Nêu vấn đề phân biệt và xác lập quan hệ giữa thi pháp học với lí luận văn học trong thời đại ngày nay đối với một số người là việc làm có vẻ ngược đời. Bởi thời đại nay, theo một số quan niệm nào đó là thời đại “giải cấu trúc”, hoài nghi đại tự sự,  không còn chủ quan, khách quan, nội dung, hình thức, thời đại tháo tung mọi ranh giới, xoá nhoà mọi đường biên, thời đại của xuyên môn, liên ngành, liên văn bản. Bản thân ranh giới của văn học cũng thay đổi, tính văn học bị lung lay, đặc trưng văn học bị biến động, ranh giới của lí luận văn học, do đó cũng đang bị mở rộng, dịch chuyển. Có ý kiến nêu có thể không cần “lí luận văn học” nữa, chỉ cần “lí luận” (lí thuyết khoa học nhân văn) nói chung là đủ. Ấy vậy mà nêu vấn đề phân biệt nhằm tạo các ranh giới, phân môn biệt loại có vẻ như đi ngược trào lưu. Theo tôi hiểu hai hướng đó không hề mâu thuẫn nhau, bởi giải cấu trúc là môt lối tư duy mới, nhưng không có nghĩa là thủ tiêu cấu trúc mà chỉ là thay đổi quan niệm về cấu trúc. Nếu chỉ giản đơn là thủ tiêu cấu trúc thì sẽ thủ tiêu luôn Saussure, Jakobson, Lotman và bao nhiêu nhà cấu trúc chủ nghĩa khác nữa. Lúc đó thì sẽ không còn gì, không có cả văn hoá, bởi vì văn hoá suy cho cùng cũng là cấu trúc, là trật tự của con người để vượt qua cái hỗn độn, hỗn mang, là cái đối với con người là vô cấu trúc. Trong suốt quá trình văn hoá, con người không ngừng tạo ra cấu trúc rồi phá bỏ cấu trúc cũ, đổi thay cấu trúc, nói cách khác là giải cấu trúc và tái cấu trúc luôn song hành với nhau để thích ứng với quan niệm trật tự mới. Lí luận văn học, thi pháp học cũng như vậy.

2.Thực tế hiện nay trong nhiều công trình khoa học trên thế giới thuật ngữ thi pháp học và lí luận văn học đang có một quá trinh tách nhập rất phức tạp.  Sự phân biệt, xâm nhập ấy thể hiện ở mấy biểu hiện sau.

2.1.Từ nửa đầu thế kỉ XX, khi thi pháp học ở Nga đang phát triển rầm rộ, thì mốt số công trình của các học giả nổi tiếng có những cái nhan đề rất đáng chú ý. Ví dụ, sách của B. Tomashevski đặt tên: Lí luận văn học, Thi pháp học (1925 – 1931). Sách của viện sĩ V. Girmunski: Lí luận văn học, phong cách học, thi pháp học, (1977, tái bản). Sách của viện sĩ V. Vinogradov: Phong cách học, lí thuyết ngôn từ thi ca, thi pháp học (1963). Trong sách của Tomashevski thi pháp học lí thuyết, tức là lí luận văn học. Cuốn sách có ba chương: phong cách học, thi luật học và chủ đề học. Sách của Girmunski  là thi pháp học, thi pháp học lí thuyết và thi pháp học văn học. Sách của Vinogradov là lí thuyết. Với các nhan đề ấy người ta hiểu rằng, thi pháp học, lí luận văn học, phong cách học tuy có quan hệ mật thiết với nhau nhưng phân biệt nhau đến mức người ta không thể nhập chung chúng làm một, nhưng mặt khác cũng không tách bạch chúng. Theo quan niệm chung lúc ấy, lí luận văn học là các khái niệm, phạm trù về văn học, thi pháp là bộ phận lí luận văn học nghiên cứu phương thức cấu thành tác văn học, Tu từ học nghiên cứu phương thức cấu thành của tác phẩm ngôn từ phi nghệ thuật. Mặt khác người ta cũng chưa có ý hướng thống nhất chúng vào một bộ môn thống nhất hay duy nhất. Có thể là do ảnh hưởng của truyền thống phân biệt thi pháp học và tu từ học có từ thời cổ đại.

2.2. Sau năm 1931 cuốn sách Lí luận văn học . Thi pháp học của Tomashevski bị cấm, không tái bản lại, chấm dứt hướng nghiên cứu thi pháp học lí thuyết. Từ những năm 40 – 80 ở Liên Xô, các bộ lí luận văn học chỉ là lí luận văn học, không có vấn đề thi pháp học lí thuyết. Năm 1960 với bộ. Lí luận văn học – những vấn đề cơ bản dưới ánh sáng của quan điểm lịch sử,được coi là sự tái xuất của thi pháp học, nhưng chỉ ở dưới dạng lí thuyết – lịch sử. Do chỉ được phát triển lí luận văn học xã hội học, không được phát triển thi pháp học lí thuyết theo các hệ hình khác, ngoài xã hội học, ở Liên Xô đặc biệt phát triển thi pháp văn học (Thi pháp văn học Nga cổ của D. Likhachov, Thi pháp văn học Bidantin trung đại thượng kì của S. Averincev, Thi pháp chủ nghĩa lãng mạn của Ju. Mann, Những vấn đề thi pháp Dostoievskicủa M. Bakhtin, Thi pháp Pushkin của Sergei Bocharov, Thi pháp Gogol của Ju. Mann, Thi pháp Chekhov của A. Chudakov, Thi pháp của A. Zoshenco của Marieta Chudakova …) .Ở phương Tây thi pháp văn học cũng phát triển với nhiều hệ hình khác nhau như của G. Poule, Ch. Mauron, P. Guiraud, Spitzer, R. Barthes…

Sang nửa cuối thể kí XX ở Nga, Khrapchenco trong bài Thi pháp học, phong cách học, lí luận văn học đề nghị sáp nhập phong cách học (tu từ học) vào thi pháp học văn học, đồng thời phân biệt thi pháp học với lí luận văn học (1976). Một số tác giả khác như M. Poliakov (1975) hoà nhập tu từ học vào thi pháp học. M. Bakhtin trong sách Những vấn đề thi pháp của Đostoievski (1963) đã thống nhất tu từ học, phong cách học vào thi pháp học văn học, nghĩa là trong thi pháp học đã bao hàm hai môn khoa học kia.

Sau khi Liên Xô tan rã, các sách của Khalizev, Tamarchenco khôi phục vị trí của thi pháp học lí thuyết, xem thi pháp học lí thuyết là một nội dung của lí luận văn học, hoặc nội dung chính của lí luận văn học. Phần thi pháp học nằm trong sách lí luận văn học.

2.3. Đến cuối thế kỉ XX, ở Nga sau khi nhà nước Xô viết sụp đổ, khuynh hướng thi pháp lí thuyết nổi lên. Công trình của Tamarchenco, Khalizev, Tiupa xem thi pháp học là bộ phận của lí luận văn học. Trên thế giới với xu hướng tư tưởng hoài nghi đại tự sự, phá bỏ mọi giới hạn, nổi lên xu hướng đồng nhất thi pháp học với lí luận văn học làm một. Điều này thể hiện tập trung ở cuốn Lịch sử các thi pháp hoc của nhóm tác giả J. Bessiere, E. Kushner, R. Mortier, J. Weiberrger (Presses Universitaires France, 1997) và cuốn Từ điển thi pháp học toàn thế giới (1993), do Nhạc Đại Vân chủ biên. Ở Trung Quốc từ Thi học có nghĩa là cái học về thi ca (hoặc văn học) do đó nó bị đồng nhất hoàn toàn vào lí luận văn học. Trong các nghiên cứu của nhiều học giả Trung Quốc có thể nhìn thấy rất nhiều công trình mang tên thi pháp (thi học). Ví dụ: Thi học văn hoá, lí luận và thực tiễn, Thi học văn hoá, Thi pháp truyền thông, Thi pháp quá trình, Thi pháp siêu văn bản (hypertext), Thi pháp mơ hồ, Thi pháp hình tượng, Thi pháp giới tính, Nguyên lí thi pháp, Nghiên cứu so sánh thi pháp Trung Quốc và phương Tây, Thi pháp Đỗ Phủ  , Lí Bạch, …

3.Vấn đề đầu tiên là thử tìm cái logich nào đã dẫn đến những sự thay đổi đó? Chúng tôi xin nếu mấy nhận xét sau đây.

Thoạt đầu tiên, từ phương Tây xa xưa thi pháp học lí thuyết xuất hiện trong công trình của Aristote với hàm nghĩa mới, xác định so với thời cổ đại (xem T. A. Miller Aristote và văn học Hi Lạp cổ đại), nhưng bản thân tác giả không định nghĩa và người sau dựa vào tác phẩm mà giải thích khác nhau.  Từ cổ đại cho đến hết thời Phục Hưng nó được mở rộng và có lúc thu hẹp. Theo khảo chứng của R. Wellek trong sách Các khái niệm về phê bình văn học, đến thế kỉ XVII thuật ngữ thi pháp bị thuật ngữ phê bình văn học (ở Pháp) với nội hàm là nghiên cứu văn học lấn át. Đến thế kỉ XVIII ở Đức xuất hiện “nghiên cứu nghệ thuật”và nghiên cứu nghệ thuật lấn át thuật ngữ thi pháp học. Đến cuối thế kỉ XIX với phuơng pháp thực chứng, thì “nghiên cứu văn học” thực chứng thay thế thi pháp học. Rõ ràng thi pháp học do có nội hàm hẹp, đã bị lí luận văn học, có nội hàm rộng hơn là nghiên cứu văn học thay thế.

Đến cuối thế kỉ XIX thi pháp học tái xuất với công trình của A. Veselovski, khẳng định phạm vi nội dung riêng của mình. Cuốn sách của ông có ba chương: Thi pháp cốt truyện, Phép song hành, Tính ngữ, đều mang nội dung thi pháp học cổ xưa. Đầu thế kỉ XX cho đến nay, với sự mở rộng của các ngành nghiên cứu văn học, các khái niệm (bộ môn) thi pháp học, lí luận văn học, phê bình văn học, phong cách học, tu từ học tồn tại bên nhau ngoài nhau, chưa có sự sắp đặt vào vị trí của chúng trong khoa nghiên cứu văn học. Có bộ môn chỉ đặt ở ngữ học, có bộ môn đặt ở ngữ văn học.

3.1. Logích nào cho sự phân biệt của thi pháp học và lí luận văn học?

Bốn yếu tố của hoạt động văn học mà M. H. Abrrams nêu ra năm 1953 (văn học – thế giới-tác giả-người tiếp nhận) theo tôi là một logich để phân biệt vấn đề đang xét. Trong bốn yếu tố đó thì cấu trúc văn học là cơ sở, là đối tượng của thi pháp học (lí thuyết, lịch sử, văn học). Lí luận về sự tạo thành cấu trúc văn học trên mọi cấp độ là thi pháp học lí thuyết. Các bình diện khác như quan hệ văn học với thế giới, văn học với nhà văn, văn học với người đọc, văn học với xã hội… là vấn đề của lí luận văn học, không phải vấn đề thi pháp học. Chẳng hạn lí thuyết ba nhân tố (chủng tộc, địa lí, thời đại) của H. Taine, lí thuyết tiểu sử học của St. Beuve, lí thuyết phân tâm học S. Freud, K. Jung… là lí luận văn học. Chỉ khi đi vào giải quyết vấn đề của cấu trúc văn học thì lí luận ấy mới chuyển sang thi pháp học. Ví dụ, vấn đề cá tính sáng tạo là vấn đề lớn của lí luận văn học, nhưng khi cá tính ấy thể hiện vào cấu trúc văn học, thành phong cách cá nhân thì đó là vấn đề thi pháp. Cũng vậy, tiếp nhận văn học là lí luận văn học, nhưng sự tiếp nhận thể hiện trong cấu trúc mời gọi của tác phẩm văn học như quan niệm của W. Izer  lại là vấn đề thi pháp. Nhà mĩ học Nga V. F. Asmus đã nghiên cứu tiếp nhận văn học rất lâu, ông nói đến đọc như là lao động và sáng tạo thì đó là lí luận văn học, mĩ học, không phải thi pháp học.  Hiện tượng học thể hiện trong mĩ học và lí luận văn học qua ý kiến của Heidegger, nhưng khi R. Ingarden nêu cấu trúc hai chiều của tác phẩm văn học thì đó mới là vấn đề thi pháp học.  R. Jakobson là ngôn ngữ học, chỉ khi nghiên cứu của ông đề cập đến cấu trúc ngôn ngữ thơ, đề xuất tính văn học, lí thuyết thi pháp thơ của ông mới xuất hiện. Như vậy, các lí thuyết chỉ khi phát hiện các cấu trúc bên trong của văn học thì mới trở thành thi pháp (lí thuyết). Như vậy, không có lí do nào để đồng nhất thi pháp học vào với lí luận văn học. Thi pháp học lí thuyết là một bộ phận của lí luận văn học. Lí luận văn học rộng hơn thi pháp học. Theo tôi biết thì N. D. Tamarchenco trong Từ điển thi pháp học năm 2007 cũng có quan niệm này, nhưng để phân biệt hai môn đó, ông chỉ nêu ra ví dụ, chẳng hạn, phương pháp luận nghiên cứu văn học chỉ là lí luận văn học mà không thuộc thi pháp học lí thuyết, nhưng không nêu căn cứ.

Ngày nay lí luận văn học đang mở rộng, đặc biệt các lí thuyết xã hội, nhân văn đang có ý nghĩa rất lớn đối với đổi mới nghiên cứu văn học, lí luận văn học đang có xu hướng mở rộng biên giới, tiến gần tới lịch sử, xã hội, văn hoá, chính trị, giới tính, nữ quyền…, tình hình giống với thời điểm cuối thế kỉ XIX, nghĩa là cấu trúc văn học bị hoà tan trong các nghiên cứu văn hoá. Chính vì như thế mà chúng ta càng cần phân biệt lí luận văn học với thi pháp học.

3.2. Logích nào để xác định nghiên cứu cấu trúc văn học là đối tượng của một bộ môn nghiên cứu riêng gọi là thi pháp học? Để trả lời câu hỏi này ta cần nêu thêm câu hỏi: Tại sao thi pháp học lại tái sinh vào cuối thể kỉ XIX – đầu thế kỉ XX ? Mọi người đều biết, trả lời câu hỏi lí luận văn học, hay đúng hơn, nghiên cứu văn học xuất hiện vào lúc nào, nhiều tác giả nêu cái mốc thế kỉ XVIII, lí do là lúc đó đã có quan niệm về cái đẹp, có sự phân biệt nghệ thuật và nghề thủ công, quan niệm về thiên tài, phân biệt ranh giơí hội hoạ và thi ca…(xem G. N. Pospelov). Nhưng ngày nay có quan điểm cho rằng thời điểm đó nên dời đến cuối thể ki XIX. Đó là lúc, sau khi tiến hoá luận của Darwin khơi lên khát vọng nghiên cứu sự phát triển của văn học theo lối thực chứng một cách khoa học, các bộ sách lịch sử văn học thi nhau ra đời. Đầu tiên là cuốn Lịch sử văn học Anh của H. Taine 1869, rồi Lịch sử văn học Đức của Wilhelm Scherer năm 1883, Lịch sử văn học Pháp của G. Lanson (1895), Lịch sủ văn học Nga của A. Pypin năm 1898-1899…thể hiện một khoa học văn học có lí thuyết văn học hẳn hoi. Đó là sự hình thành của lí luận văn học hiện đại như là một khoa học. Nhưng các công trình đó có một nhược điểm là chỉ quan tâm các dữ kiện bên ngoài văn học, dùng để giải thích văn học, mà không quan tâm bản chất thẩm mĩ, nghệ thuật của văn học. Phản ứng trước lí luận đó, có triết học của Dilthey, mĩ học của B. Croce và những người khác, nhưng đáng chú ý là công trình Thi pháp học lịch sử của A. Veselovski, nghiên cứu ngữ văn học của A. Potebnia. Các nhà thi pháp học đã đặt lại vấn đề nghiên cứu sự cấu thành của văn học như một sự thực của sáng tạo thẩm mĩ, khám phá văn học từ cấu trúc ngôn từ, hình thức văn học. Tiếp nối ý tưởng đó trên một cớ sở nhận thức mới là chủ nghĩa hình thức Nga, rồi sau đó là Phê bình mới Anh, Mĩ, chủ nghĩa cấu trúc, kí hiệu học lan từ Pháp ra thế giới…Khuynh hướng nghiên cứu đó chứng tỏ rằng, lí luận văn học dù có thể phát triển mở rộng biên độ như thế nào, thì cấu trúc văn học là điều không thể bỏ qua hay hoà tan vào các kiểu nghiên cứu khác được. Các nhà nghiên cứu đã nêu ra nhiều định nghĩa về thi pháp học. Nào là khoa học nghiên cứu văn học như một nghệ thuật ( Girmunski), , nghiên cứu phương thức cấu tạo tác phẩm (Tomashevski), khoa học về cấu tạo tác phẩm và các phương tiện thẩm mĩ được sử dụng trong đó (Via. Ivanov), khoa học về các phương tiện biểu hiển trong tác phẩm văn học (M. Gasparov). Các định nghĩa ấy có thể nói ứng với quan niệm “nghiên cứu nội tại” mà R. Wellek nêu ra trong sách Lí luận văn học nhằm đối lập với “nghiên cứu ngoại tại”. Nhìn lại cách định nghĩa của các Từ điển bách khoa văn học (1987) Nga, Bách khoa văn học toát yếu (những năm 69 – 70) của Nga  hoặc trong các chuyên luận của các học giả hàng đầu như V.Vinogradov…ta thấy các học giả đó thường định nghĩa thi pháp học theo lối liệt kê các nội dung mà thi pháp học nghiên cứu. Chẳng hạn một định nghĩa của V. Vinogradov: “Thi pháp học là khoa học về các hình thức, dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác phẩm của sáng tạo ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và thể loại tác phẩm văn học. Nó muốn bao quát không chỉ là các hiện tượng của ngôn từ thơ mà còn gồm cả các khía cạnh khác nhau nhất của tác phẩm văn học và sáng tác dân gian.” Các khía cạnh nội dung thi pháp này chẳng gì khác hơn là “nghiên cứu nội tại” của văn học. Phát hiện, nghiên cứu các yếu tố của cấu trúc nội giới văn học với tất cả sự phong phú của nó là thành tựu lớn nhất của thế kỉ XX. Đó là nội hàm nghiên cứu thi pháp học, nhằm xác lập sự phân biệt với lí luận văn học. Điều đó không có nghĩa là thi pháp học đối lập, phủ nhận nghiên cứu ngoại tại như một thời lầm tưởng. M. Bakhtin đã phê bình rất sâu sắc lí thuyết của V. Shklovski, nhưng ông không bỏ thi pháp học, phát triển nó theo nguyên lí khác đã chứng tỏ điều đó. Chính cái logich cấu trúc văn học, “nghiên cứu nội tại” (không hiểu theo chủ nghĩa hình thức) đòi hỏi thi pháp học tái xuất giang hồ để phân biệt với li luận văn học, nghiên cứu văn học.

3.3. Logích nào khiến người ta quay lại sử dụng lại thuật ngữ “thi pháp học” cổ xưa của Aristote?  Thế kỉ XX xác định thi pháp học là nghiên cứu cấu trúc văn học, nghiên cứu nội giới văn học đủ rồi, vì sao lại tìm về thuật ngữ của Aristote?  Theo tôi đây là vấn đề thú vị. Nhan đề cuốn sách của Aristote  từ xưa đã dịch là “Nghệ thuật thơ ca”. Mấy lần dịch tiếng Việt đều giữ nguyên như thế. Học giả Trung Quốc là Vương Niệm Tôn dịch là “Thi học”, bởi trong truyền thống của họ đã có từ thi học với nghĩa là cái học về thơ, gồm quan niệm thơ, lí thuyết về thơ, thi pháp thơ. Nhiều học giả Trung Quốc hiện nay chê nhan đề của ông tổ thi pháp học không tương xứng với nội dung. Học giả phương Tây có người xem đó là cẩm nang về quy tắc sáng tác, có người hiểu đó là lí luận văn học. Đọc kĩ công trình này ta sẽ hiểu nội dung của nó chủ yếu không phải là xác định nguyên tắc mô phỏng tự nhiên, mà là xác lập các phương thức cấu tạo nên tác phẩm văn học như là một sự  mô phỏng tự nhiên. Đó là ba phương thức, là cấu tạo hành động, yếu tố của cốt truyện… tức là nghiên cứu các phương thức cấu tạo tác phẩm văn học. Đó chính là lí do mà nhiều người trong khi đi tìm lối thoát cho tình trạng nghiên cứu văn học sa lầy trong nghiên cứu ngoại tại đã tìm về thi pháp học và sử dụng lại thuật ngữ đã có của Aristote. Veselovski, tiếp theo là Victor Shklovski trong cuôn sach tập hợp nghiên cứu của ông mang tên Thi pháp học (1919) và từ đó thuật ngữ thi pháp học lại thịnh hành. Nhà thơ Paul Valery năm 1935 trong bài giảng thi pháp học của ông đã nói: “Chúng tôi cho rằng cái tên thích hợp sẽ là thi pháp học, nếu như hiểu từ đó với ý nghĩa từ nguyên học, tức là tên gọi chỉ tất cả những gì liên quan tới sáng tạo tức là sự tạo thành, kết cấu tác phẩm văn học mà ngôn từ của chúng ta vừa là thực tiễn, vừa là phương tiện, chứ không phải là với ý nghĩa hẹp hơn, như là tập hợp các quy tắc mĩ học liên quan đến thi ca.” Ý kiến của Valery cho thấy ông phản đối cách hiểu thi pháp như là tổng hợp các thủ pháp, phương tiện tách rời với sự sáng tạo nghệ thuật sống động. Khi sử dụng thuật ngữ thi pháp học, ông muốn phân biệt thi pháp học với khuynh huớng chạy theo các nguyên tắc mĩ học của thi ca, tức là khuynh hướng lí luận văn học trừu tượng chỉ thiên về đi tìm các nguyên tắc mĩ học, các tiên đề triết học, trong khi đó thi pháp học là câu chuyện của thực tiễn thi ca, từ trong sáng tác thi ca. (tôi nhấn mạnh-TĐS). M. Bakhtin trong khi cực lực phê phán chủ nghĩa hình thức Nga, ông vẫn đi theo hướng thi pháp học. Lúc đầu ông gọi hướng đó là “thi pháp học xã hội học” trong cuốn sách kí tên Pavel Medvedev được cho là của ông: Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học (1928). Đó là lí do thi pháp học Nga sống lại từ sau thời kì “băng tan” năm 1953 trở đi. Thiết nghĩ đó cũng là lí do vì sao ở Việt Nam từ những năm 80 thi pháp học được đón nhận nồng nhiệt như là sự trở về với bản thể văn học.

3.4. Logích nào để xác lập các bộ phận của thi pháp học ?

Thi pháp học lí thuyết đương nhiên có một vị trí trọng tâm, hết sức quan trọng, bởi vì lí thuyết là công cụ, phương pháp luận để người ta thâm nhập, phân tích thi pháp của sáng tác. Ví dụ khái niệm cấu trúc mời gọi cho người ta thấy tác phẩm khác hẳn, hoặc khái niệm liên văn bản, khái niệm tác giả của Foucault cho ta thấy một số khía cạnh của chủ thể sáng tạo mà trước kia bị ngộ nhận. Tuy vậy thi pháp học không thể chỉ là thi pháp học lí thuyết.

Quan niệm đồng nhất lí luận văn học với thi pháp học lí thuyết, một mặt mở rộng, làm mờ nội hàm của thi pháp học, mặt khác có hàm ý: chỉ nghiên cứu lí thuyết mới là thi pháp học, còn nghiên cứu thi pháp văn học thì không phải thi pháp học. Về vấn đề này, tôi nghĩ kiến giải của S. S. Avêrincev là rất có ý nghĩa. Trong sách Thi pháp văn học Bidantin trung đại thượng kì (1977) ông đưa ra quan niệm, thi pháp của văn học giống như ngữ pháp  trong lời nói. Có lời nói là có ngữ pháp, cũng vậy, có văn học là có thi pháp, bởi thi pháp tiềm tại, làm thành quy tắc nội tại của văn học. Thi pháp có trước thi pháp học. Văn học đổi thay thì thi pháp của nó đổi thay. Trước một thi pháp có nhiều lí thuyết khác nhau để mô tả thi pháp, tuỳ thuộc vào những siêu ngôn ngữ mà nhà nghiên cứu sử dụng. Từ đó ta thấy, có thi pháp lí thuyết, mà cũng có “thi pháp văn học”.

Trong thi pháp văn học có các nguyên tắc kiến tạo thuộc các cấp độ cấu tạo khác nhau của văn học bao gồm cấu tạo hình tượng, thế giới nghệ thuật, mà cũng có nguyên tắc thể loại, nguyên tắc sử dụng ngôn từ, tu từ học. Phương pháp sáng tác nếu hiểu cho đúng thực chất thì cũng chỉ là  phong cách và thi pháp của văn học. Hơn nữa ngày nay khi ngôn ngữ không chỉ là công cụ, mà là phương thức tồn tại của văn học thì người ta không thể hiểu thi pháp mà không có phong cách và tu từ học. Do đó, các phân môn phong cách học và tu từ học không thể đứng ngoài thi pháp học. Sự phân biệt ở đây theo thiển ý của tôi là do sức mạnh của truyền thông thi pháp học châu Âu cổ đại. Đối với Trung Quốc hay Ấn Độ thì có lẽ không có sự phân biệt ấy. Trong thi pháp học Bakhtin viết từ những năm 40 bao hàm cả tu từ học và ông là người đầu tiên trong giới lí luận nêu ra vấn đề tu từ học tiểu thuyết. Khi W. Booth viếtTu từ học tiểu thuyết (1961) chính là ông cãi lại các quan niệm về tiểu thuyết hiện thực bằng các cứ liệu của thi pháp tiểu thuyết, là phát hiên tu từ trong cấu trúc nội tại của tiểu thuyết, một vấn đề hoàn toàn chưa có trong tu từ học của Aristote. Tự sự học của G. Gennete chính là sự phát triển của tu từ học văn bản (diễn ngôn) tự sự. Về nguyên tắc, thi pháp học, phong cách học, tu từ học và hôm nay, cả tự sự học là không tách rời, chúng chỉ là các bộ phận khác nhau của thi pháp học hiểu như là nghiên cứu cấu trúc văn học. Các tác giả của cuốn Thi pháp học lịch sử (1994) của Viện văn học thế giới Gorki xem phạm trù chính của thi pháp học là phong cách, thể loại và tác giả. Các phạm trù thi pháp học của Emin Staiger (Bỉ) miêu tả các loại hình văn học như là các phong cách: thơ trữ tình – phong cách hoài niệm, tự sự – phong cách trình hiện, kịch – phong cách căng thẳng (kịch tính). Nếu còn giữ các thuật ngữ phong cách học, tu từ học, tự sự học thì chỉ là giữ một phạm vi trong thi pháp học. Không có logích nào cho sự đối lập, tách rời các  bộ môn ấy.

3.5. Logích nào cho sự tái cấu trúc các thi pháp học?

Phân biệt thi pháp học với lí luận văn học không có nghĩa là giữ nguyên thi pháp học như trước đây. Có thể có người nghĩ rằng, thi pháp học hiện đại chỉ là sản phẩm của trào lưu nghiên cứu hướng nội, ngày nay, khi nghiên cứu văn học đã có xu hướng hướng ngoại, thì thi pháp học trở thành chông chênh. Theo lôgích nêu trên, có thể nghĩ rằng, còn văn học là còn thi pháp học, dù văn học đổi thay thế nào thì nó vẫn còn cấu trúc, và chừng đó vẫn còn thi pháp và thi pháp học.

Bên cạnh thi pháp học lí thuyết và thi pháp học lịch sử, cần xác lập thi pháp văn học, miêu tả tất cả sự phong phú đa dạng của ngôn ngữ văn học đang vận động. Có bao nhiêu hiện tượng văn học thì có bấy nhiêu thi pháp văn học.  Thi pháp cổ đại, thi pháp hiện đại, hậu hiện đại, thi pháp tác giả, tác phẩm, thi pháp thể loại, thi pháp cốt truyện, thi pháp kết cấu…Văn học là sản phẩm của lịch sử, nghiên cứu quá trình thi pháp sẽ là thi pháp học lịch sử. Ví dụ tiến trình thể loại, ngôn ngữ văn học… Thi pháp học lí thuyết, như định nghĩa của nhiều nhà lí luận chỉ ra, không nghiên cứu văn bản cụ thể, mà nghiên cứu các quy tắc của một kiểu diễn ngôn mà các văn bản cụ thể tuân theo. Đây là quan niệm của Jakobson, Todorov, Propp, Greimas, Genette. G.Genete gọi đó là nghiên cứu “văn bản nghĩa rộng”(architext), hoặc xuyên văn bản (transtextuality) gồm có năm tiểu loại. Ju. Lotman nghiên cứu cấu trúc văn bản nghệ thuật như một đơn vị giao tiếp nghệ thuật. Thi pháp thơ và thi pháp văn xuôi phát triển theo những quỹ đạo khác nhau. Ở đây có sự phân hoá theo cách tiếp cận: ngữ học, kí hiệu học, ngữ nghĩa học, hình thái học, văn hoá học… Thi pháp học có thể là thi pháp học sáng tác, thi pháp học tiếp nhận. Như vậy thi pháp học là lĩnh vực của số nhiều, vừa xét theo biến thiên trong lịch sử, vừa xét theo cách tiếp cận. Thi pháp học Aristote căn bản là thi pháp đối với người sáng tác, lúc đó tác giả của nó chủ yếu quan tâm tới hành động, cốt truyện nhân quả, chưa chú ý tới yếu tố ngẫu nhiên, tính cách nhân vật, chưa chú ý nhiều đến ngôn từ. Thi pháp rút từ điển mẫu và quy phạm suy từ điển mẫu. Ngày nay thi pháp chủ yếu nghiên cứu cho người đọc, khi xem đối tượng thi pháp học là thực tiễn sáng tạo thi ca thì thi pháp sẽ phi quy phạm và rất đa dạng, rất gần với thực tiến văn học. Toàn bộ thi pháp học hiện đại không chỉ dựa vào các lí thuyết hiện đại mà phần lớn là dựa vào thực tiễn sáng tác hiện đại.

Tiền đề cho sự tái cấu trúc hay là tái diễn giải thi pháp học là xây dựng hệ hình thi pháp mở. Mọi người đều biết, thi pháp “nội tại” khép kín của chủ nghĩa hình thức đã lung lay trước các nghiên cứu thần thoại học, phân tâm học và nghiên cứu mẫu gốc cùng các hiện tượng văn hoá khác. Chẳng hạn nghiên cứu nhân loại học khi trở thành một trào lưu, nghiên cứu mẫu gốc huyền thoại của học giả Canada N. Frye và nghiên cứu xã hội học làm lung lay lí thuyết lấy văn bản làm trung tâm. Văn học vốn có liên hệ sâu xa với nghi lễ, tôn giáo, tâm lí, phong tục, chính trị. Tách rời chúng thì không thể hiểu đúng các yếu tố của văn học. Tách rời các bối cảnh đó thì không thể hiểu đúng cấu trúc nội tại của văn học. Nghiên cứu mẫu gốc cho thấy hình tượng Pavel Vlasov trong tiểu thuyết Người mẹ của M. Gorki, hình mẫu của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã sáng tạo theo mẫu gốc người vác thánh giá trong đạo cơ đốc. Hình tượng Lên nin trong trường ca V. I. Lên nin của V. Maiakovski được viết theo mẫu hình của truyện các thánh. Li Tao, Cửu ca của Khuất Nguyên gốc là bài ca nghi lễ. Nghiên cứu sâu sẽ thấy cấu trúc văn học tuyên truyền chính trị trong thơ Tố Hữu, nơi tác giả chỉ quan tâm cái chung, bỏ qua cái cá thể, hình tượng nhân vật vẽ theo bút pháp tranh tuyện truyền cổ động. Nhưng nghiên cứu nghi lễ, mẫu gốc ở thi pháp học vẫn nhằm soi sáng cấu trúc văn học trong bối cảnh văn hoá, khác hẳn với nghiên cứu văn hoá nói chung. Do đó, một mặt, cần mở rộng nghiên cứu thi pháp học theo các mối liện hệ ngoại tại của nó, mặt khác vẫn cần  làm sáng tỏ cấu trúc của văn học, có thế mới đáp ứng nhu cầu tiếp cận thuởng thức văn học của người đọc.  Ở đây lập trường của N. Frye rất đáng chú ý. Theo ông văn học sinh ra văn học thông qua các mẫu gốc, cần nghiên cứu các mẫu gốc làm nên truyền thống văn học. Huyền thoại học của ông chính là sự tái cấu trúc thi pháp học. Chúng ta cũng có thể nói thi pháp sinh ra thi pháp, nghĩa là các thi pháp sinh sau đều là sự phát triển, cụ thể hoá, khơi sâu, biến hoá các yếu tố thi pháp đã có từ trước nhưng đã biến đổi và được làm phong phú bởi tài năng và ngữ cảnh đời sau. Bakhtin xuất phát từ nguyên lí đối thoại của ngôn ngữ đẫ xây dựng một thi pháp học mới, vừa vạch ra tính thống nhất nội tại của tác phẩm, vừa chỉ ra mối liên hệ của hình thức với ý thức hệ xã hội. Đó là con đường của thi pháp học lịch sử và cũng là thi pháp văn hoá học. Theo con đường đó, tự sự học trừu tượng của Todorov, Genette, Greimass…đã trở thành “kinh điển”, tiếp theo sẽ là “tự sự học mới”, tự sự học hậu hiện đại.

4. Tóm lại, trong xu hướng ngày càng mở rộng của lí luận văn học sang các vấn đề văn hoá và sự thâm nhập của “lí thuyết”vào lĩnh vực nghiên cứu văn học, sự chuyển hướng sang nghiên cứu văn hoá rầm rộ trên thế giới thì khuynh hướng đồng nhất thi pháp học với lí luận văn học sẽ có nguy cơ hoà tan, đánh mất đối tượng của thi pháp học là văn học và lí rthuyeets về tác phẩm văn học, thể loại, ngôn ngữ. Mặt khác sự đồng nhất ấy cũng có nghĩa là không nhìn thấy bên cạnh thi pháp học lí thuyết còn có thi pháp văn học, là một ngành thi pháp có truyền thống lâu đời, có thành tựu, phảt triển rộng khắp cả ở phương đông lẫn phương Tây, đáp ứng nhu cầu tiếp nhận văn học của độc giả hiện đại.  Sự tái xuất của thi pháp học hiện đại trên cả bình diện lí thuyết và bình diện văn học có logích sâu sắc của nó. Sự phát triẻn của “lí luân” hiện đại sẽ tác động làm cho thi pháp học tái cấu trúc, khắc phục thi pháp học tĩnh tại, bất động, khép kín, mà mở ra một thi pháp mở. Theo cách hiểu của chúng tôi, bất cứ công trình nào nghiên cứu phương thức cấu trúc văn học, dù lí thuyết hay văn học, đều là thi pháp học, bất kể tác giả của nó gọi bằng tên gì, ngược lại, nếu thiếu vắng sự quan tâm mô tả cấu trúc văn học, dù có gọi bằng thi pháp học, thì thực chất nó cũng không phải là thi pháp học. Sự phân biệt này không nhằm giới hạn nghiên cứu nào, mà chỉ  cốt phát triển thi pháp học như là ngành nghệ thuật học của văn học giữa lúc các quan tâm ngoài văn học đang lên cao.

Nguồn:  http://trandinhsu.wordpress.com