04.11.2014-11:20

 

NVTPHCM- Đọc thơ Huệ Nguyên, không ai nghĩ rằng những ngôn ngữ đó được thể hiện từ một con người tật nguyền nhưng biết yêu cuộc sống, yêu vẻ đẹp thiên nhiên và yêu chính bản thân mình. Rồi như ông trời đã đền đáp lại cho anh, trong năm năm, Huệ Nguyên cho ra đời 3 tập thơ tình lãng mạn được nhiều bạn thơ đồng cảm và yêu thích…

 

Nhà thơ Huệ Nguyên đã vĩnh biệt cõi trần

 

21g đêm qua, ngày 3.11, bất ngờ nghệ sĩ Ngọc Sang nhắn tin vào máy tôi với giọng buồn rười rượi: “Huệ Nguyên đã vĩnh biệt trên thi đàn rồi”!…

 

Đọc tin, tôi bàng hoàng xúc động, thương tiếc cho một nhà thơ khuyết tật đã nửa đời người phải chịu nỗi khổ đau của đời sống tật nguyền. Tuy cơ thể mang khiếm khuyết bất hạnh đó nhưng tâm hồn Huệ Nguyên vẫn dạt dào cảm xúc thi ca, biết yêu vẻ đẹp dịu kỳ của ngôn ngữ. Anh đã sống và hy vọng vào tình yêu mãnh liệt, đẹp đẽ của nhân loại, tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu của chính bản thân mình. Rồi chính anh, bằng tình yêu đó đã đi qua, vượt lên trong nỗi bất hạnh của chính mình và sinh ra những đứa con tinh thần mà không dễ dàng gì ở một con người tật nguyền có được nếu như không có một thứ tình yêu mãnh liệt: Tình yêu ngôn ngữ thi ca.

 

Tôi buồn không chỉ cho một người bạn bất hạnh sớm phải ra đi mà còn thương tiếc cho một một đồng nghiệp, một bạn tri âm trên bước đường sáng tác. Có chút gì hụt hẫng, chênh vênh trong cuộc đời còn lại của tôi!

 

Nhớ có lần anh nói: “Anh Hiệu, cuộc đời này tuyệt đẹp nếu như tất cả chúng ta đều có hồn thơ và cùng đồng điệu, tri kỷ trong từng câu thơ mà chúng ta bất chợt rung cảm ngộ được. Ở đó, thứ tình yêu thiêng liêng duy nhất mà chúng ta có được chính là thứ tình yêu ngôn ngữ thi ca, dù nó xuất phát trong những con người bình thường, những con người lãng mạn hay cả trong những con người tàn tật như em. Tất cả là vẽ đẹp, một vẽ đẹp vi diệu mà tạo hóa ban cho chúng mình anh ạ!”.

 

Nhà thơ Huệ Nguyên tên thật là Nguyễn Văn Hợp, sinh năm 1986, tại huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình nhưng sống tại tỉnh Dăk Lăk. Cha anh là cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu và bị nhiễm chất độc màu da cam từ những năm vượt Trường Sơn vào chiến khu D để góp phần trong công cuộc giải phóng dân tộc. Chất độc da cam đã hành hạ ông trong suốt cuộc đời còn lại và di truyền sang anh. Ông mất vào năm ngoái vì căn bệnh ung thư phổi. Riêng anh, từ năm 7 tuổi đã bị di chứng chân teo, co quắp không thể tự đến trường nên phải nhờ người thân mỗi ngày cõng đến lớp. Năm Huệ Nguyên học lớp 11, gia đình gặp quá nhiều khó khăn khiến anh phải thôi học dở dang. Từ đó, Huệ Nguyên mua sách vở về nhà tự học.

 

Rồi “nàng thơ” đến với anh trong những tháng ngày cô đơn với căn nhà tranh ọp ẹp cùng những sách là sách ấy. Những vần thơ của Huệ Nguyên mộc mạc, chân tình, không nhiều mỹ ngữ trau chuốt nhưng cô đọng và giàu cảm xúc. Đọc thơ Huệ Nguyên, không ai nghĩ rằng những ngôn ngữ đó được thể hiện từ một con người tật nguyền nhưng biết yêu cuộc sống, yêu vẻ đẹp thiên nhiên và yêu chính bản thân mình. Rồi như ông trời đã đền đáp lại cho anh, trong năm năm, Huệ Nguyên cho ra đời 3 tập thơ tình lãng mạn được nhiều bạn thơ đồng cảm và yêu thích. Năm 2010, anh được kết nạp vào Hội VHNT tỉnh Dăk Lăk và anh cũng đã nhận được nhiều giải thưởng VHNT của tỉnh nhà.

 

Một đêm thơ của Huệ Nguyên

 

Tưởng rằng, tạo hóa hóa đã bù đắp phần nào cho số phận nghiệt ngã của Huệ Nguyên, nhưng không ngờ vào lúc 21g, ngày 3.11.2014, anh đã vĩnh viễn ra đi khi tuổi đời chưa tròn 28. Căn bệnh ung thư phổi di truyền từ cha đã ngăn bước Huệ Nguyên khi hồn thơ của anh còn đương phơi phới. Vậy là bao nhiêu hoài bảo, bao nhiêu ước mơ bé nhỏ của một người thanh niên tật nguyền đành phải gác lại. Tiếc thương anh, nhiều bạn bè đã đặt vé đến vùng cao nguyên xa xôi để tiễn đưa nhà thơ về miền đất lạnh. Là một đồng nghiệp, một tri âm, tôi viết những dòng này như một kỷ niệm, cũng là lời chia buồn tiễn anh về cõi vĩnh hằng.

 

Lần nữa, hãy đọc lại những vần thơ của Huệ Nguyên để mà rung cảm, sẻ chia.

 

 

Dự cảm ngày tháng 7

 

Những cơn mưa chạy qua ngày thay áo

chẳng giặt nổi vết buồn

mé lòng con ố mùa trăn trở

những con chữ chạm vào tháng bảy

run run cọng cỏ nguyện cầu!

 

Cố níu vào vạt áo thời gian

gói sắc hồng vội nhạt

nhưng chẳng thể cầm giọt ngày chợt tắt

chiều úa trên ngón tay không giữ nổi tuổi mình

 

Con phác họa một ngôi nhà rất đỗi bình thường

mẹ đeo kính xâu kim may áo

cha nhấp tách trà khề khà chuyện con thằng út bi bô tập nói

đến mắc cười

 

Bởi không thể vượt qua những hạn định cuộc đời

con thèm một giây ánh mắt cha ấm từng bước chân bầm vết ngã

những đọt buồn mọc đầy ngày tháng bảy

câu thơ con côi cút ngõ về!

 

(22/7/2013)

 

 

Nỗi buồn không tuổi

 

Amí gùi cái nghèo lên rẫy

vẹo xiêu ngày nắng

hạt bắp giấu vào lo toan

hát ru mùa vụ

ký họa bước chân chai nẻ sườn đồi

mơ những hạt mầm ngát xanh như giấc mơ con trẻ

 

Ama mắc tuổi mình lên nếp nhăn mẫu hệ

buốt lòng ngọn gió đi hoang

chiều cúi mặt khâm liệm cánh rừng già tức tưởi

những cánh cung ngủ mê trong lời khan huyền thoại

đường ong bay lạc phía kỉ niệm buồn

 

Sông trơ đáy trừng trừng xoáy hận

bầy dã thú soi bóng mình hóa thạch

Yang cạn khô nước mắt*

lầm lũi đi vào lời ru

 

Ai tạc nỗi ăn năn trong ánh mắt trẻ thơ

lấm láp những mùa bùn đất?

 

(28/10/2012)

_______

* Yang: Thần (Thần núi, thần sông…)

 

 

Trở giấc ngày tuổi dại

 

Vết sẹo ngã trâu gọi tôi băng qua cánh đồng tuổi dại

mùi cá nướng sém chiều

gai kí ức cào rách ngực

những quả trứng cò, trứng cuốc lặng im

 

Ngủ trong một góc tôi bãi sậy xanh um

đám trẻ trốn tìm quên đàn bò gặm ngày dở miệng

sào lúa chúng nhởn nha gặm hết

nhát roi cha quất lằn mông giờ vẫn đau

 

Thuở tắm truồng lấm cả tuổi thơ tôi

cáu bám vào thời gian chảy ngược

tôi chảy vào dòng sông dòng sông chảy vào tuổi nhớ

những con ốc con cua lội vào giấc mơ

 

Thời gian khép những cánh cửa hồn nhiên

sấp ngửa cuộc áo cơm mòn ngày chữ

những lâu đài tôi xây bằng viên gạch cám dỗ

bít cõi tôi lối về

 

Vết sẹo ngã trâu một ngày trở giấc

rủ rỉ thứ ngôn từ lặng câm

 

(22/2/2013)

 

 

Mòn ngày

 

Câu chữ ngủ mê trong vành nôi vô cảm

con ru ngày mòn rỗng

thứ ngôn từ lặng câm

 

Mẹ lội qua dòng ký ức con

lặng lẽ vết phèn lấm màu năm tháng

vệt bùn ruộng sâu bỗng thơm đến lạ

trổ nhánh mùa dậy hương

 

Cái nghèo vắt qua cơn sốt nửa đêm

tiếng rỉ rên sờn rách màu cổ tích

ngày lại trong hơn tiếng cười của mẹ

đồng chiều nhòa gió dáng già nua…

 

Con lật luống cày ngôn ngữ cằn khô

chẳng thể trồng nổi câu thơ trên mảnh vườn tuổi mẹ

ngày cứ mòn như con chữ

câm lặng từng nếp nhăn

 

(3/3/2013)

 

 

Mặc niệm rừng già

 

Chiều lầm lũi

đổ bóng lên nỗi buồn

Kơ nia bưng mặt khóc

miên man niềm cút côi

 

Mặc niệm rừng trong bao tử bầy quỷ đói

nỗi cô đơn dài như ngọn gió

chạy dọc thung sâu

vắt ngang những cánh rừng trơ trụi

bạc lời bazan

 

Prơtôx bỏ ngày đi hoang*

bầy hươu, nai ngủ quên bên suối khát

hồn voi theo làn khói

ôm vết thương đại ngàn

lang thang…

 

Trăm sắc hoa rừng quên mùa không nở

cánh Pơ lang nhức nhối giấc mơ nào

chiều đổ bóng lên vành tang

run run lời Kơ nia hấp hối

nhát búa thời gian găm vết sạn chai hồn người

 

(31/10/2012)

* Một loài chim ở Tây Nguyên

 

 

Mùa thơm những cánh tay gầy

 

Chiều vắt trên ngọn khoai nước

tiếng nhái gọi bầy gặm nắng

con chuồn ngô chở giấc mơ tôi thơm lựng cánh đồng…

rót mình vào những nhộn nhịp mùa màng

Tôi nghe giọt mồ hôi rụng từ gò má chị ngân nga hát ngày nắng rạm

những bông lúa vàng au uốn mình quấn những bàn tay gọi anh quảy mùa qua nhọc nhằn nông vụ

để cái cười tỏa hương

 

Mẹ lội ngang chiều đôi chân sờn rách vết bùn

gấu quần ống cao ống thấp

mùa ngát thơm từ đôi bàn tay chai sạm

còn thương lưỡi hái lưỡi liềm

 

Chiếc nón mê cha đội tuột vành

che ngang đời khốn khó

bóng già nua hắt lên từng gồi* lúa

cha gom những đói no oằn quang gánh quảy về…

 

(16/8/2013)

* Gồi: nắm lúa được gộp lại sau vài lần cắt

 

PHÙNG HIỆU