khói phủ – giáo án mông mênh bão giật đời thường”. Những hình ảnh tương phản cứ gieo vào lòng ta bao sự trắc ẩn, sẻ chia. Hai câu thơ ám ảnh nhất trong bài: “Cây trước cửa gió ở ngoài trang vở – thầy một mình vật vã với văn chương”. Rõ ràng văn chương đích thực bao giờ cũng hướng về cuộc đời, hướng tới những số phận con người với những bài học không chỉ khuôn trong trang vở. Hành trình của “Thưa thầy” khép lại bằng tiếng giảng Kiều, một áng văn bất hủ bi thương: “Giở trang Kiều thầy giảng chạnh lòng đau” đau trong day dứt trong nhận thức để mình sống tốt hơn.
Trái với Hữu Thỉnh cũng viết về thầy, tâm sự với thầy của nhà thơ Võ Thanh An có một cách nói khác: “Dạ thưa thầy”với giọng thơ tự sự nhiều chiêm cảm điềm đạm bằng chính sự khiêm nhường tự vấn của mình. “Dạ thưa thầy” là lời thưa cẩn trọng nhưng cũng là lời bộc bạch chia sẻ với thầy giáo kính yêu của mình. “Con vẫn nhớ lời thầy, diệt oán bằng ân – Dạ thưa thầy, viên phấn trắng đã đổi màu – Ngày nay bảng đen có nơi thay đổi Fooc mi ca màu trắng – Buộc lòng viên phấn là bút dạ đen”. Sự nghịch lý này chỉ ra những mâu thuẫn nội tại bản chất bắt đầu thay đổi từ hình thức. Và đây, hình ảnh cậu học trò run lên thật đơn sơ tinh khiết trọn vẹn: “Dạ thưa thầy con vẫn là một đứa bé y nguyên – Run lên trước cuộc đời như đã từng run lên mỗi lần thầy gọi lên bảng”. Chắc khi viết những dòng này nhà thơ Võ Thanh An như được sống lại những phút giây của tuổi học trò với những giăng mắc níu kéo, những thấp thỏm lo âu cứ đan xen nhau tạo ra sự phấp phỏng nội tâm chân thành. Câu thơ không còn sự trang sức màu mè nào khác mà đi thẳng vào lòng người với tất cả tình cảm chân thật nhất của mình. Người thầy như là một điểm tựa cứu cánh. Nhà thơ đã tìm đến sự nhịn” của triết lý nhà Phật: “Dạ thưa thầy con vẫn tin sự nhịn là cứu cánh – Bao giờ cuộc đời lành hơn”. Chữ “lành” ở đây hàm chứa bao ý nghĩa minh triết không chỉ là sự lành lặn mà còn là sự an lành ở người thầy luôn toát ra vẻ đẹp hoà quang nhân ái bao dung như thế…
Ảnh minh họa (ảnh TLĐĐ)
Trong số các nhà thơ viết về thầy giáo thì thần đồng thơ Trần Đăng Khoa là một trong số các tác giả có nhiều thành công nhất. Bởi với lứa tuổi học sinh thì hình ảnh người thầy thật sinh động và thân thiết luôn là tấm gương sáng để các em noi theo. Thầy không những dạy chữ mà còn dạy cả bài học đạo đức làm người. Không chỉ bằng kiến thức có trong sách vở mà bằng cả nhân cách sống của mình trong cuộc sống đời thường. Đó là hình ảnh người thầy giáo thương binh đã để lại một phần máu thịt ở chiến trường, để trở về mái trường cũ truyền dạy kiến thức cho các em. Điều đó được thể hiện rất rõ trong bài thơ “Bàn chân thầy giáo”: “Thầy ngồi trên ghế giảng bài – Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ – một bàn chân thầy ở đâu rồi – Chúng em không rõ”. Và từ đó chú học trò Trần Đăng Khoa nhận ra một điều lớn lao hơn: “Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo – như nhận ra cái chưa hoàn hỏa của cuộc đời mình”. “Nghe thầy đọc thơ” cũng là một một tứ thơ hay. Tiếng thơ của thầy chứa đựng trong đó bao vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước của tình yêu con người đã gieo vào lòng các em sự trong sáng của tiếng Việt: “Em nghe thầy đọc bao ngày – tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quên nhà” để rồi: “thân yêu tiếng hát nụ cười – Yêu thơ em thấy đất trời đẹp ra”.
Cùng một miền tâm tưởng da diết này nhà thơ Đoàn Vị Thượng nhớ lại những ký ức một thời với bao sâu lắng bồi hồi trong nhịp lục bát hiền hòa mà chứa đựng bao giãi bày yêu thương tha thiết trong bài thơ “Lời ru của thầy”. Tứ thơ lạ, bởi lâu nay ta chỉ nghe nói và chú trọng đến lời ru của mẹ, của bà. Ở đây lời ru của thầy mang lại bao ân tình: “Mỗi nghề có một lời ru – Dở hay thầy cũng chọn ru khúc này”. Và lời ru chân thành đó: “Bắt đầu cái tuổi lên ba – thầy ru điệp khúc quê nhà cho em”. Từ: “Lời ru của gió màu mây – con sông của mẹ – đường cày của cha”. Thật cảm động khi nhà thơ bộc lộ những thảng thốt day dứt của mình: “Thầy không ru đủ nghìn câu – Biết con chữ cũng đứng sau cuộc đời”. Hai câu thơ hay nhất trong bài cũng là lời nhắn gửi ân tình: “Trong em hạt chữ xếp dày – đừng quên mẹ vẫn lo gầy hạt cơm”, “hạt chữ” và “hạt cơm” là những hạt được gieo qua bao mồ hôi nhọc nhằn nuôi lớn em cả thể xác và tâm hồn khi: “hẳn là thầy cũng già thôi – hóa thân vào mỗi cuộc đời các em”. Vâng, chính sự hóa thân vì học sinh thân yêu đó chính là hành trang thầy mang theo trọn đời: “Thì dù phấn trắng bảng đen – hành trang ấy đủ thầy đem theo mình” .
Viết đến đây tôi bỗng nhớ đến những cô giáo đang ngày đêm “gùi chữ” lên núi cao để mang con chữ đến với các bản làng heo hút trong bài thơ “Em đi” của nhà thơ Lê Đình Cánh: “Em đi gieo chữ trên rừng – đã qua măng ngọt đã từng cay chua”. Hoàn cảnh của những cô giáo ở vùng cao muôn vàn khó khăn vất vả không chỉ thiếu thốn về vật chất mà còn cả khát khao tình cảm tình yêu thương: “Ở rừng tự hát ru nhau – lá trâu chị héo quả cau em già – Ước ao có môt gian nhà – có trưa đưa võng đón ba lên chơi”. Ước mơ thật giản dị và thiết thực biết bao nhưng họ đã vượt lên: “em đi nón chạm mây trời, – bản mường gieo chữ cất lời ngân nga”. Hình ảnh “nón chạm mây trời” thật đẹp. Chiếc nón che mưa che nắng đan cài, đan dệt bao vầng trăng tròn như vành nón cứ mòn theo năm tháng tóc pha sương trắng, mây trắng nhưng lời giảng vẫn trong trẻo ngân nga hòa vào tiếng rừng, tiếng suối “Em đi” gánh theo bao nỗi chập chùng như những nét chữ ngổn ngang trong bập bùng những bó đuốc soi đường đến trường khi sương mù buông xuống.
Có hai thầy giáo một thời là thần đồng toán học, là những cây bút xuất sắc của báo “Toán học và tuổi trẻ” đó là nhà thơ Lê Quốc Hán và thầy giáo Lê Thống Nhất. Đọc thơ viết về thầy giáo của các ông tôi mới nhận ra ngoài tư duy lô-gich của toán học thì họ còn có những phi lô-gich nhưng rất hợp lý của tâm hồn. Toán học và thi ca cũng đều gặp nhau ở chóp nhọn chóp nón của trí tưởng tượng. Lê Quốc Hán hàm súc cô đọng chất thiền lắng đọng với bao suy tư trong bài thơ “Tự cảm” chỉ vọn vẹn bốn câu mà ông đã tả được bao chiêm nghiệm về nghề: “Mỗi năm mùa hạ đến – Viên phấn nặng gấp đôi – chuyến đò ngang về bến – nhẹ tênh như không người”. Rất nhiều người ví thầy giáo như “người lái đò” chở bao lứa học trò qua sông mải miết theo tháng năm. Cái sự nặng nhọc, đầy vơi trong “Tự cảm” thật âm thầm lặng lẽ mà thanh cao tự trọng biết bao. Bài thơ “Lời mùa thu” của Lê Quốc Hán là lời tâm sự chân tình: “Một trang sách mỏng cầm tay – thầy đi suốt cả vạn ngày bên con – một viên phấn trắng gầy mòn – vạch cho con thấm vòng tròn đã vơi”. Bài thơ không nói đến thời gian mà ta nghe được, đếm được bước chân nghiệt ngã của thời gian. Của “mỏng” của “mòn” của bao sự “vuông tròn đầy vơi”. Nhưng thời gian vẫn chưa đủ đong đếm tuổi tác tháng năm, không mài mòn được nguyện tâm sắt son gắn bó với nghề yêu nghề của người thầy giáo thi sĩ: “Thước nào đo được dại khôn – Vui chỉ là một cánh buồm lẽ loi – Nguyện thành một mặt gương soi – Tránh sao khỏi hạt bụi rơi lấm mình”. Trái với giọng thơ nhiều suy tư chiêm nghiệm của Lê Quốc Hán thì thầy giáo Lê Thống Nhất trẻ trung dí dỏm trong bài “Thơ vui về nghề giáo”. Với những lời đùa tếu táo táo khi hội lớp, hội trường với các đồng nghiệp, thầy Lê Thống Nhất phát hiện ra thật vui: “Chẳng đi tu cũng gọi là “sư” – Không ở tù cũng kêu “phạm” – Thời gian khổ chúng tôi thương hay ngẫm – “Ăn sư” “Ở phạm” đám chúng mình”. Phải lạc quan yêu đời, yêu nghề biết mấy thì mới có thể tự họa tự gán cho mình như thế. Vượt lên những lời đùa vui lại có một giọng thơ hào sảng tự tin (hay tự hào) với nghề thầy giáo của mình: “Xung quanh chúng tôi là ánh mắt nụ cười – đâu chỉ có bảng đen phấn trắng – trước mắt chúng tôi là sân trường rực nắng – chỉ chúng tôi mới hiểu cánh phượng hồng”. Đại từ nhân xưng nhóm “chúng tôi”với bao cộng hưởng sẻ chia như muốn truyền cảm hứng đặc biệt đến với các đồng nghiệp những người mà “Chỉ chúng tôi mới hiểu cánh phượng hồng” thiết thân rạo rực tươi hồng đỏ chảy trong huyết quản trong năng lượng sống vừa là thông điệp của mùa hè vừa là thông điệp tình yêu nghề giáo.
Kết thúc bài viết này tôi muốn được cùng nhà thơ Phi Tuyết Ba (cũng làm một cô giáo) về với miền thương nhớ “Vùng phấn bay” gợi cho ta một hồi ức định vị một vùng nhớ thương với bao vòng sóng tâm tình lan tỏa. Viên phấn trắng gắn bó với công việc của người thầy truyền giảng tri thức cho học trò. Phấn càng mòn kiến thức càng đầy đặn hơn. Nhưng ở đây hình ảnh bụi phấn bay nhiều đến vùng phấn bay tạo một trường liên tưởng ám ảnh nhuộm xuống mái tóc của thầy: “Phấn xưa đã kết thành mây trắng đầu”, và “Bao nhiêu viên phấn đã mòn – bao nhiêu giáo án chẳng còn trẻ trung”. “Phấn mòn” là ước lệ của thời gian. Nhưng giáo án không còn trẻ trung là nổi niềm của thân phận. Trong sự lao động phân công của xã hội thì nghề giáo cực nhọc về cả môi trường làm việc luôn tiếp xúc với bui phấn để thanh lọc kết tụ thành những tri thức bài giảng từ tâm huyết của mình để cho: “trang đời xanh thắm hôm nay” để cho “Sông đời bất chợt nông sâu – học thầy em bắc chiếc cầu chữ Tâm”. Viên phấn trắng – mái tóc thầy bạc trắng để cho trang vở cuộc đời học trò trắng tinh gieo xuống đó bao chữ tình chữ nghĩa: Dòng sông kiến thức sóng xô – mong manh trang vở học trò trắng tinh”. Tôi vẫn ngỡ như còn nghe vọng lại những nhịp sóng yêu thương vô bờ vỗ vào con đò nhân thế thầy chở học trò qua sông miệt mài qua năm tháng. Cũng như còn nghe vọng lại nhịp tiếng trống trường vào lớp, ra chơi cần mẫn như quả lắc đồng hồ thời gian điểm nhịp. Và bây giờ dù đã xa tuổi học trò đã lâu, con tim tôi vẫn luôn thổn thức bồi hồi rạo rực với: “tiếng trống trường đã điểm chưa em?…” của ngày nào.
Văn học quê nhà
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài