Không một nơi nào trên thế giới mà thần chết không thể tìm được chúng ta – dù chúng ta có xoay đầu mọi phía để tránh né. Nếu có một cách nào để tránh được vố đánh của tử thần, thì tôi cũng không tránh làm gì… Nhưng thật điên rồ nếu nghĩ rằng bạn có thể thành công…

Con người đến rồi đi, tung tăng múa nhảy mà không hề đả động đến cái chết. Mọi sự đều êm xuôi tốt đẹp. Nhưng khi cái chết xảy đến – cho chính họ, vợ con bè bạn họ – trong lúc bất ngờ không chuẩn bị, thì ôi chao là họ đấm ngực khóc than, phẫn nộ, tuyệt vọng xiết bao!

Để khởi sự tước đoạt thế thượng phong của thần chết, chúng ta hãy áp dụng một đường lối hoàn toàn ngược lại với thế thường; ta hãy coi cái chết như pha không có gì lạ lùng cả, ta hãy thường lui tới với nó, quen thuộc với nó; ta hãy để tâm thường xuyên nghĩ tới cái chết hơn bất cứ cái gì khác… Ta không biết chừng nào thì cái chết chực sẵn để đón ta: Vậy ta hãy chực sẵn để đón nó ở khắp mọi nơi. Tập chết chính là tập giải thoát tự do. Một người biết cách làm thế nào để chết thì hết biết làm nô lệ.

MONTAIGNE

Tại sao thật quá khó để tập chết, tập giải thoát tự do? Tại sao ta lại sợ chết đến thế, và hoàn toàn tránh nhìn thẳng vào nó? Tận tâm khảm, đôi lúc ta cũng biết rằng ra không thể mãi mãi tránh đối mặt với nó. Milarepa nói rằng:

– Cái vật gọi là thây chết mà ta chúa sợ này, hiện đang sống với ta ở đây.

Càng chậm trễ đối diện với cái chết, ta càng xa lạ với nó, và nỗi sợ hãi bất an ám ảnh ta càng thêm lớn. Ta càng cố chạy trốn nỗi sợ hãi ấy, thì nỗi sợ hãi càng thêm ác liệt.

Chết là một huyền bí lớn rộng, nhưng có hai điều ta có thể nói về nó: Điều tuyệt đối chắc chắn là ta sẽ chết, và ta không chắc khi nào hoặc bằng cách nào ta sẽ chết. Vậy, sự bảo đảm duy nhất mà ta có được, đó là giờ chết bất định, và ta bám lấy nó làm cái cớ để khỏi trực tiếp giáp mặt cái chết. Chúng ta như những đứa trẻ tự bịt mắt mình trong trò chơi trốn bắt và tưởng không ai thấy được chúng.

Tại sao ta lại sống trong nỗi kinh sợ cái chết đến thế? Bởi vì ước muốn theo bản năng của ta là được sống và tiếp tục sống. Chết là một chấm dứt tàn bạo của mọi sự mà ta xem là quen thuộc. Ta cảm thấy khi cái chết đến, ta sẽ rơi vào một cái gì hoàn toàn xa lạ, hoặc trở thành một người nào hoàn toàn khác hẳn. Ta tưởng mình sẽ lạc lõng chơi vơi giữa một khung cảnh lạ lùng kinh khủng. Ta tưởng nó sẽ như lúc ta thức dậy một mình ở nơi xứ lạ, hoàn toàn xao xuyến lo âu vì không biết ngôn ngữ, không biết đấy là đâu, không tiền, không có giấy thông hành, không bè bạn…

Có lẽ lý do sâu xa nhất tại sao ta sợ chết, là vì ta không biết ta là ai. Ta tin tưởng vào một cái thể riêng biệt, tách rời, độc nhất vô nhị; song nếu dám xét kỹ nó, ta sẽ thấy cá thể ấy hoàn toàn tùy thuộc vào một tập hợp bất tận gần đủ thứ để phát sinh ra nó: Tên họ ta, “tiểu sử” ta, vợ hay chồng, gia đình, tổ ấm, công việc, bè bạn, phiếu nợ… Chính trên những chống đỡ mong manh tạm bợ ấy, ta đã nương tựa để có được an ninh bảo đảm. Cho nên khi những thứ ấy đều bị tước khỏi ta, thì ta còn có ý niệm gì về cái tôi thực sự là ai không?

Nếu không có những cây chống quen thuộc của ta, thì ta bị đối diện với chính mình, một con người ta không quen biết, một kẻ lạ gây rối luôn luôn sống chung với ta mà ta không bao giờ thực sự muốn giáp mặt. Có phải đó là lý do ta cố lấp đầy mọi giờ phút bằng hoạt động náo nhiệt, dù tầm thường đáng chán cách mấy cũng xong, miễn là khỏi phải bao giờ bị bỏ lại một mình trong im lặng với kẻ lạ ấy.

Và phải chăng điều ấy chứng tỏ có một cái gì thật bi đát trong lối sống của ta? Chúng ta sống dưới một lý lịch được gán cho mình, trong một thế giới ảo hóa không có thực tính gì hơn Con Rùa Giả trong truyện Cuộc phiêu lưu của Alice. Bị mê hoặc bởi lòng ham thích xây dựng, chúng ta đã xây những ngôi nhà cuộc đời mình ở trên cát. Thế giới này có vẻ chắc ăn một cách kỳ tuyệt cho đến lúc thần chết giật sập ảo tưởng và đuổi ta ra khỏi chỗ nấp. Vậy cái gì sẽ xảy đến cho ta nếu ta không có một cái mốc nào của thực tại sâu xa hơn, để bám víu?

Khi chết ta phải để lại tất cả sau lưng mình, nhất là thân xác, cái thân xác ta đã nâng niu yêu quý biết bao, đã nương tựa vào nó một cách mù quáng và cố gắng tối đa để làm cho nó sống. Nhưng tâm ta cũng không khá gì hơn thân xác để làm điểm tựa: Thử nhìn vào tâm bạn ít phút mà xem. Bạn sẽ thấy nó như một con rận luôn luôn nhảy qua nhảy lại. Bạn sẽ thấy những ý tưởng khởi nên một cách vô lối, không mạch lạc gì cả. Bị cuốn theo chiều gió bởi sự huyên náo trong mọi lúc, chúng ta chính là nạn nhân của sự bốc đồng của tâm ta. Nếu đây là cái trạng thái duy nhất của tâm mà chúng ta quen thuộc, thì sự nương tựa vào cái tâm ấy trong lúc chết quả là một canh bạc quái gở.

ẢO TƯỞNG LỚN

Sự ra đời của một người cũng là ra đời nỗi khổ của y. Càng già con người càng ngớ ngẩn, vì nỗi lo sợ cái chết không thể tránh càng thêm mãnh liệt. Thực cay đắng làm sao! Y sống để đuổi theo những gì luôn luôn ở ngoài tầm tay. Lòng khao khát sống còn trong tương lai làm cho y không thể sống trong hiện tại. 

TRANG TỬ

Sau khi thầy tôi chết, tôi được gần gũi Dudjom Rinpoche, một trong những thiền sư, hành giả mật giáo và Du già sư vĩ đại của thời cận đại. Một ngày khi thầy đang lái xe hơi xuyên nước Pháp cùng với vợ thầy, ngắm cảnh miền quê, họ đi ngang một khu nghĩa trang dài vừa mới sơn quét và trang trí hoa tươi. Bà vợ thầy nói:

– Rinpoche, ngài hãy xem mọi thứ ở Tây phương thật ngăn nắp sạch sẽ đến thế. Ngay tại những nơi người ta để thây chết cũng thật sạch không tì vết. Còn ở Đông phương mình, ngay nhà người ta ở cũng không đâu sạch bằng ở đây.

Thầy nói:

– Ồ! Đúng thế; đây quả thực là một xứ văn minh. Họ có những ngôi nhà đẹp đến thế cho những xác chết. Nhưng bà không để ý sao? Họ cũng có những ngôi nhà tuyệt diệu cho những xác sống nữa chứ.

Mỗi khi nhớ lại câu chuyện ấy, tôi không khỏi nghĩ rằng cuộc đời thực trống rỗng vô vị làm sao, khi nó được căn cứ vào một niềm tin sai lạc về trường cửu và tương tục. Khi sống kiểu ấy thì chúng ta đã vô tình tự biến thành những cái xác sống, như thầy Dudjom Rinpoche đã nói.

Nhưng đấy là kiểu sống của phần đông chúng ta; chúng ta sống theo một kế hoạch đã định. Nhỏ thì được giáo dục. Lớn lên kiếm việc làm, rồi gặp một người nào đó, rồi kết hôn, rồi có con cái. Chúng ta mua một cái nhà, rán cho làm ăn trúng mánh, mơ ước có một ngôi nhà ở miền quê hoặc thêm được một chiếc xe hơn. Vào dịp nghỉ thì đi du lịch xa cùng với bạn bè. Chúng ta dự định kế hoạch cho lúc về hưu. Những vấn đề trọng đại nhất mà một vài người trong chúng ta từng gặp phải chỉ là: Không biết nên đi chơi đâu vào kỳ nghĩ tới, hoặc nên mời ai vào dịp lễ Giáng sinh. Cuộc đời ta thật đơn điệu, tầm thường, lặp đi lặp lại; ta phí cả một đời để theo đuổi những chuyện nhỏ nhen, bởi vì dường như ta không biết có cái gì hơn thế.

Nhịp điệu đời sống chúng ta rộn ràng tới nỗi ta không có thì giờ để nghĩ đến cái chết. Ta ém nhẹm những nỗi sợ hãi thầm kín của ta về vô thường bằng cách bao vây quanh mình thêm nhiều đồ đạc, của cải, tiện nghi, chỉ để tự thấy mình biến thành tên nô lệ cho chúng. Mọi thời giờ và năng lực của ta đều kiệt quệ chỉ vì phải bảo trì những thứ ấy. Chẳng bao lâu mục đích duy nhất của ta trên đời hóa ra chỉ là giữ cho mọi thứ ta sở hữu càng được bảo đảm an ninh càng tốt. Khi có biến chuyển gì xảy đến, ta tìm cách đối phó mau lẹ nhất, một giải pháp hiệu nghiệm tạm thời. Cứ thế đời ta tiếp tục trôi giạt cho đến khi một cơn trọng bệnh hay tai nạn nào đó lay ta ra khỏi cơn mê.

Cũng không hẳn là ta dành nhiều thì giờ hay suy nghĩ cho cuộc đời này. Hãy nghĩ đến những người đã làm việc bao nhiêu năm rồi phải hồi hưu, để thấy không biết mình phải làm gì cả, vì họ càng ngày càng già và tiến gần cái chết. Mặc dù ta luôn luôn hô hào phải thực tế, thực tế ở Tây phương có nghĩa là thiển cận một cách vô minh và thường ích kỷ. Sự tập trung thiển cận của chúng ta vào đời này và chỉ đời này mà thôi, chính là một ảo tưởng lớn, nguồn gốc của nền duy vật đen tối và phá hoại của thế giới ngày nay. Không ai bàn tới sự chết và đời sau, vì người ta có thói tin rằng chuyện ấy chỉ làm đình trệ cái gọi là “sự tiến bộ” của ta trên thế giới.

Nhưng nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống, thì tại sao ta lại cả quyết một cách mù quáng rằng chết là hết chứ? Ít nhất cũng nên thử thám hiểm xem có thể có đời sau hay không đã chứ? Nếu quả thực chúng ta có óc thực nghiệm như ta tuyên bố, thì tại sao ta không khởi sự tự đặt câu hỏi cho mình một cách nghiêm chỉnh: “Tương lai thực sự của ta nằm ở đâu?” Chung quy, chẳng có mấy ai sống lâu trên trăm tuổi. Và sau thời gian đó là cả một thời gian vô tận trải dài, không được giải thích…

SỰ LƯỜI BIẾNG NĂNG ĐỘNG

Có một câu chuyện cổ Tây Tạng mà tôi rất thích, gọi là “Cha của Nổi-Tiếng-Như-Mặt-Trăng”:

Một người nghèo kiết xác sau khi làm lụng khá vất vả đã tích trữ được một bao lúa đầy. Anh ta lấy làm hãnh diện, treo bao lúa trên xà nhà để đề phòng chuột và kẻ trộm, rồi để chắc ăn hơn nữa, anh nằm ngay phía dưới. Khi nằm đấy anh bắt đầu suy nghĩ lan man:

– Nếu đem bán lẻ số lúa này, mình sẽ lời to, lấy tiền ấy mua thêm và lại bán, cứ mua đi bán lại như thế chẳng bao lâu ta sẽ giàu, sẽ thành một người quan trọng trong làng xóm. Con gái theo nườm nượp. Ta sẽ cưới một cô thật đẹp, và chẳng bao lâu ta sẽ có một đứa con… Có lẽ là một thằng con trai. Ta sẽ đặt tên nó là gì nhỉ?

Nhìn quanh nhà, tia mắt anh gặp phải khung cửa sổ qua đó anh thấy ánh trăng đang lên. Anh nghĩ:

– Thật là điềm tốt! Ta đã tìm được một cái tên hay. Ta sẽ gọi thằng con đó là Nổi-Tiếng-Như-Mặt-Trăng…

Trong khi anh ta đang nghĩ vơ vẩn thì một con chuột đã trèo lên bao gạo, gặm đứt sợi dây. Vừa khi anh thốt mấy tiếng đặt tên đứa con, thì bao gạo trên xà nhà rớt trúng làm anh chết tức khắc. Dĩ nhiên là đứa con ấy không bao giờ được sinh ra.

Biết bao nhiêu người trong chúng ta, giống như anh chàng nọ, đã bị cuốn trôi bởi cái mà tôi đã gọi là “sự lười biếng năng động”? Dĩ nhiên có nhiều kiểu lười biếng khác nhau: Đông phương và Tây phương. Cái kiểu ở phương Đông là như kiểu thực hành thuần thục ở Ấn: Suốt ngày ngồi giữa trời không làm gì cả, tránh né mọi công việc hay hoạt động hữu ích, uống trà hết tách này tới tách khác, nghe nhạc vang lên từ một chiếc máy thu thanh và tán gẫu với bạn bè. Kiểu lười Tây phương thì khác hẳn: Độn đầy cuộc sống bằng những hoạt động hấp dẫn, sao cho không còn một chút thì giờ nào để đối phó với những vấn đề then chốt.

Nếu nhìn vào cuộc đời mình ta sẽ thấy biết bao nhiêu công việc không quan trọng, những cái gọi là “trách nhiệm” cứ dồn dập độn đầy cuộc đời ta. Ta tự nhủ là muốn dùng thì giờ vào những chuyện quan trọng trong đời, nhưng không bao giờ có thì giờ ấy cả. Thức dậy buổi sáng là đã có bao nhiêu việc: Mở cửa sổ, làm giường, tắm, chà răng, cho chó mèo ăn, giặt đồ, khám phá đã hết cà phê hoặc đường, đi mua, làm thức ăn sáng – cả một dọc dài bất tận. Rồi lại có áo quần phải lựa ra mà ủi và xếp. Rồi còn tóc tai, trang điểm nữa thì sao? Không còn biết sao hơn, chúng ta nhìn ngày tháng đầy những cú điện thoại và chương trình, và bao nhiêu trách nhiệm – hay ta nên gọi là “vô trách nhiệm”?

Cuộc đời ta dường như xâm chiếm lấy ta, như có một tối hậu thư oái ăm của nó, lôi tuốt chúng ta đi, để cuối cùng ta cảm thấy mình không có quyền kiểm soát nó nữa. Dĩ nhiên thỉnh thoảng ta cũng cảm thấy khó chịu về điều này, ta chiêm bao ác mộng và thức dậy mồ hôi ướt đẫm, tự hỏi: “Ta đã làm chi đời ta?” Nhưng nỗi kinh hoàng của ta chỉ kéo dài tới bữa ăn sáng, rồi đâu vẫn hoàn đấy.

Tôi nghĩ đến lời một bậc thánh Ấn Độ, Ramakrishna, đã nói với môn đệ:

– Nếu các anh chỉ dùng một phần mười thời gian anh dành cho những môn giải trí như săn đuổi phụ nữ và làm tiền, để mà tu luyện, thì chỉ trong vòng vài năm có thể giác ngộ.

Có một bậc thầy Tây Tạng sống vào khoảng đầu thế kỷ, một Leonardo da Vinci của Hy Mã Lạp Sơn, tên là Mipham. Tương truyền ông ta đã sáng chế một cái đồng hồ treo, một khẩu đại bác, và một chiếc phi cơ. Nhưng mỗi khi làm xong một thứ, ông lại phá hủy ngay, bảo rằng nó chỉ tổ gây thêm trò giải trí.

Tạng ngữ chỉ thân xác là lu, có nghĩa “một cái gì ta để lại sau lưng” như hành lý. Mỗi khi nói lu, ta nhớ rằng ta chỉ là những lữ khách tạm thời cư trú trong đời này và thân xác này. Bởi thế ở Tây Tạng người ta không xao lãng thì giờ vào việc làm cho hoàn cảnh sống thêm tiện nghi. Người Tây Tạng cảm thấy hài lòng nếu có đủ ăn, mặc và một mái nhà trên đầu. Nếu cứ tiếp tục như chúng ta – nghĩa là cố cải thiện hoàn cảnh sống, thì dần dần công việc ấy tự nó trở thành mục đích chính, và đó là một xao lãng vô lối. Có người nào tâm trí tỉnh táo mà lại cẩn thận trang hoàng cái phòng khách sạn của mình mỗi khi thuê mướn không? Tôi thích lời khuyên này của Patrul Rinpoche:

Hãy nhớ noi gương chị bò cái già

Nàng hài lòng ngủ trong vựa lúa.

Bạn phải ăn, ngủ và bài tiết.

Đó là điều không thể tránh.

Ngoài ra, không việc gì đến bạn.

Đôi khi tôi có ý nghĩ rằng thành tựu vĩ đại nhất của nền văn hóa tân tiến chính là nó bán Samsara (sinh tử, luân hồi) một cách xuất sắc và có những lối giải trí trống rỗng. Xã hội ngày nay đối với tôi dường như là cuộc lễ mừng tất cả mọi thứ gì dẫn ta đi xa sự thật, làm cho người ta khó mà sống vì chân lý, và nó lại còn không muốn cho người ta tin rằng có chân lý hiện hữu. Và tất cả điều này thoát thai từ một nền văn minh tự cho là tôn thờ sự sống, nhưng kỳ thực đã tước hết ý nghĩa đích thực của cuộc đời; một nền văn minh luôn luôn nói làm cho người ta “hạnh phúc,” mà kỳ thực đã làm bế tắc con đường dẫn đến suối nguồn của hạnh phúc chân thực.

Samsara tân tiến được tổ chức tinh vi, thông bác, nó tấn công ta từ mọi góc cạnh bằng tuyên truyền, và gây một môi trường nghiện ngập khó gỡ xung quanh ta. Càng cố thoát, ta dường như càng vướng sâu vào cạm bẫy tinh vi nó đặt ra cho chúng ta. Bậc thầy Jikmè Lingpa vào thế kỷ 18 nói:

– Chỉ vì bị cách tưởng sai biệt làm cho mê hoặc mà hữu tình lang thang bất tận, trong vòng lẩn quẩn của sinh tử.

Bị ám bởi những hy vọng sai lầm, mộng mị, tham vọng, chúng ta như người đang bò qua một sa mạc bất tận, đang khát cháy cổ. Và cái duy nhất mà thế giới tân tiến này đưa ra cho ta uống là một cốc nước muối, chỉ cốt để làm cho ta thêm khá

ĐỐI MẶT CÁI CHẾT

Khi nhận thức điều ấy, có phải là ta nên nghe lời Gyalseé Rinpoche khi ngài nói:

– Dự tính tương lai cũng giống như đi câu trong một hố sâu không có nước;

Không bao giờ có gì xảy ra đúng như bạn muốn, vậy hãy bỏ hết mọi kế hoạch tham vọng của ngươi đi.

Khi bạn phải tính toán một việc gì.

Thì hãy xem nó không chắc như cái giờ chết mà bạn chưa biết chắc.

Với người Tây Tạng, lễ hội chính trong một năm là Năm Mới, như lễ Giáng sinh, Phục sinh, Tạ ơn, và sinh nhật của bạn, tất cả dồn vào một dịp lễ. Patrul Rinpoché là một bậc thầy vĩ đại mà cuộc đời đầy những biến cố lạ lùng có thể làm sống động nền giáo lý. Thay vì ăn tết và chúc mừng năm mới như mọi người, ngài lại khóc. Khi hỏi tại sao, ngài đáp rằng một năm nữa lại trôi qua, ai cũng tiến gần cái chết thêm một chút, nhưng nhiều người vẫn chưa chuẩn bị.

Hãy nghĩ đến cái gì có thể xảy đến cho tất cả chúng ta một ngày nào đó. Chúng ta đang tản bộ trên đường, đang suy nghĩ những chuyện làm ta phấn chấn, đang trầm tư về những vấn đề quan trọng, hoặc chỉ đang nghe máy thu thanh bỏ túi. Bỗng thình lình một chiếc xe hơi vút qua, suýt cán chết chúng ta.

Hãy bật truyền hình lên hay nhìn qua một tờ nhật báo: bạn sẽ thấy chết ở khắp mọi nơi. Những nạn nhân của những tai nạn phi cơ hoặc xe hơi ấy có bao giờ ngờ họ sẽ chết không? Họ xem sống là chuyện đương nhiên, cũng như chúng ta. Biết bao lần ta đã nghe những câu chuyện về người quen, bạn bè, chết bất thần, đột ngột? Ta không cần phải bệnh rồi mới chết, cơ thể ta có thể thình lình suy sụp, hỏng máy, hệt như chiếc xe hơi của ta. Hôm nay ta có thể đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau. Milarepa có khúc hát:

Khi đang khỏe mạnh

Bạn khồng hề nghĩ tới ốm đau

Nhưng bệnh tật thình lình giáng xuống

Nhanh như một tia chớp.

Khi bận những việc thế gian

Bạn không bao giờ nghĩ đến cái chết gần kề;

Nó đến nhanh như sấm sét

Bổ xuống đầu bạn.

Ta cần thỉnh thoảng tự dạy mình mà hỏi: “Nếu đêm nay ta chết thì thế nào?” Ta không biết ta có thức dậy sáng hôm sau không, thức dậy ở đâu. Nếu bạn thở ra mà không thể hít vào lại, thế là bạn đã chết. Đơn giản là vậy. Người Tây Tạng có câu: “Ngày mai hay đời sau, cái gì tới trước, ta không thể biết”.

Một vài bậc thầy nổi tiếng của Tây Tạng ban đêm mỗi khi đi ngủ, thường rửa ly tách úp bên cạnh giường. Họ không bao giờ chắc chắn mình có thức dậy để cần tới chúng sáng hôm sau. Họ tắt hết lửa, không buồn lưu lại đóm mồi cho sáng hôm sau. Từng sát na họ sống trong ý niệm có thể cái chết đang gần kề.

Cạnh am cốc của Jikmé Lingpa có một cái ao mà ông phải khó nhọc lắm mới vượt qua. Một số đệ tử xin xây một cái cầu, song ông bảo:

Xây làm gì? Ai biết được ta còn sống để ngủ tại đây đêm mai?

Nhiều bậc thầy cố cảnh tỉnh cho ta thấy rõ tính mong manh của đời sống bằng những hình ảnh mạnh hơn: Họ bảo mỗi người trong chúng ta hãy nghĩ như mình là một tên tù tội đang đi đến nơi hành quyết, như một con cá đang vùng vẫy trong lưới, như một con bò đang đợi vào nhà tế sinh.

Thân thể nằm dài trên giường lần cuối

Miệng thì thào những lời trăn trối

Tâm ngắm nhìn ký ức lần cuối diễn ra:

Bi kịch ấy khi nào sẽ đến với ngươi?

Điều quan trọng là ta phải tư duy một cách thản nhiên và thường xuyên rằng cái chết thực có, và nó sẽ tới mà không báo trước. Đừng để như con bồ câu trong ngạn ngữ Tây Tạng, suốt đêm lăng xăng soạn chỗ ngủ cho đến sáng, và nó không còn thì giờ để ngủ nữa. Như Drakpa Gyaltsen, một bậc thầy hiện đại, đã nói:

– Loài người trải qua suốt cả đời để chuẩn bị hết việc này tới việc khác chỉ để thình lình bắt gặp đời sau mà họ hoàn toàn không chuẩn bị.

XEM TRỌNG CUỘC ĐỜI

Có lẽ chỉ có những người hiểu được tính mong manh của đời sống mới biết được sự sống quý báu ngần nào. Một lần, khi tôi dự hội thảo ở Anh quốc, phóng viên đài BBC phỏng vấn những người tham dự. Đồng thời họ cũng nói chuyện với một người phụ nữ sắp chết. Bà ta vô cùng hãi sợ, vì bà chưa từng nghĩ cái chết là thực có. Bây giờ bà đã biết. Bà chỉ có một thông điệp duy nhất cho những người chết sau bà, đó là: Hãy xem trọng sự sống và cái chết.

Xem trọng cuộc đời không có nghĩa phải bỏ cả đời mà tĩnh tọa tư duy như thể là ta đang ở trên Núi Tuyết hay như vào những ngày xưa tại Tây Tạng. Trong thế giới tân tiến, ta phải làm việc và kiếm sống, nhưng không nên vướng vào kiểu sống “chụp giật” không nhìn thấy một ý nghĩa sâu xa nào của cuộc đời. Công việc của ta là tìm một thế quân bình, trung đạo, không quá dấn mình vào những hoạt động và bận bịu ngoại vi, mà càng ngày càng làm cho cuộc sống của ta trở thành đơn giản. Chìa khóa để tìm ra một thể quân bình hạnh phúc cho đời sống hiện nay là tính giản dị.

Đó là ý nghĩa đích thực của giới luật ở trong đạo Phật. Tạng ngữ gọi giới luật là Tsul trim. Tsul có nghĩa là thích hợp, chính xác, và trim có nghĩa là quy luật hay cách thức, con đường. Vậy giới luật là làm cái gì thích hợp hay chính xác; ở trong một thời đại quá phức tạp như hiện nay, thì đó chính là sống giản dị.

Chính từ đây mà ta có được sự an bình trong tâm. Ta sẽ có nhiều thì giờ hơn để theo đuổi sự nghiệp tâm linh và những hiểu biết có thể giúp chúng ta giáp mặt cái chết.

Buồn thay, đây là điều mà trong chúng ta ít có ai làm. Có lẽ bây giờ ta nên tự đặt cho mình câu hỏi:

– Thực sự ta đã làm được cái gì trong đời ta?

Tôi muốn nói là, ta đã thực sự hiểu được bao nhiêu về sống chết. Điều làm tôi lên tinh thần là sự xuất hiện những báo cáo về các nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, như những quyển sách của bạn tôi, anh Kenneth Ring và những người khác. Một số đáng kể những người sống sót qua tử nạn hoặc qua kinh nghiệm lúc suýt chết đều mô tả họ có một toàn cảnh cuộc đời họ diễn ra trong tâm trí vào lúc đó. Một cách sống động và chính xác, họ sống lại những biến cố quan trọng của đời họ. Đôi khi họ còn thấy sống lại những hậu quả hành động của họ đối với kẻ khác, và kinh quá những cảm xúc mà hành động họ đã gây nên. Một người đàn ông kể cho Kenneth Ring nghe:

– Tôi nhận ra rằng có những việc mà mỗi người được đưa xuống trần gian để học hỏi và thực chứng. Chẳng hạn để san sẻ thêm tình yêu thương, lân mẫn đối với nhau hơn. Để khám phá rằng điều quan trọng nhất là mối tương giao giữa người với người và lòng nhân ái chứ không phải là những thứ duy vật. Để thấy rằng mỗi một việc làm của bạn trong đời này đều được ghi lại, và mặc dù lúc đó bạn không nghĩ tới, nó vẫn xuất hiện lại về sau.

Đôi khi cuộn phim về cuộc đời xảy ra kèm theo một “thực thể ánh sáng” quang vinh. Điều nổi bật trong nhiều nhân chứng khác nhau là, sự gặp gỡ “thực thể” ấy chứng tỏ rằng mục đích thực sự duy nhất trong đời là “tập sống yêu thương kẻ khác và có được tri kiến”.

Một người kể với Raymond Moody:

– Khi ánh sáng xuất hiện, điều đầu tiên ngài nói với tôi là: “Con đã làm gì để chứng tỏ với ta là con đã sống trọn vẹn đời con?” hoặc một điều gì tương tự như thế… Tựu trung suốt buổi, ngài cứ nhấn mạnh về tầm quan trọng của yêu thương… Ngài dường như cũng rất quan tâm đến những việc liên hệ tới hiểu biết nữa…

Một người khác bảo với Kenneth Ring:

– Tôi được hỏi, mà không nghe thành lời – nó như một giao cảm tâm linh trực tiếp – rằng: “Tôi đã làm gì để đem lại lợi lạc hay tiến hóa cho loài người?”

Những hành động của ta lúc sống như thế nào, thì khi chết ta như thế ấy. Và tất cả mọi sự, tuyệt đối tất cả, đều đáng kể.

MÂY MÙA THU

Ở tu viện của ngài tại Népal, vị đệ tử già nhất hiện còn sống của thầy tôi là Dilgo Khientse Rinpoche, đã giảng dạy đến ngày cuối một khóa tu học. Ngài là một trong những bậc thầy nổi tiếng hiện nay, đã từng dạy cả đến đức Dalai Lama và nhiều bậc thầy khác, những người xem ngài như một kho tàng bất tận của trí tuệ và từ bi. Tất cả chúng tôi đều ngước lên mà chiêm ngưỡng con người vĩ đại như tuyết ấy, một bậc học giả, thi sĩ, và hành giả mật tông đã trải qua hai mươi lăm năm trong đời để nhập thất ẩn cư. Ngài dừng lại và đưa mắt nhìn xa xăm, dạy rằng:

– Tôi nay đã già bảy mươi tám tuổi, đã trông thấy quá nhiều việc trong đời. Bao nhiêu người trẻ tuổi đã chết, bao nhiêu người bằng tuổi đã chết, bao nhiêu người già đã chết. Nhiều người ở trên cao đã tụt xuống thấp. Nhiều người ở dưới thấp đã vượt lên cao. Nhiều xứ sở đã biến đổi. Đã có bao nhiêu biến động đau thương, bao nhiêu chiến tranh, tật dịch, bao nhiêu tàn phá trên khắp thế giới. Tuy thế tất cả những biến chuyển kia không thực gì hơn một giấc chiêm bao. Khi ta nhìn thật sâu xa, ta nhận ra rằng không có một cái gì trường cửu miên viễn, không một cái gì, cả đến sợi lông măng trên thân thể ta. Và đây không là một lý thuyết, mà là điều bạn có thể thực sự chứng nghiệm, thấy biết bằng chính mắt bạn. Tôi thường tự hỏi: “Tại sao mọi sự đều thay đổi?” Và chỉ một câu trả lời duy nhất trở lại với tôi: “Đấy là cuộc đời.” Không một thứ gì, tuyệt đối không thứ gì, có một tính chất trường cửu nào cả. Đức Phật dạy:

Hiện hữu của chúng ta mong manh như mây mùa thu

Cảnh sống chết như màn nhảy múa.

Đời người như chớp loáng qua bầu trời

Vút nhanh như thác trên núi cao đổ xuống.

Một trong những lý do chính khiến ta lấy làm khó khăn lo sợ khi đối mặt cái chết là vì ta tảng lờ sự thật về vô thường. Chúng ta cứ khăng khăng muốn mọi sự tiếp tục như cũ, đến nỗi ta tưởng rằng chúng vẫn luôn như vậy. Nhưng đấy chỉ là ảo tưởng. Chúng ta cũng thường thấy rằng lòng tin không ăn nhập gì với thực tại. Ảo tưởng ấy, cùng với những thông tin sai lạc, ý tưởng, giả thuyết, là một nền tảng bấp bênh trên đó ta xây dựng cuộc đời ta. Dù sự thật có xen vào chứng minh ngược lại, chúng ta vẫn cố bám giữ lấy ảo tưởng của ta.

Trong tâm trí ta, sự biến chuyển luôn đồng nghĩa với mất mát, đau khổ. Và khi nó xảy tới, ta cố tự “gây mê” cho mình càng nhiều càng hay. Ta cứ nghĩ một cách ươn ngạnh phi lý rằng sự trường cửu đem lại an ninh, còn vô thường thì không. Nhưng kỳ thực vô thường cũng như một vài người ta gặp trong đời, lúc đầu khó chịu nhưng khi đã quen biết lại rất thân thiện, không đáng bực mình như ta tưởng.

Hãy suy nghĩ về điều này: Sự thực chứng về vô thường, ngược đời thay, lại là cái duy nhất ta có thể nắm chắc, có lẽ đấy là sở hữu bền bỉ duy nhất của ta. Nó giống như bầu trời hay trái đất. Bất kể vạn vật chung quanh ta đều có thể sụp đổ, đổi thay bao nhiêu, trời đất vẫn tồn tại mãi. Chẳng hạn chúng ta có trải qua một cơn khủng hoảng đau đớn ê chề, toàn bộ cuộc đời ta dường như tan rã thành mảnh vụn… Chẳng hạn người bạn đời của ta đột ngột bỏ ta không báo trước. Nhưng trái đất vẫn còn đó, bầu trời còn đây. Dĩ nhiên, thỉnh thoảng ngay cả trái đất cũng chấn động, chỉ để mà nhắc cho ta nhớ đừng có chắc ăn bất cứ một việc gì…

Ngay cả đức Phật cũng chết. Cái chết của ngài là một cách giáo hóa, để gây chấn động nơi kẻ ngây ngô, biếng nhác, tự mãn, để đánh thức cho ta thấy sự thật là mọi sự đều vô thường, và cái chết là một sự kiện hiển nhiên của cuộc đời. Khi gần chết, đức Phật đã dạy:

– “Trong các dấu chân, dấu chân voi là lớn hơn cả. Trong các phép quán niệm xứ, thì niệm vô thường là hơn cả.”

(Kinh Đại bát Niềt Bàn)

Mỗi khi chúng ta đánh mất mục tiêu của mình, rơi vào lười biếng giải đãi, thì sự quán niệm vô thường và chết lay ta trở về sự thật:

Cái gì đã sinh ra sẽ chết

Cái gì đã tụ, sẽ tan

Cái gì có tích lũy sẽ cạn kiệt

Cái gì đã xây dựng sẽ sụp đổ

Và cái gì lên cao sẽ xuống thấp.

Toàn thể vũ trụ, theo các nhà khoa học hiện nay, chỉ là sự chuyển biến, hoạt động, tiến trình, một tổng thể biến thiên làm nền tảng cho mọi sự vật.

Mỗi tác động hỗ tương trong một hạt nhân nguyên tử gồm có sự hủy diệt và tái tạo những hạt nguyên tử (subatomic particles). Thế giới bên trong một nguyên tử là cuộc luân vũ liên tục của sinh và diệt, vật chất chuyển thành năng lượng và năng lượng thành vật chất. Những hình dạng phù du thoạt hiện thoạt mất tạo thành một thực thể bất tuyệt mãi mãi được tái tạo. (*)

Đời chúng ta là gì nếu không phải là cuộc luân vũ của những hình dạng phù du ấy? Há chẳng phải mọi sự luôn luôn thay đổi: Lá trên cành cây trong công viên, ánh sáng trong phòng bạn lúc đang xem sách này, những mùa, khí hậu, thời gian trong ngày, người qua lại trên đường. Còn bạn thì thế nào: Không phải mọi sự ta làm trong quá khứ bây giờ chỉ như một giấc mộng đó sao? Những bạn bè thuở bé, những chỗ ngày nhỏ ta thường lui tới, những quan niệm, ý tưởng mà có một thời ta đã say mê ấp ủ: Ta đã bỏ lại tất cả sau lưng. Bây giờ, trong giây phút này, bạn thấy sự đọc những trang sách này dường như rất thực. Nhưng rồi nó cũng chỉ còn là một ký ức.

Những tế bào trong cơ thể ta đang chết, những tế bào não ta đang tàn tạ, cả đến sự biểu hiện trên gương mặt ta cũng luôn thay đổi tùy theo tâm trạng ta. Cái mà ta gọi là tính tình của ta chỉ là một dòng tâm thức, không gì khác. Hôm nay ta cảm thấy thoải mái vì mọi sự tiến triển tốt đẹp, ngày mai ta cảm thấy ngược lại. Vậy thì cái cảm giác thoải mái đi đâu rồi? Những ảnh hưởng mới xâm chiếm lấy ta, mỗi khi hoàn cảnh thay đổi: Chúng ta đã vô thường, hoàn cảnh cũng vô thường, không một thứ gì chắc chắn bền bỉ ở bất cứ đâu, mà ta có thể chỉ ra.

Không gì khó tiên liệu hơn là những ý tưởng và tình cảm của ta: Bạn có bao giờ biết được bạn sẽ nghĩ gì, cảm thấy thế nào trong thời gian sắp tới không? Tâm ta quả thực trống rỗng, vô thường, phù du như một giấc mộng. Hãy nhìn một ý tưởng: Nó đến, ở và đi. Quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, và ngay cái ý nghĩ hiện tại khi ta cảm nhận nó, nó đã thành dĩ vãng.

– Điều duy nhất ta thực sự có được là cái bây giờ, là hiện tại.

Có đôi lúc, sau khi tôi giảng dạy những điều này, một người tiến lên bảo:

– Tất cả chuyện đó rõ ràng quá rồi. Tôi đã biết. Hãy giảng cho tôi nghe một điều gì mới lạ.

Tôi bảo họ:

– Bạn có bao giờ thực sự hiểu, thân chứng sự thật vô thường hay chưa? Bạn đã thâm nhập nó trong từng ý tưởng, hơi thở và động tác, đến nỗi cuộc đời bạn nhờ vậy mà được đổi mới hay chưa? Hãy tự hỏi bạn hai câu này: Tôi có nhớ vào mọi lúc, rằng tôi đang chết hay không, và mọi người mọi vật khác cũng đang chết, bởi thế đối xử với mọi chúng sinh với lòng bi mẫn trong mọi lúc? Sự hiểu biết về chết và vô thường nơi tôi có thực đã trở nên bén nhạy, cấp thiết đến độ tôi đang dành mọi giây phút còn lại của đời tôi để theo đuổi sự nghiệp giác ngộ? Nếu bạn có thể trả lời “Có” cho cả hai câu hỏi ấy, thì bạn mới thực sự đã hiểu ý vô thường.


– Theo Sogyal Rinpoche – Trích “Tạng thư sống, chết” –