Năm Minh Mạng thứ 21, mừng thọ Minh Mạng 50 tuổi, nhà vua sai Nguyễn Bá Nghi chấp bút viết vở tuồng “Quần tiên hiến thọ”, theo cấu tứ và hướng dẫn của Minh Mạng. Lễ mừng thọ tiến hành vào tiết tháng ba, tháng tư âm lịch, trời mưa dầm, các quan chức đầu tỉnh trong cả nước đều về kinh chúc thọ nhà vua. Vương Hữu Quang thuộc diện quan chức cao cấp ở tỉnh Bình Phú, được cư ứng tế cầu tạnh mưa để cho lễ chúc thọ nhà vua tiến hành tốt đẹp. Cầu mãi mưa không tạnh, sức khỏe nhà vua không tốt nên Vương Hữu Quang kết luận: do nhà vua làm vở tuồng “Quần tiên hiến thọ”, động chạm đến thần linh, trời đất khiến cho trời và thần linh quở phạt, cầu tạnh mà mưa không tạnh, chúc thọ mà người không thọ.

Vua Minh Mạng

Chuyện đến tai Minh Mạng, vua liên tiếp ra năm chỉ dụ:

Dụ thứ nhất, ngày 11 tháng 3 năm Minh Mạng thứ 21: “Theo lời tâu của Vương Hữu Quang cùng chỉ dụ của trẫm tưởng đình thần đều đã rõ. Nay nên xử nhẹ hoặc tha, giao thần đình hội đồng với quan viên các tỉnh có mặt ở kinh nghĩ xử rồi tâu lên cho sáng lẽ công luận”.

Dụ thứ hai (tóm tắt nội dung): Đình nghị xử lưu, xử trảm Vương Hữu Quang là đáng tội. Không thể để y còn mang đai đội mão ra vào. Hạ lệnh cách chức, hạ ngục.

Dụ thứ 3, ngày 8 tháng 3 năm Minh Mạng thứ 21: “Vương Hữu Quang cầu tạnh mưa không linh ứng lại đổ lỗi cho trẫm. Thấy người trẫm không khỏe dám ngỏ lời bất đạo rằng trẫm đắc tội với trời đất, thần linh. Sao ăn nói bậy bạ vậy? Vả chăng vở tuồng “Quần tiên hiến tho” là do tên thuộc viên nội các Nguyễn Bá Nghi viết, trong đó trẫm có chỉ bảo đôi điều, có gì mà khinh lờn thần linh, động chạm trời đất, tai nghe dựng đứng tóc gáy. Lúc truyền cho Vương Hữu Quang phúc tấu thì y cũng nhận lời chịu tội. Các đại thần trong triều ngoài quận đều yêu cầu cách chức trị tội mà lòng trẫm chưa nỡ. Đến khi giao cho đình thần hội đồng với đốc, phủ, bố, án các tỉnh nghị xử trảm, xử lưu. Riêng Phan Thanh Giản trong hai tập tấu của Viện Cơ mật không chịu ký, Bùi Ngọc Quy cũng chưa ký, Nguyễn Công Trứ và Doãn Uẩn (từng làm án sát tỉnh Vĩnh Long) trong tập tấu của đình thần thì có ký, nay các ngươi lại cùng nhau làm bản tấu riêng xin xử nhe (giáng hai cấp lưu). Sao trước sau dụng tâm gian xảo đến thế?”

Vậy truyền cho Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ, Bùi Ngọc Quỵ, Doãn Uẩn đều phải tấu riêng thật rõ ràng, sẽ xuống chỉ sau”

Sau khi bốn đương sự đều tâu lại “rõ ràng”, ông nào cũng nói rằng: “Do vì sự dại dột nhất thời, kiến thức hẹp hòi chứ không có lòng bè phái” thì ngày 13 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 21 nhà vua ra chỉ dụ thứ tư, có đoạn: “Nay xét đã không phải là bè phái thì cũng nguyên tình được. Nhưng ở đây cũng cần phân biệt: Phan Thanh Giản và Vương Hữu Quang là người Nam Kỳ, quen biết nhau đã lâu không khỏi vị tình, nên giáng một cấp, điều dụng đi nơi khác, Nguyễn Công Trứ, Doãn Uẩn, Bùi Ngọc Quỵ bất quá chỉ là phụ họa theo mà thôi, ba người ấy đều giáng một cấp lưu…”

Dụ thứ năm, ngày 29 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 21: “Vương Hữu Quang phạm tội dù trăm miệng cũng không chối cãi được. Các quan đều nghị xử tử, xử lưu là đáng tội rồi. Nhưng nghĩ lại vì một lời nói sai mà xử đến tội nặng đối với người dân thần, lòng trẫm có chỗ bất nhẫn. Vả lại Vương Hữu Quang làm việc coi cũng được, duy tính khí điên rồ nóng nẩy, không suy nghĩ kỹ đến nỗi mang tội. Qua giam cầm lần này có thể nhân đó mà thành tài, sau này còn dùng được. Hơn nữa năm nay là năm khánh điển, không một tên dân nào mà không được gội ơn nước, phương chi y cũng là một quan to. Vậy đối với Vương Hưu Quang gia ân cải án giáng cấp cho làm tư vụ Bộ Công để đới công chuộc tội”.

Năm chỉ dụ trên là toàn bộ hồ sơ vụ án. Thực ra lời phê bình cua Vương Hữu Quang đối với vở tuồng “Quần tiên hiến thọ” chẳng qua là lời nói vụng trộm, tại sao lọt được đến tai Minh Mạng khiến vua phải “dựng tóc gáy”? Nhất định có kẻ tọc mạch. Nhưng nếu như khi Minh Mạng chất vấn, Vương Hữu Quang chối phăng đi thì đã sao? Rõ ràng mạng lưới do thám của Minh Mạng khá dày đặc nên không tiện chối hoặc nếu chối thành ra hèn. Hành động ấy biểu hiện Vương Hữu Quang là người có dũng khí, chỉ một nhận xét thành một vụ án, suýt nữa ông phải bỏ mạng.

Vụ án còn gây cho bốn người nữa vô cớ phải mang vạ, Phan Thanh Giản, Bùi Ngọc Quỵ sở dĩ can tội vì không đồng tình với việc luận tội của đa số đình thần và Nguyễn Công Trứ, Doãn Uẩn sở dĩ can tội vì thay đổi ý kiến. Người đời ít ai tin rằng hành động của bốn ông là “Dại dột nhất thời”, là “kiến thức hẹp hòi” như chính các ông thú nhận. Đám đình thần và trấn thần khác hùa nhau kết tội Vương Hữu Quang thật nặng nhằm làm đẹp lòng vua. Đó cũng là cơ hội để họ chứng tỏ rằng mình rất mực trung thành, phụng sự nhà vua .

Về phía Minh Mạng, bằng việc xem đi, xét lại vụ án qua năm chỉ dụ, kể cả thủ đoạn “Giơ cao đánh khẽ” cũng chỉ tỏ ra mình khách quan, độ lượng.

Vở tuồng “Quần tiên hiến thọ”, do Nguyễn Bá Nghi chấp bút giờ đây không ai biết tường tận nên cũng khó đánh giá lời phê bình của Vương Hữu Quang và lời thanh minh của Minh Mạng ai đúng, ai sai. Căn cứ vào các chỉ dụ của Minh Mạng mà tưởng tượng ra: một bầy tiên từ tiên giới bay đến, bưng những mâm đào đầy ắp dâng lên nhà vua (theo truyền thuyết thì giống đào này ăn vào sống đến ngàn năm). Ngay cuối năm ấy Minh Mạng chết. Lời nói của Vương Hữu Quang ứng nghiệm.

Là một viên quan cao cấp từ tỉnh ngoài về, chắc chắn Vương Hữu Quang đã được mời xem diễn tập hoặc “phúc khảo” vở tuồng trước khi hành lễ nên ông mới biết nội dung và phê bình “khinh lờn thần linh, động chạm đất trời”. Ông dũng cảm phê bình tác phẩm của vua, cam chịu tội. Chỉ có Nguyễn Bá Nghi là “khôn ngoan”, hợp tác sáng tác với Minh Mạng thì có viết dở đến mấy cũng được sử dụng, đố ai dám động chạm đến ông ta.

Tri Tâm


Nguồn tin: Tạp chí Nhật Lệ

Exit mobile version