(Nhân đọc bộ ba tác phẩm tản văn Từ xa Hà Nội, Xa rồi ngày xanh, Chỉ còn tuyết trắng của tác giả Mai Lâm)

 

Ngay ở tập Tản văn 1 (Từ xa Hà Nội), Mai Lâm đã có thiên tùy bút rất hay về ông Cao Nhị, nhà báo, dịch giả văn học, người cha và là cây cổ thụ trong gia đình của anh – một gia đình gần như hết thảy con cháu đều làm nghệ thuật và đều là những văn nghệ sĩ  tên tuổi: nghệ sĩ (NS) Mai Thu Hiền, NS Trương Ngọc Ninh, NS Trương Anh Quân, ca sĩ Mỹ Linh, NS – nhà văn Mai Lâm, đạo diễn điện ảnh Cao Mạnh, NS đàn bầu Cao Mai Nhi… và cũng có thể kể thêm nhà văn Cao Xuân Huy với tiểu thuyết Tháng ba gãy súng. Mai Lâm viết về người cha có văn, có tình, phải nói là đặc sắc, nhưng không hiểu sao tôi đọc vẫn thấy tiêng tiếc. Ngoài đời, ông Cao Nhị phong phú hơn…

 

Quê ông ở Phú Thọ, ngay từ  thời trai trẻ ông đã đi theo tiếng gọi núi sông, tham gia bộ đội đánh Pháp. Ông cầm súng, cầm bút làm thơ, viết văn. Hòa bình, ông chuyển ngành về Bộ Văn hóa, làm phóng viên cho Báo Điện ảnh và là dịch giả của nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng. Ông là bạn thân của những ông Phùng Quán, Dương Tường… và có thời gian cũng phải 6 tháng đi thực tế sáng tác tại đại công  trường Bắc Hưng Hải bởi bị nghi có dính líu tới Nhân văn giai phẩm…

Minh họa: Anh Dũng


Ông là chủ một gia đình có hai dòng họ, họ Cao bên ông và họ Mai chồng trước của vợ. Tuy là hai dòng họ chung một mái nhà, nhưng mọi người đều hết mực thương yêu nhau và cái lạ là ai cũng đều có gien nghệ thuật. Số là năm 1954, khi ông Cao Nhị còn mải miết đi chiến dịch, chẳng hiểu sao vợ ông lại bế hai con (trong đó có người con trai tên Cao Xuân Huy) vào Nam, cắt đứt mọi liên lạc với ông. Ít năm sau ông gặp bà Nguyễn Thị Huyền, là nhân viên Thư viện Quốc gia nơi phố Tràng Thi mà ngày ngày ông thường lặng lẽ tới đọc sách, dịch sách. Bà Huyền lúc ấy đã có hai con, nhưng vẫn còn mặn mà lắm. Người chồng trước của bà là một công an viên của ta hoạt động trong lòng địch và sớm bị hy sinh, để lại bà một mình nuôi dạy hai người con. Thế là ông Cao Nhị ngỏ lời, chẳng biết vì cảm ông hiền lành ít nói hay cảm cái duyên thầm của một người văn chương chữ nghĩa mà bà Huyền đồng ý, bế hai con là Mai Thu Hiền và Mai Lâm về chung sống với ông  Cao Nhị. Rồi hai ông bà sinh thêm hai người con đặt tên là Cao Mạnh và Cao Mai  Nhi…

 

Cả bốn người con của ông bà sau này đều đi theo con đường nghệ thuật và phần lớn là các đoàn nghệ thuật quân đội (đất nước thời chiến tranh mà!). Thoạt đầu là người con gái lớn xinh đẹp Mai Thu Hiền trở thành ca sĩ đoàn Quân khu 3. Ít thời gian sau, chị dẫn về ra mắt bố mẹ người yêu cũng là một nghệ sĩ mặc áo lính cùng đoàn: tay violon Trương Ngọc Ninh (sau này anh trở thành nhạc sĩ và là Phó Giám đốc Sở VH-TT Hà Nội). Tiếp theo là người con trai Mai Lâm, sau khi tốt nghiệp Nhạc viện Hà Nội cũng lên đường nhập ngũ, tham gia Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị; sau này khi chuyển sang đoàn xiếc anh cũng lại dẫn một nữ nghệ sĩ xiếc ra mắt bố mẹ để làm dâu trong nhà. Người con thứ ba là Cao Mạnh tưởng đã đi học Đại học Xây dựng là yên phận, ai dè nửa chừng xin thôi học để chuyển sang học Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh, sau này trở thành một đạo diễn phim của Đài Truyền hình Hà Nội. Và rồi đến cô gái út xinh đẹp Cao Mai Nhi học đàn bầu ở Nhạc viện, ngay sau khi tốt nghiệp cũng về công tác tại Đoàn Ca múa Quân đội…

 

Ngày ấy vì thân thiết với Mai Lâm và cũng là người lính nên thi thoảng chủ nhật, tôi cũng từ đơn vị về “ăn chạc” gia đình. Chị Hiền, anh Ninh cũng thường hay về, bế hai con là Hương Ly và Anh Quân (sau này là nhạc sĩ Trương Anh Quân) đến thăm ông bà, rồi Mai Lâm, Cao Mạnh, Cao Mai Nhi… nghĩa là cả một nhà nghệ thuật chật một gian nhà ríu rít tiếng nói cười. Duy một người không nói một lời nào, cứ đánh trần ngồi tủm tỉm nhìn con cháu và khi cao hứng lại “bắn” một điếu thuốc lào phả khói mù mịt gian phòng, là ông  Cao Nhị. Ông đang hạnh phúc! Nhìn ông lúc ấy hệt như ông Phật Di Lặc luôn nở nụ cười…

 

*    *

*

 

Sinh ra trong một gia đình như thế, Mai Lâm – bạn tôi có trở thành một nghệ sĩ biểu diễn hay sau này viết văn, làm thơ âu cũng là lẽ thường tình (bởi nói thật, nhà anh chữ nghĩa văn chương có thừa). Nhưng qua bao nhiêu trôi nổi, thăng trầm, lại hàng chục năm nơi đất khách quê người mưu sinh vất vả, bỗng ngoài 60 tuổi cho ra mắt liền ba tập sách, gọi là tản văn (cũng có thể gọi là tập Chân dung – Tùy bút) dày đến 600, 700 trang, thật cũng rất đáng trân trọng và nghĩ suy.

 

Với 600, 700 trang sách ấy, anh đã viết những gì trong đấy nhỉ? Vâng, những kỷ niệm tuổi ấu thơ Hà Nội, những con đường đá lát ven hồ Gươm, những người thân yêu trong gia đình của anh như người bố dượng Cao Nhị và những người bạn văn của ông và những người bạn văn của ông như nhà văn Nguyễn Dậu làm nghề cắt tóc nơi chân cầu Thê Húc, là nhà văn Phùng Quán thường uống rượu suông với ông Cao Nhị, là một người bạn văn trẻ của Mai Lâm tên Quảng – cũng mặc áo lính từng sớm có thơ in báo nhưng sau về Hà Nội lại mưu sinh bằng nghề… đá bóng thuê! Mỗi chân dung, Mai Lâm đặc tả chỉ vài trang sách, nhưng đều rất có nét và rất ấn tượng với bạn đọc. Lĩnh vực này, phải nói văn Mai Lâm đạt đến mức tinh xảo!

 

Cũng nói thêm rằng, ngần ấy trang sách của Mai Lâm còn mở rộng ra cho người xem nhiều nội dung phong phú của một đời người, không chỉ có tiếng ve tiếng dế, mà còn cả tiếng đàn tiếng sáo, tiếng đạn tiếng bom…; không chỉ sống với   những con đường  đỏ màu hoa phượng mà còn trắng màu tuyết rơi nơi đất khách quê người… Nhà báo D.C. trên Báo Tin tức đã viết thế này về văn Mai Lâm: “Gần một trăm tản văn của Mai Lâm trong ba tập sách là sự lưu luyến day dứt của người thương nhớ Hà Nội khôn nguôi, với những hồi ức về nơi xa lắm và thời xa lắm mà ngay cả người Hà Nội nay cũng không biết hoặc không còn nhớ đến nữa. Trong mỗi câu chữ ấy luôn thấp thoáng nỗi buồn của kẻ thấy nơi đâu cũng chẳng phải hoàn toàn là của mình, dù xứ người hay quê nhà”. Theo tác giả Tuyết Loan trên Báo Nhân dân: “Nhà văn Di Li cho rằng, văn của Mai Lâm có gì đó xưa cũ, mặc dù tác giả có thời gian sống khá lâu ở nước ngoài. Có lẽ chính vì ở xa Hà Nội nên ông không bị ảnh hưởng bởi một Hà Nội hiện đại hóa như những người Hà Nội hiện nay vẫn đang sinh sống ở thành phố này. Còn nhà văn Nguyễn Văn Thọ nhận xét: “Mai Lâm trộn lẫn giữa Đông và Tây, giữa hiện tại và quá khứ. Mai Lâm khai thác chính bản thân mình, chính câu chuyện của mình. Những câu chuyện của anh nếu được xây dựng thành tuyến thì sẽ có tác dụng rất lớn đối với dòng chảy văn học di dân” và “Đã có nhiều người ở nước ngoài viết về Hà Nội, nhưng luôn có nét này nét kia. Còn Mai Lâm viết chỉ thấy Hà Nội đẹp, kể cả trong khi đói nghèo, Hà Nội trong văn Mai Lâm yêu và thương lắm…”

 

Thú thực, hôm mua được bộ ba tản văn này của Mai Lâm ở Hội chợ sách TPHCM, người tôi nghĩ đến đầu tiên là ông Cao Nhị. Tôi muốn thưa với hương hồn ông rằng: “Với hàng trăm đêm diễn trước đây và giờ đây với ngần này trang sách, cuộc đời nghệ thuật của bạn Mai Lâm kể cũng là nhiều đóng góp, kể cũng là mỹ mãn bác nhỉ”. Tôi tin tôi sẽ lại được nhận từ ông, người cha đôn hậu ấy một nụ cười của ông hệt như nụ cười ngày nào của Phật Di Lặc…


Theo Trương Nguyên Việt – SGGP