Tôi từ sớm để chuẩn bị cho ngày hôm nay. Để mọi chuyện thuận lợi, tôi đã phải bước đi thật rón rén, tránh những âm thanh quá lớn có thể đánh thức bà ta.
Cơn ngái ngủ khiến cơ thể tôi ì ạch và tôi phải dùng chút nước lạnh để mình tỉnh táo lại. Tấm gương phòng tắm đặt nghiêng nghiêng, tôi lùi xa một chút để có thể nhìn thấy toàn bộ thân thể mình. Với cơ thể này thì chuyện cởi trần ra bãi tắm, dù là buổi đêm cũng là điều ngớ ngẩn. Nhiều năm rồi, các cơ bắp trên cơ thể tôi đã nhăn nhúm lại và cả cái thứ gắn với bản sắc đàn ông kia cũng đã trở nên xấu xí. Các ngón tay dài, thuôn thả cũng đã nhăn nheo và cứng nhắc như lớp vỏ cây. Tôi tiến gần hơn về phía gương, nhìn ngắm hồi lâu. Tiếng thở dài vang khe khẽ. Tôi đã từng nghĩ mình sẽ có lúc già nua nhưng thật tội nghiệp khi biết cơ thể mình sẽ dặt dẹo, ốm đói tới mức này. Gương mặt thanh tú với cái mũi cao và đôi mắt sâu thẳm có thể chôn vùi trái tim mọi thiếu nữ giờ tôi chỉ còn được thấy trong sự hồi tưởng thôi sao.
Bà vợ già có lẽ vẫn đang co quắp trên giường như con mèo hen. Tôi đã phải chịu đựng bà ta quá lâu rồi. Từ ngày nào tới giờ bà ta luôn quá quắt với tôi. Con người trải qua một quá trình tiến hóa lớn nhưng có lẽ người đàn bà cộc cằn kia lại đi ngược với tiến trình đó. Bà ta là sinh vật đã bị Thượng đế lãng quên và chẳng biết bằng cách nào lại lọt xuống nhân gian. Bà ta đã đeo một chiếc mặt nạ để gặp được tôi và giờ thì lớp tạo hình đó đã nhòa đi. Tôi đã bị xích chặt vào một ả đàn bà thô thiển. Bà ta chẳng cần biết Đức Thích Ca vì sao lại từ bỏ thân phận hoàng tộc để tham thiền khổ hạnh, Chúa Giêsu vì sao phải đóng mình vào thánh giá, bà ta luôn bĩu môi khi thấy những bức tranh mang tính tượng hình, nhạc thính phỏng chỉ khiến cơn ngáp vặt của bà ta mau đến, nghĩa trang hay lăng mộ với bà ta cũng chỉ là nơi chôn người.
Tôi bước ra ngoài, cố xua đi hình ảnh của bà ta. Vài ngày nữa tôi mới trở về. Người đàn bà đó sẽ tức điên lên và gào thét như con sói đã để vuột mất mồi. Tôi bắt đầu tưởng tượng ra gương mặt già nua, dày đặc những nếp nhăn kia khi bắt đầu nổi đóa. Các đường gân sẽ chạy quanh gò má mà nay đã hóp lại, trông xanh xao. Cơ thể bà ta sẽ run lên bần bật như sợi dây đàn, hai hàm răng bập lại, nghiến ken két. Nếu cơn nóng giận có lớn hơn và phần nào tác động đến chứng suy tim của bà ta thì thật là một điều đáng mừng.
Đi một đoạn, tôi dừng lại khi nhìn thấy chiếc Roll Royce màu trắng ngọc. Người bạn gì đến sớm hơn tôi nghĩ. Cửa xe mở khi tôi gõ vào mặt kính. Bên trong xe chỉ có mình Bound, tôi ngồi sau ông ta. Điều hòa được đặt ở chế độ trung bình nên khá ấm áp. Bound mặc một chiếc măng- tô kiểu Pháp, chiếc áo màu trắng và khá dày. Phát tướng lúc tuổi già khiến thân hình ông ta cân đối và hợp với chiếc áo vốn dành cho người có vóc dáng cao lớn này hơn.
“Bao lâu thì đến nơi?”
“Quá trưa là đến, nhưng ông phải ở lâu đấy.”
Bound nhấn ga, chiếc xe lao vút đi.
*
Lần gặp gỡ đầu tiên của tôi với Bound là vào hai tháng trước. Hôm đó tôi ra cửa hàng chim cảnh để mua một con. Tôi vốn không thích nuôi chim nhưng chẳng rõ tại sao về già tôi lại có sở thích này.
Cửa hàng rất vắng và tôi là vị khách duy nhất. Chủ quán giới thiệu các loại chim có trong quán để tôi lựa chọn. Tôi chẳng phải người sành chơi chim nên đã chọn một con chào mào có giá rẻ nhất. Trong lúc ông chủ vào buồng trong lấy thức ăn cho chim thì tôi ghé mắt vào lồng để nhìn con chim kỹ hơn. Con chào mào vẫn còn nhỏ và hơi gầy. Nó xòe đôi cánh, nhảy sang trái rồi nhảy sang phải. Thân hình bé nhỏ đó lay động khá lâu. Chợt, nó thò đầu ra phía kẽ hở của những thanh gỗ. Cái đầu nó lúc rúc nhưng chỉ cái mỏ bé con con là chui qua được chiếc lồng. Nó bỗng nhảy lên trên nóc lồng, đầu ngoảnh ra.
“Đang vùng vẫy đấy.”
Tôi nhìn sang thì thấy bên cạnh mình là một ông già. Tôi gần hơn sáu mươi. Ông ta chắc mấp mé bảy mươi. Chủ quán bước ra, đưa tôi một túi thức ăn cho chim. Nhìn sang ông già kia, chủ quán mừng rỡ, nói “Chào ông. Như trước chứ ạ.” Ông già kia gật đầu rồi vẫy tay, hai gã thanh niên lạ từ ngoài đi vào. Họ mang toàn bộ lồng chim trong cửa hàng ra chiếc xe tải đỗ bên ngoài. Phía trên xe tải là một chiếc Roll Royce màu trắng.
“Còn cái lồng chim này nữa.” – Ông ta nhìn sang con chào mào mà tôi mua. Lúc gã thanh niên chạm vào lồng, tôi ngăn lại.
“Xin lỗi, con chào mào này tôi đã mua rồi.”
“Ông bán lại cho tôi chứ – Ông ta nói.
“Tôi đã mua rồi!” – Tôi nói.
“Ông hãy ra giá, bao nhiêu cũng được!” – Ông ta nói.
Tôi quay đi, cầm lồng chim lên.
“Chiếc lồng sẽ giết nó.”
Ông ta nhìn tôi, khẽ thở dài rồi quay đi. Khi ông ta bước khỏi cửa, tôi gọi lại.
“Ông muốn mua nó thật chứ.” Ông ta quay lại, khuôn mặt không giấu được vẻ mừng rỡ. Tôi bán lại cho ông ta con chào mào. Tôi lấy đúng giá mà mình đã mua.
Tôi được biết thêm, ông lão lạ mặt kia lâu lâu lại tới các cửa hàng bán chim cảnh và mua tất cả với giá rất cao. Một lần khác, tôi vô tình gặp ông ta ở một cửa hàng nhỏ ở cuối phố. Lần này chúng tôi đã bắt chuyện với nhau và còn gặp lại khá nhiều lần.
*
Bound không phải là một người nước ngoài, ông ta có gương mặt và dòng máu của một người Việt. Theo những gì tôi nghe được thì từ nhỏ ông ta đã lưu vong bên Pháp. Ông ta chỉ có một mình, phải tay trắng lập nghiệp. Việc thay đổi quốc tịch không phải là điều Bound mong nhất, ông ta vẫn nói được tiếng Việt và vẫn là người Việt. Không gì thay đổi được dòng máu trong người Bound. Đó là chuyện của quá khứ và tôi không muốn hỏi nhiều về nó. Quá khứ luôn tàn nhẫn.
Bound và tôi đều là những người cô đơn. Tôi cô đơn trong căn nhà đó còn ông ta thì cô đơn ở cái xứ sở rộng lớn, khi mà phải ngồi trong bóng đêm, nói tiếng mẹ đẻ với bốn bức tường.
“Tôi ghét sự trói buộc. Nhưng tôi lại chẳng thể nhìn thấy sợi dây mà mình đã giăng ra để vây lấy bản thân.”
Có lần Bound nói với tôi như vậy. Lời nói chỉ dừng ở đó và tôi cũng không hỏi thêm. Tôi im lặng. Bound ngước nhìn lên bầu trời. Một thứ linh cảm nào đó trong tôi đã đọc ra Bound đang buồn phiền, cuộc sống sung túc ở phương trời xa vẫn chưa khiến ông ta quên đi những phiền muộn.
Ngày còn trẻ tôi thích đi lại khắp nơi, tôi quen biết nhiều người và nhiều cô gái đã ngã vào lòng tôi chỉ với vài lời tán tỉnh bâng quơ. Những cuộc chè chén luôn kéo dài. Nhưng mọi chuyện đã biến mất khi tôi gặp cô ta. Tôi không biết vì lý do gì nhưng rõ ràng khi gặp cô ta tôi đã không còn nhìn thấy thêm người phụ nữ nào nữa. Cặp mắt của tôi dành riêng cho cô ta. Suốt cả tháng trời tôi không đi đâu cả, mặc cho đám bạn hữu gọi cả trăm cú điện thoại. Tôi chẳng ăn uống gì và chỉ vẽ thôi. Tôi vẽ rất nhiều, có lẽ tới cả trăm bức. Những bức tranh đó đều mang khuôn mặt của cô ta. Gương mặt đó luôn lơ lửng trong tim tôi kể cả khi tôi không nghĩ tới nó vẫn hiện rất rõ. Sự nông nổi thời trai trẻ đã khiến tôi không nhìn ra cái sắc đẹp đó chỉ là phép phù thủy.
“Ông đã theo cái tình yêu đó.”
“Đúng!”
“Không ai ngăn cản?”
“Tôi bỏ ngoài tai.”
“Ông có từng nghĩ lại?”
“Tới giờ thì luôn luôn.”
*
Tôi ngừng vẽ và chuyển sang kinh doanh. “Đó chỉ là một giấc mộng thôi. Tình yêu của chúng ta không cần những giấc mộng viển vông đó. Anh nghĩ xem, thứ gì mới cần cho cuộc sống sau này, hơn cả việc chìm đắm vào trò vẽ vời”. – Cô ả nói vậy và tôi đã nghe theo như một mệnh lệnh. Cô nàng quăng hết tranh của tôi vào sọt rác. Tôi cũng cắt đi mái tóc bồng bềnh ngả rạp tới sau gáy. Giá vẽ cùng những lọ màu giờ có lẽ vẫn nằm yên trong nhà kho, lẫn vào bao thứ vật dụng lỉnh kỉnh thô tục. “Đó là một sự ngu muội”. Tôi đã giăng một tấm lưới lớn để tự bẫy mình. Người vợ đáng yêu đó quản lý mọi thứ. Cả tiền bạc, cả tự do của tôi. Sự dịu dàng biến mất quá nhanh. Thậm chí tôi đã tự cược rằng cái vỏ bọc mỹ miều mà tôi đã nghĩ rằng còn đáng giá hơn cuộc sống tự do và niềm say mê bên giá vẽ đã tan nhanh như một làn khói. Vài năm sau đó cô ta bắt đầu mắng nhiếc về lối sống luộm thuộm và sự bê trễ về thời gian của tôi.
“Ngày trước khi bà ta ngã bệnh, tôi đã quỳ trước bàn thờ mong bà ta tai qua nạn khỏi và xin thần linh hãy chuyển bệnh tật của bà ta sang tôi. Còn giờ thì ngược lại.”
“Ông kể nhiều về quá khứ. Là ông chưa có dịp kể cho ai hay không ai muốn nghe ông kể.”
“Tôi cần một người bạn.”
“Những người bạn ngày trước thì sao.”
“Chẳng ai trong họ còn muốn gặp tôi. Những chú chim chịu nghe tôi kể và luôn im lặng. Nhưng chúng mau chết quá mà tôi thì không thể thả chúng được. Chúng sẽ mãi lánh tôi.”
Bound thở dài, ông ta đặt tay lên vai tôi. Bàn tay ông ta rất ấm.
“Ông chẳng cần thiết phải nuôi chim làm gì. Ông hãy nói gì đi và tôi sẽ nghe hết. Phải rồi, khác với lũ chim, tôi có thể trò chuyện với ông.”
Bound mỉm cười. Bàn tay ông ta xiết chặt thêm. Hơi ấm trên tay ông ta tan dần vào tôi.
*
Bound thường đến các cửa hàng bán chim và mua bằng hết. Ông ta đem nó về khu dinh thự của mình và thả chúng ra ngoài. Có một lần ông ta nói với tôi.
“Tôi không hiểu nổi tại sao mấy người lại nhốt loài chim vào lồng.”
“Như vậy nó sẽ không bay đi đâu được.”
“Ông không thấy mình đang cầm tù nó ư.”
“Nhốt chúng thì tôi có thể kể với chúng nhiều hơn.”
“Các người chỉ biết tận hưởng sở thích của mình thôi. Ông hãy xem nhiều lúc con chim nhảy bên này nhảy bên kia và hót. Chẳng phải đâu, nó đang tìm lối ra. Tiếng chim trong lồng hoặc là lời cầu cứu hoặc là tiếng nguyền rủa kẻ độc tài.”
“Chơi chim là cái thú tuổi già.”
“Chơi ư? Tự do đâu phải trò tiêu khiển. Chơi chim là thú vui của kẻ độc tài.”
*
Tôi không muốn trở về nhà nữa. Tôi đã ở đó quá lâu rồi và cũng ngần ấy thời gian tôi chưa thể đi đâu được xa. Đã nhiều năm chung sống nhưng chưa lần nào bà ta chịu nghe tôi tâm sự. Đôi tai bà ta chỉ chăm chú hơn khi nghe tôi nói về số tiền thưởng cuối năm hay một công việc béo bở mà từ đó có thể giúp bà ta sắm thêm các bộ quần áo sang trọng. Nỗi buồn và cả niềm day dứt nó đã ở trong tim tôi quá lâu. Không ai chịu dừng chân thật lâu để nghe tôi nói. Các bóng hình lướt qua rất nhanh, tôi không thể khiến họ dừng lại. Đôi lúc, tôi tưởng đã chạm được và giữ lại được một bóng người nhưng rồi thứ ảo ảnh đó lại chạy vụt qua tôi, biến mất trong bóng tối. Tôi chỉ có thể đem nó kể cho những chú chim. Nhưng rồi chúng chỉ ở với tôi vài tháng. Tôi chăm chúng rất chu đáo nhưng chúng vẫn chết, hoặc không thì bà vợ cũng sẽ thả chúng đi.
Những hạt thức ăn cao cấp không thể cản được đôi mắt thôi hướng về phía bầu trời. Chúng chỉ có thể bay lượn trong chiếc lồng này. Còn tôi. Đôi chân tôi chỉ có thể đi lại trong bốn bức tường hoặc rộng hơn là đầu phố và cuối phố. Tôi cũng có nhiều dịp phải đi xa nhưng bà ta luôn theo sát. Những chuyến đi đó tôi chẳng còn thấy những cảnh đẹp, nó giống một cuộc đày ải hơn. Tiếng khóc, ông biết không, quá nhiều lần tôi đã muốn than khóc cho mình. Đáng ra tôi phải nhận ra tiệc cưới hôm đó vốn dĩ là một đám tang. Tự do và thanh xuân của tôi đã mất trong một người đàn bà phàm tục. Bạn bè tôi đã lánh mặt để ngăn những giọt nước mắt không rơi xuống. Họ đã cảnh tỉnh tôi quá nhiều vậy mà tôi vẫn bảo thủ đi theo thứ gọi là tình yêu, hẳn là lúc đó linh hồn tôi đã bị đánh cắp đi đôi mắt. Tại sao lúc đấy tôi không đủ tỉnh táo để thấy những bông hoa tôi tặng bà ta rồi sẽ tàn úa và nằm trong sọt rác. “Tôi đã từng nghĩ bà ta sẽ biến mất”. Ý nghĩ luôn hiện trong đầu tôi. Khi người đàn bà đó đi chơi xa, tôi đã cầu bà ta bị tai nạn hoặc giả sẽ vì một lý do gì đấy chịu ký vào tờ ly hôn mà giờ mối đã xông mục. Mỗi lần bà ta ngồi ở nơi nào đó, có thể là trong phòng khách, dưới nhà bếp, ghế đá công viên hoặc đâu đó trong các bữa ăn; tôi thường nhìn quanh, khi thì là chiếc quạt trần, cái bóng đèn lúc là bờ tường, trần nhà… tóm lại là bất cứ thứ gì lơ lửng trên đầu bà ta. Tôi luôn nghĩ chúng sẽ rơi xuống… Tôi thường mỉm cười khi tưởng tượng tới điều đó. Suy nghĩ đó không biết từ lúc nào đã bám rễ vào tôi, nó luôn ở trong đầu tôi, mọi lúc. Thậm chí khi tôi đã ngủ chúng vẫn hiện lên dưới hình dạng những giấc mơ. Không hiểu sao tôi không dứt nó ra được. Sự già nua và tù túng đã khiến linh hồn tôi dơ bẩn tới vậy ư? Bà ta rõ ràng là đáng ghét nhưng thực sự tôi chẳng nên vỗ béo mình bằng những suy nghĩ. Và cũng chẳng biết từ lúc nào tôi đã quên đi chuyện đứng trước gương quá lâu. Tôi luôn tránh điều đó vì biết đâu, vào một lúc nào đấy tôi lại bắt gặp một cặp sừng dài.
*
Mười hai giờ trưa, xe đến nơi. Điểm dừng là dinh thự của Bound. Dinh thự mà Bound đã kể với tôi ít nhiều tôi cũng đã có vài lần nghĩ đến. Cố nhiên là tôi đã tưởng tượng ra mọi hình dáng nhưng mọi thứ thật quá xa vời. Khu dinh thự này vượt quá sự tưởng tượng về mọi khu nhà sang trọng. Phải gọi là một lâu đài mới đúng. Lâu đài không xây theo kiểu cổ điển, cũng không theo dạng tân kỳ, tôi không thể nói rõ được nhưng hình như nó được xây dựng theo kiến trúc tổng hợp. Tôi có thể thấy rõ những nét cao quý của điện Nga Hoàng, sự diễm lệ, gấp khúc của Vạn lý trường thành. Đây chẳng phải lâu đài cổ. Các lớp gạch vẫn chưa có dấu hiệu rêu phong. Các bậc thang ở lâu đài xây theo dạng uốn, nhìn từ xa lâu đài như một cái vỏ ốc khổng lồ. Phần đỉnh lâu đài có xây một tòa tháp cao. Mũi tháp nhọn như một mũi kiếm. Phần mũi của ngọn tháp hướng lên cao và dường như đã chạm tới những đám mây. Lâu đài không quá đồ sộ bởi đứng lùi ra quãng gần vài trăm mét tôi có thể thu nó gọn vào tầm mắt. Không có dấu ấn lịch sử nào ở thứ công trình này, nó mang tính cá nhân nhiều hơn, nhưng dù thế nào thì cũng quá xa hoa khi tự xây cho mình một cơ ngơi to lớn thế này. Dinh thự của Bound nằm dựa vào một cánh rừng rộng bạt ngàn. Dù vẫn ở xa nhưng tôi vẫn ngửi thấy mùi lá thông, hoa oải hương và cây chà là.
3 giờ chiều, Bound dẫn tôi ra ngoài. Ông ta mặc một chiếc sơ-mi mỏng cộc tay. Hai bên cổ tay của ông ta lộ khỏi lớp áo và tôi thấy rõ ở hai cánh tay không hề có dấu vết nào của sự già cỗi. Da thịt ông ta săn chắc và còn có vẻ rất cứng cáp. Quản gia lái xe đưa tôi và Bound lên khu rừng. Quản gia ở lại canh chừng chiếc xe. Tôi cùng Bound đi lên trên. Tiếng chim hót văng vẳng bên những bụi cây. Tôi không nghĩ khu rừng này lại rộng tới vậy. Những cây thông mọc thẳng đứng, đan xen chằng chịt, lá thông nhuộm xanh rì cả một góc rừng. Gió thổi mang theo mùi hương của những bông hoa. Tôi hít một hơi thật sâu, không hẳn chỉ là mùi thơm của những bông hoa, còn có mùi gỗ thơm và một thứ mùi là lạ mang đặc trưng của tự do.
“Ông thử nhìn bên kia.”
Tôi nhìn ra, ở cuối ngón tay của Bound là một cây phong, lá ít nhiều cũng đã rụng. Có một đôi chào mào bay lượn trên cành cây đó. Chúng bay vòng quanh, đậu xuống cành cây rồi lại cất cánh.
“Nơi này mới thực sự cần cho chúng. Ông nghe mà xem, âm thanh du dương này mới là tiếng hót. Chỉ ở nơi này đôi cánh chúng có được sự tự do. Chúng sẽ bay tới mọi nơi.”
*
Bound đã xây cả một cánh rừng rộng như vậy cho chúng. Những chú chim đó sẽ chẳng muốn nhớ tới cái lồng khum khum đó nữa, đôi cánh của chúng hoàn toàn tự do. Chúng bay thành bầy, bay thành cặp, đôi lúc thì cô đơn một mình. Tôi thật không rõ trong đó đâu mới là con chào mào Bound mua lại của tôi. Nó đang ở trước mắt tôi, ở đâu đó trong khu rừng hay đang bay lượn tìm mồi cho đàn chim non mới nở. Bound có vẻ rất vui khi dẫn tôi vào khu rừng. Khuôn mặt ông ta nhũn nhặn. Chốc chốc ông ta lại dừng chân để ngắm thật kĩ khu rừng. Tôi và Bound đi rất lâu trong rừng. Tiếng chim hót như gần ngay bên tai tôi, ngân vang như tiếng dương cầm. Đám thỏ đuổi nhau dọc theo con rừng và khi nhìn thấy tôi chúng giật mình, chạy núp vào một chiếc hang gần đó. Bầu trời vừa ráo mưa nên trong xanh lạ kì, các gợn mây đang chảy dần về phía chân trời. Mây trôi rất chậm, đủ để tôi nhìn ngắm và liên tưởng ra đủ điều. Tôi quên hẳn căn nhà ọp ẹp cùng người vợ già kia. Tôi dạo trong rừng mà không hề nghỉ chân. Cách một đoạn đừng lại có những hồ nước nhỏ xây hình bán nguyệt. Hồ không có bệ chống nên tôi có thể múc nước rửa tay hoặc sắn quần, thọc hai chân xuống nước. Có một đôi bướm rượt nhau trên mặt hồ, vài con nhện nước bơi trên đó tạo thành những vòng tròn nhỏ.
Bound đứng cách tôi một đoạn. Ông ta châm thuốc và hút một hơi thật sâu. Tôi tựa lưng vào một tảng đá nhìn lên bầu trời. Mây đen đã tan từ lâu và như một quy luật ở đằng xa đã xuất hiện cầu vồng. Những sắc màu lộng lẫy uốn cong trên bầu trời. Ánh mắt tôi đăm đắm nhìn lên trên, bỗng nhiên tôi thấy các nếp nhăn trên khuôn mặt đã lặn đâu mất. Cái lưng hơi khòm xuống vì tuổi già cũng đã có thể duỗi thẳng. Đôi mắt tôi không còn phải nheo nheo để nhìn rõ một vật quá xa nữa. Tôi sờ ra sau thấy mái tóc mình đã dài trở lại. Trước mặt tôi hiện ra một giá vẽ. Tờ giấy dó đã đặt sẵn trên giá. Chiếc cọ vẽ uốn khúc và các gam màu trong hộp vẽ lần lượt chạy đều trên trang giấy. Từng đường bút đều khiến tinh thần tôi phấn chấn. Tôi như rơi vào một cõi nào đó, mọi thứ xung quanh dần mờ đi và bắt đầu tan biến. Chỉ còn mình tôi bên giá vẽ. Những màu sắc khi trùng lặp, khi rời rạc, lúc lại đơn lẻ. Phải rất lâu sau tôi mới hoàn thành bức vẽ. Tôi buông bút, ngắm nghía hồi lâu. Chỉ là một bức phong cảnh. Những khoảng màu trùng lặp, nhiều khi rối loạn chắp vá. Bức tranh dù có chỗ phối màu rất đặc nhưng nhìn tổng thể thì tất cả đều nhàn nhạt, nửa kín nửa hở. Khung cảnh chỉ nhỏ gọn ở vài cái cây, dòng sông và ít mây trôi nhưng nhìn chúng đều rất thoáng và tôi cảm thấy mỗi chiếc lá trên cành cây đang động đậy, những đám mây đang chậm chạp trôi đi.
“Quác!”
Tôi khẽ giật mình. Giá vẽ cùng bức tranh biến mất. Dáng dấp của bức tranh vẫn hiện chập chờn trong đầu tôi. Tôi nhắm mắt và cố nhớ lại bức tranh đó. Hình ảnh chỉ mang máng.
*
Ngày hôm sau trời mưa nên tôi không thể ra ngoài.
*
Bữa tối hôm qua Bound nói sắp tới sẽ trở về Pháp. Quá nhiều việc phải cần tới ông. Bound dù khỏe khoắn, minh mẫn hơn tôi nhưng vẫn già hơn tôi. Tuổi của ông ta cần phải được nghỉ ngơi hơn là ngồi một chỗ và vùi đầu vào đống văn thư dày đặc chữ nghĩa. Phải rất lâu nữa ông ta mới trở về Việt Nam, cũng có thể sẽ chẳng bao giờ. Tôi thả khăn mặt vào chậu, vò hồi lâu rồi lau mặt. Tôi lau qua người rồi bước ra, cô bé giúp việc đợi sẵn bên ngoài để sau đó sẽ đưa tôi tới phòng ăn. Gần chiều Bound sẽ cho người lái xe đưa tôi về và vì vậy chúng tôi phải ăn sáng thật nhanh để từ giờ tới chiều chỉ đi dạo trong rừng. Bound có nói hôm nay sẽ đưa tôi đi hết cả khu rừng. Ông ta đã định lái xe chở tôi đi nhưng tôi từ chối. Khu rừng vẫn còn rất rộng. Đường sẽ còn rất xa, tôi cũng đã không còn là một trai tráng nữa. Có lẽ tôi sẽ rất mệt nhưng dù thế nào tôi vẫn muốn đi hết cả khu rừng, bằng chính đôi chân mình.
Tôi và Bound giờ đã ở trong rừng. Nền đất ẩm ướt, đôi chỗ nước mưa đọng thành những vũng nhỏ. Trên những chiếc lá vẫn còn chút nước đọng lại, hạt nước nho nhỏ lấp lánh dưới ánh mặt trời nom như những viên trân châu. Tiếng chim hót văng vẳng trong những tán cây. Tôi và Bound chầm chậm đi, đôi lúc dừng lại hít một hơi thật sâu để ăn món khí lành. Nơi này rất yên bình, không gian thanh bạch đủ để xua đi mọi sự dơ dáy trong tâm hồn. Nếu tôi gặp Bound sớm hơn thì thật tuyệt. Người vợ già đó, tôi chẳng còn thấy bà ta đáng ghét nữa. “Bà ta luôn gây chuyện, nhưng chẳng phải lúc mình nằm viện bà ta cũng đã chăm sóc rất chu đáo đó ư?” Người vợ tôi đã si mê từ thời trai trẻ và chỉ khi đã luống tuổi tôi mới thành kiến với bà ta. Không có quá nhiều điều tốt đẹp ở bà ta nhưng tôi cũng không hoàn mỹ gì. Ký ức mà nhiều lần nghĩ đến tôi luôn muốn cầm cuốc đập nhiều nhát bỗng trôi đi rất mau. Trong đầu tôi chúng chỉ còn nhàn nhạt và chắc rằng chúng cũng như khối băng trôi về lục địa, đang tan chảy dần trước khi biến mất và trở thành một phần của Đại Dương.
Bound đi cạnh tôi, trán ông ta mồ hôi đã đổ lấm tấm. Tôi bảo “Nghỉ chân chút nhé”. Bound nhìn tôi, mỉm cười rồi đi tiếp. Bước chân ông ta chậm đi nhưng chẳng có vẻ gì là sẽ dừng lại. Ông ta vẫn đi cạnh tôi. Chúng tôi đi qua vài nơi, những cây thông ít đi và tôi thấy những bãi cỏ lớn, đám sóc nô đùa trên những cành cây, tiếng chim hót râm ran, vào sâu bên trong tôi thấy thêm loài hươu và những chú khỉ.
“Quác!”
Tiếng vang từ lùm cây phía xa.
“Tiếng gì vậy.”
“Chắc là bọn người làm đã đánh động lũ chim.”
“Chà, họ cũng thích đi rừng nhỉ?”
“Có lẽ chúng đi săn, trong rừng có thú hoang…”
Vẻ mặt Bound bình thản nên tôi cũng bớt lo. Tôi và ông ta đi tiếp.
“Ông không về đây nữa thì dinh thự này sẽ rất trống trải.”
“Biết bao giờ tôi mới có thể trở lại.”
“Ông lớn tuổi rồi, đã tới lúc cần được nghỉ ngơi.”
“Bây giờ tôi đang nghỉ ngơi.”
“Ông có thể về hẳn đây, vợ con ông cũng sẽ hiểu.”
“Sẽ chẳng ai hiểu cho tôi đâu.”
“Cởi bỏ áo giáp, sẽ nhẹ và được đi hơn.”
“Không dễ đâu…”
*
Tôi đã ra khỏi khu rừng. Bên ngoài là chiếc xe bốn chỗ, quản gia đứng đợi sẵn. Tiếng chim thánh thót vẫn văng vẳng phía sau níu tôi lại. Bound nhìn tôi, ánh mắt đầy vẻ nuối tiếc. Tôi gật đầu, mắt hết nhìn Bound lại nhìn về phía khu rừng.
Quản gia mở cửa xe. Lúc chuẩn bị lên xe tôi nghe thấy một tiếng kêu. Thứ tiếng đứt đoạn nửa chừng nhưng đủ lớn và đủ sắc để cắt tai tôi. Một vật từ trên không rơi xuống. Tôi giật mình khi thấy một con chào mào. Không có tiếng đạn. Con vật trúng đạn, ngay tim. Cơ thể con chim gần như vỡ toác. Máu ngấm đỏ bộ lông. Tôi nhặt con chào mào lên, đặt nó vào lòng bàn tay. Máu trên người con chim rỉ xuống tay tôi. Con chào mào run rẩy, mắt nó nhìn lên bầu trời, đôi cánh vẫy vẫy như muốn bay lên. Được một lúc thì tắt thở.
Nhìn quanh, tôi thấy Bound cầm súng. Đầu súng gắn giảm thanh. Lửa mắt tôi nguội đi và buốt lạnh như bị đông thành băng tuyết.
“Tại sao…”
“Nó đã bay khỏi khu rừng.”
Tôi thành tuyết vì giọng của Bound.
“Ông nói vậy… Không lẽ những tiếng kêu mà tôi nghe được đều là…”.
“Tôi đã vì sự tự do của chúng mà làm cả cánh rừng rộng lớn. Chúng có thể bay lượn thoải mái. Thế giới ngoài kia quá nguy hiểm.”
“Bắn chết chim vì chim bay đi ư?”
Bound chẳng đáp, chẳng gật. Lặng lẽ nhét khẩu súng vào túi. Tôi choáng váng như bị bổ một búa.
“Đây là tự do mà ông nói ư? Ông nghĩ khu rừng này sẽ cho chúng tự do.”
“Phải!”
“Từ bỏ chiếc lồng nhỏ để bước vào chiếc lồng lớn hơn ư.”
“Không có chiếc lồng nào ở đây cả. Tiếng hót thánh thót là hạnh phúc.”
“Nếu đã hạnh phúc thì sao còn muốn bay đi.” Tôi ôm mặt – “Ông chỉ coi đám chim như một trò tiêu khiển.”
“Là ông nghĩ thế thôi. Tôi yêu chúng.”
“Khu rừng này sẽ cho chúng tự do, vậy tại sao chúng vẫn muốn bay khỏi đó. Tự do đâu chỉ giới hạn trong một bầu trời. Ông nói với tôi ghét sự trói buộc, vậy tại sao ông không tìm một con dao để cắt những sợi dây đó ra. Hay là… Ông vẫn muốn đứng một chỗ và đòi tự do trong ngục tù mình nắm quyền.”
Bound im lặng, khuôn mặt tỏ vẻ khó chịu.
“Sai cả rồi. Hai ta đều là những kẻ ngu muội. Chúng ta đã tự nhốt mình vào lồng mất rồi!” Tôi cười lớn. – “Muốn tự do sao không tự tìm lối…”.
Tôi nhét con chào mào vào túi áo ngực, và đi.
“Để tôi đưa ông về.” – Tiếng Bound ở sau.
“Phá lồng mà ra đi thôi.”
“Khoan đã…”.
Tôi cứ vậy đi. Bound nhìn về con đường. Ông ta nhìn rất lâu. Cánh rừng sau lưng ông ta. Những đôi cánh loay hoay trong đó. Quản gia đứng ở ngoài xe. Ông ta đang đợi một cái gật đầu để đưa chủ nhân của mình về.
Phía xa vẫn thấy cái chóp tòa dinh thự. Chóp cao như một ngọn tháp khuấy chọc trời xanh. Ngọn chóp cao hơn mọi thứ ở đây, nhưng dù dinh thự có to lớn hơn và đỉnh chóp được xây thêm, nhô đến những vì sao thì nó vẫn chỉ có thể đứng bất động một chỗ. Chân tòa dinh thự chôn sâu dưới đất và mãi đứng yên.
*
Quản gia dìu Bound lên xe và nổ máy. Bound với tay về sau. Bàn tay Bound huơ hoắng trên không, cứ thế với, cứ thế với. Cánh rừng ở xa quá rồi. Dinh thự đang gần kề trước mặt.
“Đứng lại…” – Bound nói. Xe dừng lại, một lúc, rồi chạy theo lệnh Bound.
“Đứng lại…” – Bound lại nói. Xe lại dừng, cũng một lúc, rồi chạy theo lệnh Bound.
“Đứng…” – Bound lại nói. Xe lại đi, cũng một lúc, rồi vẫn chạy theo lệnh Bound.
Sau nhiều lần ấn phanh, rồi lại thả phanh, xe đứng khựng lại. Trục trặc gì đấy liên quan đến động cơ. Quản gia vã mồ hôi, len lén nhìn chủ mình và thì thào rằng sẽ sửa lại xe. Bound lẩm bẩm. Quản gia nghe không rõ tiếng lẩm bẩm.
Quản gia mở cửa xe, lần tìm cốp xe cái gì đấy.
Bound còn trong xe. Bounb vẫn lẩm bẩm, ông lần tay vào túi ngực.
Súng cướp cò.
T.S
(TCSH332/10-2016)