Trong chuyên mục TRUYỆN HAY, Cầm Kỳ Official xin được giới thiệu truyện ngắn Bức tranh vẽ dở của tác giả Võ Đào Phương Trâm.

Tác giả Võ Đào Phương Trâm.

Sinh năm1983

Sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh

Cử nhân Đông Nam Á học; Thạc sĩ Quản lý giáo dục.

Công việc hiện tại: Biên tập, sáng tác văn học.

Bắt đầu tham gia sáng tác vào năm 2021 bằng niềm yêu thích Văn chương và bản thân tác giả luôn có một tâm niệm được đóng góp một phần công sức, tâm huyết của mình vào con đường sáng tác để gửi đến quý độc giả một góc nhìn về cuộc sống được thu nhỏ qua tác phẩm của mình!

Truyện ngắn “Bức tranh vẽ dở”: đã được đăng trên Văn nghệ tp HCM; Nhật báo Cali Today.

Truyện ngắn

tác giả: Võ Đào Phương Trâm

Bức tranh vẽ dở.

Ngày 10 tháng 3 Năm 2000

Chiếc xe bus tấp vào bãi đậu giữa cái nắng như muốn đun chảy nhựa đường. Thuyên bước xuống xe, nắng tháng ba như thốc vào mặt làm hoa cả mắt. Cái bến xe này vắng vẻ là điều hiếm hoi giữa đường phố tấp nập đông người, Thuyên ngồi tạm xuống hàng ghế được che chắn xung quanh bằng mấy tấm bảng quảng cáo rồi cầm tờ bản đồ ra dò đường. Theo như bản đồ thì chỉ còn cách chừng 300 mét là sẽ đến được cái phòng vẽ tranh của ông Huân, người hoạ sĩ vẽ tranh truyền thần nổi tiếng trong giới hội hoạ ở Sài thành.

Sau khi đi qua nhiều lối rẽ và gặp quán cafe có bảng hiệu tên Khói, điểm đánh dấu để biết được vị trí cần tìm giữa những ngả rẽ na ná như nhau. Thuyên quẹo vào bên trong con đường vắng vẻ, một cảm giác yên ắng mát mẻ nhanh chóng hạ nhiệt cơ thể với những cây bàng lá nhỏ trồng lác đác hai bên vỉa hè, con hẻm tách biệt với sự xô bồ ồn ã, với cái nắng ngập ngụa bỏng rang ngoài giao lộ lớn.

Những dãy nhà với nhiều căn tách biệt, nằm sâu tận bên trong, cách một khoảng sân, đánh đố sự tìm kiếm của khách tìm đường. Thuyên chăm chú tìm đúng số nhà trong mảnh giấy nhỏ, sự thắc thỏm nhảy múa khi những số nhà cũ mới đan xen như thách thức người lạ lọt vào ma trận.

175/24 hiện lên phía trước mặt, bảng số nhà màu xanh ghi địa chỉ nhà bằng tấm thiếc mỏng đóng hờ hững, theo năm tháng, những chiếc đinh gỉ trở nên lỏng lẻo, tấm thiếc cong lên ở bốn góc vành như chực chờ rơi khỏi bức tường, những con số loang lổ phơi bày vết tích cũ kỹ của thời gian, nơi những ngôi nhà rêu xanh mép ngói.

Thuyên đi gần về phía cánh cửa sắt đóng kín, đưa tay gõ nhẹ. Sự lặng im đáp trả lại Thuyên khi cánh cửa ngôi nhà vẫn không có ai ra mở. Thuyên kiên nhẫn gõ lại hai lần rồi ba lần, tim cô bắt đầu đập từng nhịp mạnh vì loáng thoáng trong đầu, cô không biết mình có tìm được đúng địa chỉ hay không. Trước sự yên lặng lạnh lẽo toát ra từ bên trong ngôi nhà có cánh cửa sắt hoen gỉ, xung quanh lại chẳng có ai để mà hỏi han nhờ vả. Thuyên bắt đầu chột dạ. Cô nhón chân, cái dáng nhỏ xíu của con bé chỉ được 1m55 chạm vào khe hở bên trên cánh cửa, Thuyên dè dặt nhìn vào.

Xuyên qua khe cửa hẹp, một ánh sáng mờ mờ, dìu dịu lọt vào mắt Thuyên, một thứ ánh sáng bao trùm thế giới của người hội hoạ, đậm đặc mù mờ tựa như không gian của người Thiền tập.

Khi đã nhận ra thứ ánh sáng ấy, Thuyên mạnh dạn gõ cửa mạnh hơn và kèm theo tiếng gọi:

– Chú hoạ sĩ ơi.

Sau vài giây, cánh cửa sắt mở ra chậm chạp, tiếng kéo lê ken két nặng nhọc nghe long cả vào thái dương, một cái đầu tóc bù xù nhoài ra, mớ tóc rũ rượi che khuất cả đôi mắt, gương mặt đậm nét của dân nghệ thuật khác người, lúc nào cũng phải tóc tai loà xoà, áo quần lem luốc. Nhìn cô gái lạ với đôi mắt dò xét, gã đàn ông cất giọng ồm ồm:

– Cô là ai vậy?

– Cháu là Thuyên ạ.

– Đến đây mua tranh hay vẽ tranh?

– Cháu đến để tham quan và xin một ít thông tin về chú đc không ạ?

Gã hoạ sĩ ném cái nhìn lạnh nhạt để đón cô gái trẻ, chẳng biết gã hài lòng hay đang khó chịu nhưng thấy gã quay lưng đi vào, cánh cửa vẫn để mở nên Thuyên lẽo đẽo đi sau lưng gã.

Thuyên với tay kéo cánh cửa sắt lại nhưng cô nhận ra mình bất lực khi nó quá nặng cộng bị rỉ sét càng tăng thêm độ ma sát trì rít xuống nền xi măng bám đầy bụi bặm lâu ngày. Tiếng rít ngắt quãng của cánh cửa nặng nề như con ngựa chứng không hoan hỷ khép lại từ cánh tay mảnh khảnh của cô gái nhỏ.

– Để đó đi.

Vẫn cái giọng khàn đặc mùi khói thuốc và lạnh tanh của gã hoạ sĩ ném vào tai người nghe một cách khó ở. Thuyên rón rén đi vào bên trong căn nhà đang thắp sáng bằng một ánh đèn vàng sánh đặc, không hiểu sao với cái ánh sáng này mà gã hoạ sĩ lại có thể vẽ được những bức ảnh truyền thần cần sự tỉ mỉ từng milimet.

– Ngồi đó đi.

Gã hoạ sĩ chỉ vào cái ghế dựa xem ra là chỗ ngồi chỉnh chu sang trọng nhất trong cái phòng không có gì đáng giá ngoài mớ màu mè nhoè nhoẹt, những mảnh giấy và những bức ảnh đủ dung mạo. Thuyên ngồi xuống ghế, yên lặng chưa dám lên tiếng bởi không gian căn phòng có vẻ gì đó âm tịch, vắng lặng đến lạnh lẽo, mặc dù được thắp thứ ánh sáng vàng vọt nhưng cũng không đủ xua tan cường độ yên ắng nơi đây, có lẽ nó toát ra từ chính người chủ căn phòng này, từ bộ dạng luộm thuộm lẫn trong giọng nói như người cõi âm của gã thì chẳng có thứ gì đủ để xoá đi cảm giác rờn rợn, quai quái của căn phòng.

– Cô muốn hỏi gì?!

– Dạ, chú vẽ tranh truyền thần lâu chưa chú?

– Hơn 30 năm

Gã nói nhưng chẳng nhìn người đối diện, tay gã vẫn loay hoay với cái bảng pha màu, mắt vẫn dán vào bức tranh đang vẽ dở được nửa phần gương mặt. Mái tóc gã cứ loã xõa che hết đôi mắt, nhìn xa xa, cứ như một bộ đầu tóc rũ rượi loà xoà của con manacanh mà người ta chưng trong tủ.

– Tranh này là người ta đặt chú vẽ hay chú lấy cảm hứng từ ai đó rồi tự vẽ vậy ạ?

– Cả hai.

Thuyên nhìn quanh một lượt những bức tranh trong căn phòng đặc quánh úa vàng, ánh sáng ma mị hằn những vệt sáng tối lên những đôi mắt, khuôn mặt mờ ảo như thể đang xoáy sâu vào trực giác người quan sát, những bức tranh đẹp mê hoặc không nghĩ rằng nó được vẽ nên từ đôi bàn tay gầy guộc, gân guốc, ngón tay dài loằng ngoằng của gã đàn ông luộm thuộm.

Bất chợt, mắt Thuyên chú ý đến một bức tranh phủ kín bằng mảnh vải trắng, mảnh vải như có ai đó kéo cho chùn xuống, chỉ lộ một phần đôi mắt như đang nhìn xoáy về phía Thuyên đang ngồi. Theo quán tính và cảm giác bị thu hút từ cái nhìn nơi đôi mắt trong tranh, Thuyên đi gần đến phía góc cầu thang.

Mảnh vải rơi ra khi Thuyên cố tình đưa tay kéo nhẹ, cô bàng hoàng lẫn kinh ngạc khi nhìn thấy vết sẹo nham nhở đầy đau đớn trên gương mặt chỉ mới vẽ được một nửa của người phụ nữ.

– Ai cho cô kéo tấm vải đó xuống?

Tiếng gã hoạ sĩ lồng lên đầy giận dữ, cái giọng khàn đặc gầm gừ của gã như bóp nghẹt thần kinh của một đứa con gái nhỏ nhắn, Thuyên run như cầy sấy, nói lạc cả giọng:

– Cháu… cháu… sơ ý đụng vào. Cháu xin lỗi.

Ánh mắt gã hoạ sĩ vẫn long lên sòng sọc một cách dữ tợn khác thường, dường như gã chẳng cần nghe lời giải thích của cô gái trẻ. Gã lao một cách vội vã đến nỗi xém chút bổ nhào giữa mớ đồ nghề đang ngổn ngang dưới đất, gã phóng về phía bức tranh rồi chụp mảnh vải trắng phủ nhanh lên trên khung gỗ.

Gã quay đi nhưng vẫn không quên ném vào mặt Thuyên cái nhìn lườm lườm đe doạ.

– Cô hãy giữ ý thức khi vào nhà người khác. Nếu cần gì, hãy để chủ nhà người ta hướng dẫn.

Gã hoạ sĩ gằn giọng.

– Nếu còn táy máy chân tay, tôi sẽ tống cô ra khỏi đây ngay lập tức.

Thuyên vừa hoảng sợ, vừa khó hiểu với hành động của gã hoạ sĩ, nó chẳng giống gì với sự cởi mở của những người hoạ sĩ khác, tim cô đập thình thịch tưởng như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực, nhưng chính sự khó hiểu này càng làm Thuyên tò mò về bí ẩn của bức tranh ở góc cầu thang.

Thuyên cố gắng giữ bình tĩnh, bước đến gần gã hoạ sĩ, cô dịu giọng:

– Chú này, sao bức tranh đó lại có vết sẹo vậy chú?!

– Cô đừng hỏi nhiều về bức tranh đó.

– Nhưng từ đầu, cháu đã xin chú vào đây để tìm hiểu về tranh, sao giờ chú lại không giúp cháu?

– Bất cứ bức tranh nào cô cũng có thể hỏi, trừ bức tranh đó.

Thuyên thở dài và nhìn gã hoạ sĩ bằng cái nhìn bất lực.

– Nhưng cháu muốn tìm hiểu về bức tranh đó.

– Cô còn trẻ, đừng học tính ngoan cố.

– Cháu không ngoan cố gì đâu ạ. Cháu chỉ muốn tìm hiểu thôi. Mà cháu nghĩ, chú cũng nên mở lòng để chia sẻ về những tác phẩm nghệ thuật của chú. Biết đâu, đó là kiệt tác. Một bức tranh quá ấn tượng tại sao chú lại không muốn ai xem?

– Và tôi phải chia sẻ kiệt tác đó với một đứa con nít như cô à?

Thuyên im lặng vài giây trước câu hỏi có phần mai mỉa lẫn trong nụ cười nhếch mép của gã hoạ sĩ thô kệch cộc cằn.

– Chú nghĩ cháu là gì cũng được nhưng cháu là người phù hợp nhất để chú nói về xuất xứ của bức tranh.

Gã hoạ sĩ vẫn chẳng buồn ngó đến Thuyên, mắt gã vẫn tập trung vào bức tranh đang vẽ dở dang trước mặt, bàn tay gã lả lướt điều khiển chiếc cọ uốn lượn những đường nét mềm mại uyển chuyển trên nền giấy canson. Thuyên im lặng vì không muốn cắt ngang dòng cảm hứng đang tuôn nhả đều đặn từ bàn tay và ánh mắt của một gã họa sĩ tài hoa nhưng kỳ lạ đến khó hiểu này.

– Nếu hôm nay chú bận thì ngày mai cháu sẽ quay lại. Chú suy nghĩ kỹ đi ạ. Sẽ không ai phù hợp hơn cháu để nghe chú kể về bức tranh đâu ạ.

Thuyên vừa dứt câu thì cô với tay lấy chiếc túi đi ra cửa, rời khỏi căn phòng sóng sánh màu vàng. Ánh sáng ngoài Trời trong trẻo toả ngập vào mắt cô một sắc màu tươi sáng dễ chịu. Cô dụi mắt rồi quay trở lại bến xe buýt, chờ bắt được chiếc xe để trở về phòng trọ. Trong lòng Thuyên vẫn ngổn ngang cảm giác tò mò, ấm ức trộn lẫn vào nhau, tạo thành một dòng suy nghĩ đối lưu hỗn độn.

*

8 giờ sáng ngày hôm sau, Thuyên đã có mặt ngay trước cánh cổng sắt cũ kỹ của căn nhà số 175/24.

Cô lại gõ cửa nhà gã hoạ sĩ nhưng trong đầu trống rỗng vì cô không đoán được gã có đồng ý mở cửa cho cô vào nhà gã một lần nữa hay không. Gần 60 giây trôi qua nghe dài dằn dặt, không tiếng động nào ra hiệu có chút hy vọng. Nhưng Thuyên sẽ không bao giờ bỏ cuộc, cô ghé sát vào cánh cửa, nhón chân lên, nhìn vào khe cửa hẹp, vẫn là thứ ánh sáng âm ấm sóng sánh màu vàng hắt ra từ bên trong căn phòng bừa bộn của gã hoạ sĩ khác người.

Thuyên lấy hết can đảm, định cất tiếng gọi thì nghe tiếng ken két quen thuộc rít vào tận thái dương, và cái đầu bù xù tóc lại thò ra ngoài. Lần này, gã không hỏi Thuyên câu gì mà chỉ để cửa rồi lẳng lặng đi vào bên trong.

Thuyên thở phào nhẹ nhõm, vậy là gã không để bụng, gã vẫn chấp nhận cho cô vào nhà gã lần nữa. Thuyên lẽo đẽo đi sau lưng gã, hoá ra gã cũng không quá cố chấp như cô đã nghĩ.

– Ngồi đi.

Gã chỉ vào cái ghế dựa cũ hôm qua, chỗ duy nhất để khách đến ngồi. Rồi gã lại loay hoay với cái bảng màu và mấy cây cọ đặc trưng của dân hoạ sĩ.

– Cháu cho chú cái này.

Thuyên lấy trong giỏ xách một cái túi nhỏ, đem lại đưa cho gã, gã nhìn cái túi giấy đẹp đẽ từ đứa con gái lạ hoắc đưa cho mình, mắt gã vẫn hoài nghi, chưa hiện lên điều gì thiện cảm.

– Ai kêu cô mua vậy?

– Cháu tặng cho chú thì sao phải chờ chú kêu.

– Nó sẽ không là lý do để tôi nói về bức tranh đâu, cô thông cảm và đem nó về đi.

Gã hoạ sĩ chẳng màng nhìn về phía Thuyên, vẫn cái giọng khàn đặc mùi khói thuốc, chậm rãi đầy bảo thủ.

– Dạ, nhưng cháu không tặng chú vì lý do đó nên chú cứ giữ.

Thuyên đặt chiếc túi giấy lên chiếc bàn gỗ. Rồi lặng lẽ ngồi xuống cạnh gã hoạ sĩ.

– Cô lên kia ngồi, đừng làm vướng tay tôi.

– Cảm phiền chú có thể ngưng tay một chút cho cháu hỏi không?!

– Cô hỏi đi.

– Cháu muốn hỏi chú một chút về bức tranh ở cạnh cầu thang. Bức tranh có vết sẹo.

– Tôi đã bảo cô đừng hỏi về bức tranh đó rồi mà. Cô không hiểu tôi nói gì à?

Gã hoạ sĩ cộc cằn quát lớn, từng lời nói phát ra trong cổ họng nghẽn đặc của hắn nghe như tiếng gầm gừ dồn nén từ tận cùng bức bách.

– Nhưng cháu muốn biết.

Thuyên bấu bàn tay nhỏ bé của cô vào cánh tay cứng cỏi của gã hoạ sĩ và nhìn gã bằng cái nhìn cương quyết, không nhượng bộ.

Gã đẩy tay Thuyên ra, mặt gã tỏ vẻ dửng dưng, rồi gã lại hí hoáy với chiếc cọ màu. Gã cũng chẳng thèm nhìn mặt Thuyên, thái độ gã như một kẻ bất cần, lạnh lùng và cố thủ đến vô phương.

Lần này Thuyên không chịu thua, cô dằn lấy tay gã làm gã đánh rơi chiếc cọ khỏi tay. Cô cất giọng đanh thép lẫn chút van lơn.

– Chú nhìn con đây, chú nhìn vào mắt con này.

Lúc này, gã dường như bị động và thất thủ trước sự mạnh mẽ đột ngột của cô gái, gã từ từ ngước mắt nhìn Thuyên, cặp mắt bị mớ tóc dài của gã che phủ, ánh mắt sòng sọc và ngờ vực đến đáng sợ.

– Chú Huân. Chú nhìn kỹ con đi. Con có giống bà Xoan, có giống người đàn bà trong bức tranh đó không?

Thuyên nhìn trừng trừng vào mặt người đàn ông, ánh mắt cô như muốn xoáy vào tận con ngươi đang căng lên từng tia máu trong lòng mắt của gã, và gã cũng vậy, đôi mắt gã không rời khỏi gương mặt của Thuyên, nhưng lần này không còn là ánh mắt lạnh lùng mỉa mai mà gương mặt gã trở nên méo mó, đuôi mắt gã co giật liên hồi, dường như thần kinh gã đang căng ra quá đỗi. Tay gã như mềm nhũn, nhão nhoét rồi bất chợt buông thõng vô hồn.

– Con là Thuyên, con gái của bà Xoan, nhà con cháy hết rồi, cháy trong đêm đó rồi! Mẹ con đã mất vì chết cháy, nhà con không còn gì cả, không còn gì cả!…

Thuyên nói đến đó rồi bỏ lửng giữa tiếng nấc nghẹn, cô đổ sụp đầu xuống tay gã hoạ sĩ.

– Một tấm ảnh thờ cho Mẹ, cũng không còn!…

Vai Thuyên run lên theo từng tiếng nấc, gã họa sĩ ngồi bất động như kẻ vô hồn, gã im lặng chẳng biết bao lâu, chỉ đến khi giọt nước mắt nóng hổi từ mặt cô gái rớt xuống tay gã mới làm gã giật mình tỉnh lại. Bất chợt, như nhớ ra điều gì, gã vội vã kéo tay áo Thuyên lên cao, lúc này, mắt gã trợn tròn, mồm gã há hốc khi thấy cái bớt màu nâu bên dưới khủy tay cô gái.

Gã lấy bàn tay gầy gò, lem luốc màu sơn vẽ nâng cằm cô gái lên, gã nhìn kỹ lại mặt cô lần nữa. Rồi miệng gã méo xệch. Cổ họng gã bật ra tiếng nấc khô khốc như những thanh gỗ mục bị bẻ đôi.

Gã run rẩy ôm Thuyên vào lòng bằng hai cánh tay dài ngoằng gầy guộc, gã khóc nhưng trong hốc mắt sâu hoắm, nước mắt gã đã khô cạn không còn rơi nổi. Tiếng khóc của gã lọt thỏm trong nỗi bất lực khổ sở như tiếng kêu rên đau đớn của con thú hoang mắc bẫy.

– Con ơi!…

Gã gục đầu vào vai Thuyên, cô ôm chặt lấy gã rồi bật khóc nức nở. Cô nắm lấy bàn tay dài gầy gò, lấm lem màu mực của gã rồi đưa tay vuốt gọn lại mái tóc rũ rượi luộm thuộm cho gã, trong nước mắt, tiếng nói Thuyên như đứt quãng.

– Con tìm Ba bao lâu rồi. Con chỉ sợ không tìm được Ba. Chỉ có Ba mới giúp con tìm thấy lại Mẹ mà thôi, Ba ơi!

Gã hoạ sĩ “thần kinh” lựng khựng vuốt lại mái tóc cho cô con gái nhỏ, mắt gã bỗng dưng mờ đục cay xè, đôi mắt gã thẩn thờ, khoé mắt gã vẫn co giật liên hồi và gương mặt gã vẫn chưa tan được cảm giác ngỡ ngàng, xúc động trong một ngày lạ lẫm.

*

Ký ức của 20 năm về trước như một chiếc băng tua ngược trong tâm trí người họa sĩ già, ngày hai vợ chồng ông chọn cuộc sống đường ai nấy đi, khi đó Thuyên chỉ vừa tròn 2 tuổi, con bé theo mẹ tha hương qua nhiều miền đất khách. Cuộc sống của người đàn bà nghèo trôi đi trong những tháng ngày cơ cực và bình lặng cho đến một hôm, khi đang nhóm bếp, ngôi nhà mái tranh không may bị một thanh củi đang cháy dở rơi xuống bó lá dừa mà mẹ Thuyên đặt bên dưới bếp lò, lửa nhen nhóm như một con quái vật đói khát vừa quơ được miếng mồi béo bở, chiếc lưỡi đỏ lòm liếm qua mớ lá dừa bén ngọt, không mấy chốc, ngọn lửa đã thiêu rụi căn nhà tranh tạm bợ, lửa bùng cháy dữ dội trong cơn gió mạnh cuối hè, bỏng rang một vùng đỏ rực.

Trong đêm oan nghiệt, bà Xoan và người mẹ già đã ra đi trong đám lửa ngùn ngụt khổng lồ. Khi đó, Thuyên đang ngồi chơi trên chiếc xe đẩy phía trước hàng ba, được người hàng xóm nhanh tay cứu kịp nên thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Sau đêm đó, gia đình Thuyên không còn ai nữa, mọi thứ trong nhà cũng bị thiêu rụi hoàn toàn trong bão lửa, những tấm ảnh về người đã mất cũng hóa hư không. Thuyên lớn lên trong ký ức lờ mờ về hình ảnh người mẹ quá cố của mình qua những lời mơ hồ kể lại.

Một thời gian sau, ông Huân mù mờ nghe được những thông tin ít ỏi về câu chuyện một gia đình tử nạn vì hỏa hoạn, họ kể với ông lúc cảnh sát cứu hỏa đến đem bà Xoan ra thì bà đã chết, lửa bén trên mặt bà một vết bỏng dài như vết cắt. Sau lần hỏa hoạn đó, Thuyên trở thành đứa trẻ không cha không mẹ, người hàng xóm cảm thương đã cưu mang nuôi nấng rồi sau đó không lâu, họ cũng chuyển nhà về nơi tỉnh lẻ xa xôi, biền biệt không còn tin tức. Mọi thông tin giữa ông Huân và Thuyên dường như mất hẳn. Trong nỗi đau đớn tột cùng, ông đã vẽ nên một bức tranh người phụ nữ với đôi mắt truyền thần và vết sẹo dài trên mặt, nỗi ám ảnh đó đeo mang khiến nét vẽ của ông cũng trở nên nặng nhọc, khó khăn, một bức ảnh chỉ có nửa gương mặt được phủ một mảnh khăn tang chứa đựng những điều bí ẩn nằm sâu trong lòng người đàn ông kỳ lạ, diện mạo ông cũng từ đó trở nên tiều tụy hẳn, cuộc sống, tâm tính ông cũng dần dần đổi khác đến nỗi quanh đây, người ta vẫn gọi ông là ông hoạ sĩ thần kinh, ông hoạ sĩ bất thường bởi bao nhiêu năm qua, ông chẳng giao du, tiếp xúc với hàng xóm láng giềng, thế giới của ông chỉ cô đọng, đặc quánh với cọ màu và giấy vẽ.

Nhiều năm trôi qua, bức tranh người phụ nữ nửa mặt với vết sẹo dài, phủ khăn trắng trong căn phòng vẽ, vẫn được ông Huân che chắn cẩn thận và đặt ở nơi góc khuất, cuối cầu thang, ít người qua lại nên khách mua tranh không thể nhận ra mà cũng không ai để ý.

Ngần ấy thời gian với một đời người, không nhiều mà cũng chẳng ít, cuộc sống của người hoạ sĩ “thần kinh” chẳng khác nào cánh cửa bị khoá trái, những tưởng mọi ký ức sẽ mãi mãi là quá khứ chìm sâu dưới lòng huyệt lạnh, cho đến một ngày, cô gái nhỏ tên Thuyên đã bước vào thế giới của ông, sau nhiều năm trời cô đi khắp nơi để tìm những người hoạ sĩ vẽ tranh truyền thần ở chốn Sài thành. Ngày gặp ông, lòng cô rối bời bởi cô cũng không dám chắc rằng người đàn ông có ngoại hình luộm thuộm kỳ dị này có phải là cha ruột mình không và rồi cô nhận ra mình đã không nhầm khi tấm vải trắng phủ trên bức tranh bất ngờ rơi xuống, để lộ đôi mắt đẹp đẽ u buồn nhìn về phía Thuyên hoài vọng như muốn nói, trong tiềm thức, một linh cảm mông lung thủ thỉ với cô rằng người trên bức tranh chính là người mẹ quá cố của mình và người đàn ông luộm thuộm tên Huân với biệt danh “gã họa sĩ thần kinh” không ai khác hơn là người cha mà cô hằng tìm kiếm.

Thuyên lấy tay lau vội những giọt nước mắt ướt đẫm trên gương mặt, bện vào mớ tóc, cô khẽ xoay người, nhìn về phía góc cầu thang, sau vạt tóc loà xoà, mắt Thuyên nhoè đi khi thấy bức tranh bí ẩn hiện lên vẻ đẹp mơ hồ phía sau mảnh vải trắng đang bay nhè nhẹ, trong căn phòng không có gió. Đôi mắt sâu thẳm nhìn về phía Thuyên và người hoạ sĩ già đang ngồi bệt dưới nền gạch cũ. Đôi mắt như đang cười, huyễn hoặc lẫn trong những ánh đèn màu khói…