… Lỗ lã không đáng kể. Đóng cửa tờ “Công Dân”, chúng tôi vui như Tết, bởi vì còn bao nhiêu tiền, chúng tôi đi hát sáng đêm. Thực ra, trong thời gian làm báo, anh em cũng chẳng ai có tiền tiêu xài, người nào cũng lo xoay sở riêng để chi tiêu trong gia đình. Riêng có Vũ Trọng Phụng bấn nhất, là vì anh chưa có vợ để buôn bán giúp đỡ, mà bà nội và mẹ lại già, không thể kiếm ra tiền. Vì thế Vũ Trọng Phụng không mấy tán thành nếp sống của chúng tôi lúc đó; nhiều khi anh em đi hát hay chè rượu, phiện phò thì anh ngồi uống nước, hút thuốc lào một mình và viết bài cho báo khác để kiếm thêm giúp bà, nuôi mẹ.

Cuốn “Dứt tình” và “Giông tố” của Thiên Hư Vũ Trọng Phụng viết trong thời kỳ này. Bây giờ đọc hai cuốn truyện ấy, có nhiều người tưởng là anh viết một hơi; thực ra, Vũ Trọng Phụng không bao giờ có thời giờ để viết quá mười trang giấy. Cứ gần đến ngày phải nộp bài cho “Hà Nội Báo” – tiểu thuyết “Giông tố” bắt đầu viết từng kỳ trên báo này – Vũ Trọng Phụng lại ngồi ì ra một đống, hút thuốc lào và hỏi ầm lên có ai biết kỳ trước “Giông tố” đã viết đến đoạn nào rồi không. Chẳng ai trả lời cả, bởi vì chẳng có ai đọc “Giông tố” hết.

Vũ Trọng Phụng chán đời hết sức, đành phải đi tìm “Hà Nội Báo” để đọc xem mình đã viết đến câu gì, bấy giờ mới phủ phục xuống giường như con voi viết tiếp, mắt hiếng hẳn đi mà lưỡi thì lè ra như lưỡi con thằn lằn, có khi vừa viết vừa chửi thề sao mình lại khổ đến thế này, cứ phải viết mới có tiền sanh sống.

Bây giờ Phụng đã ra người thiên cổ; nhắc đến anh, người ta thường kể lại một câu nói của anh: “Nếu mỗi ngày tôi có một miếng bít tết để ăn thì đâu có phải chết non như thế này”.

Câu nói ấy, chính Phụng đã thổ lộ với tôi trên giường bịnh. Phụng và tôi là bạn học từ lớp Dự bị trường Hàng Vôi. Ở trường này ra, tôi theo học Lycée Albert Sarraut, còn Phụng lúc được mười tám, mười chín tuổi đã phải đi làm thư ký cho nhà in IDEO, kiếm mỗi tháng mười hai đồng bạc để về nuôi bà và nuôi mẹ. Vì không đủ sống một phần, mà cũng vì thích viết văn, đọc báo phần khác, đến tối về nhà, anh viết truyện ngắn để bán cho tờ “Ngọ Báo” của Bùi Xuân Học và “Nông Công Thương” của ông Phạm Chân Hưng (thân phụ Phạm Huy Thông, tác giả cuốn thơ bất hủ “Tiếng địch sông Ô”). Những truyện ngắn đầu tay của Vũ Trọng Phụng là những truyện “bực thầy”. Bây giờ nhắc đến anh, ai cũng nhớ đến “Số đỏ”, “Giông tố”, “Trúng số độc đắc”, “Dứt tình”, hay những phóng sự như “Cạm bẫy người”, “Kỹ nghệ lấy Tây”, mà ít có ai nhớ rằng Vũ Trọng Phụng nổi tiếng một thời là vì những truyện ngắn như “Chống nạng lên đường”, “Cái răng vàng” và nhiều truyện khác nữa mà tôi không nhớ tên đề, trong đó có một truyện đăng báo “Nông Công Thương”, thuộc về loại hiện thực, tả một gia đình ở Hàng Bạc có mấy cô con gái đứng trong mành mành nhìn trai ở ngoài đường và tối đến lại tụ họp gẩy đàn “xừ, xang, xê, líu, cộng”.

Phụng có một cái tài đặc biệt là không hề biết đánh bạc là gì, mà tập phóng sự đầu tiên viết cho báo “Nhựt Tân”, anh dám đề cập đến vấn đề bạc bịp. Thực ra, anh cũng chưa hề quan sát một vụ “đánh bờ” bao giờ, nhưng anh viết như một người đánh bạc thông thạo nhất, đó là nhờ một người anh là ông Trưởng Tạo, cũng ở phố Hàng Bạc, nói chuyện lại để cho anh viết. Cũng thế, đọc truyện “Số đỏ”, ai cũng tưởng Phụng là một tay ăn chơi sành sỏi khét tiếng mà lại “đểu” là khác nữa, nhưng sự thật trái ngược hẳn: trong tất cả anh em quen biết, Phụng có lẽ là người “chân chỉ hạt bột” nhất, hiền lành nhất mà tương đối cũng là đạo đức nhất. Tiêu pha hay chơi bời gì, anh tính toán từng đồng xu, không phải là vì kẹo, nhưng chính vì anh phải đứng mũi chịu sào lo cho cả nhà, trong đó có một bà nội góa và một bà mẹ góa, đồng thời lo sao để dành dụm được ít tiền lấy vợ, hầu có con nối dõi.

Về sau này, Phụng mòn mỏi đi, một phần lớn cũng là vì thức đêm thức hôm để viết cho nhiều báo như “Tiểu thuyết thứ bảy”, “Tiểu thuyết thứ năm”, “Hà Nội tân văn”, lấy tiền, nhưng cuộc sống của anh ở bên ngoài đối với những người lạ, không có vẻ gì vất vả; trái lại, anh lại ra cái dáng nhàn nhã, ung dung là khác. Dù bận rộn viết lách đến mấy đi nữa, tuần nào anh cũng đọc hàng chục tờ báo Pháp để học thêm. Trong anh em, có thể nói anh là người hiểu rõ tinh thần của giọng văn “Canard Enchainé” nhất, mà anh cũng am hiểu nhất chánh trị ở nước Pháp và thế giới lúc bấy giờ.

Cũng trong tất cả anh em, Phụng là người có thứ tự, phàm có tài liệu gì, hay, lạ thì cất đi, cho nên vào lúc một tuần báo ở Huế đả kích anh viết văn khiêu dâm, anh đã lên tiếng trả lời rất vững, kèm nhiều chứng cớ và tài liệu rất “búa” làm cho một linh mục phải nhận là anh có lý… Phụng sống một cuộc đời kín đáo, khiêm nhường, coi việc gì cũng là thường và không bao giờ tỏ ra ngạc nhiên hay lo sợ quá trớn. Không có tiền thì không tiêu, anh không hỏi vay của ai bao giờ mà cũng ít phàn nàn với ai rằng mình khổ. Đó là một đức tính làm cho anh em kính nể, nhưng anh em thương Phụng nhất về điểm dù khổ đến thế nào, Phụng cũng thủy chung như nhứt với anh em, cứ mỗi khi có báo dù biết trước là viết không có tiền, không nhiều thì ít, thế nào Phụng cũng có bài cộng tác với anh em, và lâu lâu Phụng lại đi hát với chúng tôi, nhậu nhẹt như ai và quấy cũng như ai.

Bây giờ, ngồi kể lại cuộc đời nói láo, tôi thơ thẩn còn như trông thấy “những con ma” thân thiết đó, vào những đêm mưa phùn, nằm tròn chung quanh một khay đèn nói chuyện thắm thiết ân tình; tuy không tuyên bố ra lời, nhưng qua ánh mắt thì người nào như cũng tự thề với lòng là sinh tử có nhau.

Nhưng cuộc đời bao giờ đứng im một chỗ mãi, không thay đổi? Tiền hết, các buổi họp ở hồng lâu cũng không còn. Mỗi người đi một ngả: Nguyễn Triệu Luật đi dạy học; Vũ Liên chết; Nguyễn Như Hoàn cũng qua đời. Còn lại Phùng Bảo Thạch, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và tôi ngồi chờ một cái gì.

Chờ thì cái gì mà chẳng đến? Chúng tôi lại gặp Đinh Khắc Giao rủ nhau làm tờ “Tương Lai”, giám đốc chính trị là Hà Văn Bính, còn chủ bút là Phùng Bảo Thạch. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhận rằng Phùng Bảo Thạch là một nhà báo lão luyện, có nhiều sáng kiến và nhiều mánh lới, nhưng đó là một người bạn không may suốt cả một cuộc đời, nên về vật chất đã chẳng bằng ai, mà tiếng tăm về nghề báo thì hầu như không có mấy ai biết tới. Bây giờ chẳng biết ở bên kia Bến Hải, anh còn làm nghề báo nữa không? Riêng tôi biết, thì từ hiệp định Genève trở về trước, anh là một người khổ cực về nghề báo, tù tội về nghề báo, nhưng tuyệt nhiên tôi không hề nghe thấy anh ta oán một lời nào. Trái lại, trong những cuộc hội họp với anh em, anh lại ưa cười, ưa phá, và cũng là người đầu tiên bầy ra những trò vui nhộn để làm cho anh em quên lãng cuộc đời đầy nước mắt.

Để “giúp vui”, nhiều anh em bị đưa ra làm mục tiêu cho bọn chúng tôi đùa cợt. Đùa ít thì không sao, đáng tiếc là có nhiều khi anh em đùa dai quá, thành thử “nạn nhân” tức bực cáu bẳn, không ngại đưa ra những lời lỗ mãng để đáp lại.

Đó là trường hợp Vũ Liên bị chọc, tức quá không chịu nổi nữa, nửa đêm bỏ nhà báo đi về nhà quê, sau khi thóa mạ cả bọn chúng tôi là “quân mất dạy”. Nguyễn Triệu Luật cũng vậy, nắm tay đập xuống bàn bị thương, chảy máu, thề từ giờ “không thèm viết lách với bọn bay”. Riêng Ngô Tất Tố thì có khi bị Phùng Bảo Thạch và tôi chọc uất quá, tưởng như có thể thổ ra máu như Chu Công Cẩn. Thực tâm lúc nào tôi cũng kính phục Ngô Tất Tố về đức độ, về văn tài, học lực, như một bực đàn anh. Thành thực hơn nữa, tôi lại phải nói thêm rằng tôi rất bất bình khi thấy báo “Duy Tân” của Nguyễn Đình Thấu kêu đầu xứ Tố là Đồ Tố và cứ nhắc đi nhắc lại câu vè:

Anh Đồ ơi, đôi mắt anh không sáng, cũng không nhèm.
Suốt đời anh không biết ăn kem Bờ Hồ.

Nhưng không hiểu duyên nợ gì cứ buộc tôi phải chọc Ngô Tất Tố. Điển hình là vụ Ngô Tất Tố dạy tôi học chữ nho, và tôi dạy lại Ngô Tất Tố học chữ Tây.

Sau một mật ước với anh em, tôi làm ra bộ rất đứng đắn, một hôm, trịnh trọng bảo Ngô Tất Tố:

– “Bác Tố ạ, chúng ta làm báo đã lâu, nhưng thực ra chưa làm báo”.

Tố quắc mắt, hỏi tôi:

– Bác nói gì? Tại sao ta lại chưa làm báo?

– Là ý tôi muốn nói thế này, bác ạ. Bác viết báo vào hạng cừ, anh em đều nhận thế; nhưng dù sao bác cũng phải nhận rằng bác còn thiếu chữ Tây, mà tôi vào cái hạng đàn em, nhưng viết cũng gọi là khơ khớ, tôi lại thiếu hẳn cái chữ nho.

Thế rồi tôi bỏ lửng không nói nữa. Lát sau, Phùng Bảo Thạch mới bàn:

– Thì có khó gì đâu. Bác Tố và anh Bằng bổ túc lẫn cho nhau thì chu hết, cần gì phải băn khoăn.

Ngô Tất Tố hỏi bổ túc thế nào. Phùng Bảo Thạch đề nghị mỗi ngày hai người nên dành ra nửa tiếng đồng hồ để dạy lẫn nhau: Tố dạy Bằng chữ nho, còn Bằng dạy Tố tiếng Pháp. Anh em cho là phải.

Ngay hôm sau, tôi bắt đầu chương trình dạy tiếng Pháp và được bác Tố chăm chú học hỏi một cách thành kính. Tôi bắt đầu bằng một tràng lý luận:

– Tôi không hiểu chữ nho ra sao chứ cách cấu tạo chữ Pháp của họ tinh vi và thiết thực hết sức. Đại khái cây mía. Nó nói gì?

Thoạt đầu, nó giống cây tre, cây tre tiếng Pháp là [bambou]. Hít cây mía, có nước. Nước là eau. Vì thế cây mía tiếng Tây gọi là bambou hít ra lô.

Nghe được lắm. Bác Tố lẩm nhẩm đọc “bambou hít ra lô” là cây mía, cây mía là “bambou hít ra lô”… Mặt tôi vẫn nghiêm. Vẫn lý luận như trên, tôi dạy thêm:lanh nhanh là cái tàu điện, đanh đông là cái đỉnh đồng, lơ sơ vơ là anh sợ vợ, laboratoire là Lã Bố ra tòa.

Đến hai danh từ sau cùng, anh em và chính tôi thấy mặt bác Tố bơ vơ, không thể nín cười được nữa, bật ra một tràng cười khổng lồ làm rung động cả cửa kính và sàn gác. Tố biết mình bị lỡm, cầm cái gối ném vào mặt tôi và ngay lúc đó đứng dậy mặc cái áo the, chụp cái khăn vào đầu, lê đôi giầy Gia Định một cách thiểu não đến nhà Mai Lĩnh nằm nhai khối hận.

Từ hôm đó, Ngô Tất Tố kêu tôi là “đồ vô lại” và “gạt tôi sang hàng ngũ thành tích bất hảo”, không thèm nhìn mà cũng không thèm nói một câu. Phần tôi, tôi hối hận không để đâu cho hết và tự nguyền rủa mình sao lại có thể “đem một linh hồn ra đùa giỡn” một cách vô học, vô liêm sỉ đến như thế được.

Cả tòa soạn phải họp lại, cử một phái đoàn đưa tôi đến nhà xuất bản Mai Lĩnh để xin lỗi Ngô Tất Tố. Anh em bao giờ lại nỡ bỏ nhau: Ngô Tất Tố, rút cục, bằng lòng tha lỗi cho tôi. Vì thế, trong tờ “Tương Lai”, ba chữ Ngô Tất Tố và bút hiệu Ngô Công lại chịu cùng đứng chung với bút hiệu của chúng tôi để làm cho tờ “Tương Lai” thành một tờ tuần báo tranh đấu được người ta lưu ý.

Trích trong “Bốn mươi năm nói láo” của Vũ Bằng