THOA
Truyện ngắn THẾ LỮ
Thoa được chừng bốn tuổi thì cả nhà không còn hy vọng gì nữa. Cái buồn khổ cũng không cay độc lắm, vì họ đã dự biết từ lâu. Tuy trước đó, cha mẹ Thoa vẫn thường tự nhủ: “Con bé chậm nói cũng nên”, nhưng trong tiếng thở dài rõ ràng có ý chán nản. Họ lấy những trẻ chậm miệng nhất trong chỗ quen biết để làm chừng, đợi thêm tám, chín tháng nữa cho già hạn: Thoa chỉ ấm a ấm ứ chứ không thành một lời nào. Sau cùng ông bố nói lên trước nhất cái câu mọi người chỉ dám nghĩ thầm: “Con Thoa nó câm thực rồi”. Họ hàng nín giữ riêng lấy những lời bàn ra nói vào và cha mẹ Thoa cũng ít khi thở than. Người ta đã cam tâm chịu lấy cái tai họa.
Trong gia đình trước kia sung túc của ông Tú Đạt, Thoa từ đó khôn lớn một cách thầm lặng và nhún nhường. Cùng với hai chị và một anh, Thoa vẫn được chăm nom, song người ta coi Thoa như một cây cảnh thừa: tiện thể thì tưới bón, nhưng ý săn sóc vẫn là phần những cây khác cùng luống.
Anh và chị Thoa chú ý đến Thoa chỉ vì sẵn có kẻ để trêu ghẹo, nhưng chán rồi cũng để Thoa yên. Không dám tranh giành, lại hay bị bắt nạt, Thoa chỉ thủ thỉ một mình với những vật nhỏ mọn để làm đồ chơi: cái nút thủy tinh, những sợi dây gai, lọ dầu quất thần vứt đi, hay cái mẩu ấm chuyên vỡ. Những thứ ấy, cùng với những mảnh sành hoa, hòn sỏi nhẵn, cũng đủ cho Thoa giải trí được hàng ngày. Thoa đến một góc hiên, xếp hàng cả ra trước mặt, cầm lấy từng cái mà xem, miệng mím, mắt đen láy vui thích rồi vội vàng thu cải lại, lảng đi chỗ khác khi có bóng người. Thoa sợ nhất giờ anh chị đi học về. Lúc ấy thì những báu vật của Thoa đã giấu kín trong hộp sắt tây, và Thoa ngồi tráo mắt nhìn ra, lo sợ, nhưng quả quyết.
Bà mẹ là người tỏ ra thương hại Thoa hơn cả không mấy khi ở nhà, mải miết công việc buôn bán. Ông Tú cả ngày cầm sách nho giơ lên dưới tầm mắt kính và ngượng ngùng mỗi khi nhận thấy có Thoa ở gần. Có lẽ ông coi Thoa như ứng quả một điều bạc đức xa xôi. Dù sao Thoa không bao giờ được ông bố ngó ngàng tới nữa. Ông Tú không hay nói, lãnh đạm với mọi sự và mọi người. Từ hồi tiền của trong nhà kém sút và bà Tú phải xuôi ngược vất vả, ông bỏ mất tính giao du ngày trước, để hết tâm trí mỏi mệt vào tập sách nho và bộ ấm chén chè tàu. Con cái cùng với người nhà phải lặng lẽ xung quanh ông; ông không để ý đến ai. Nhưng riêng đối với Thoa, Thoa nhận thấy một sự tị hiềm mập mờ và dai dẳng. Bà Tú về nhà được một đôi ngày ít ỏi nào thì sự vui ấm dồn cả xuống nhà ngang rồi lại tất tả theo bà đi mất ngay. Thoa lại lui vào sống trong cái phận im lìm, cuộc đời như lẫn cùng bóng tối. Đứa bé nhận hiểu nỗi thiệt thòi từ khi khối óc ngây thơ bắt đầu có những ý tủi hờn. Thoa giữ địa vị con cái một cách kín đáo, một cách rụt rè, không biết đòi hỏi đã đành nhưng cũng không mong ước. Người ta cho gì thì nhận nấy. Bữa cơm Thoa không bao giờ đợi cho ai phải tìm gọi. Tắm rửa người ta giúp Thoa cho đến khi Thoa biết tự múc nước và dùng khăn lấy. Cái lược là vật châu báu kỳ ảo mà Thoa không hiểu sao anh chị mình coi thường. Thoa sớm biết mọi điều giữ gìn săn sóc đến mình như là để khỏi bận cho người khác. Chung đụng với Thoa trong khi ăn và trong lúc ngủ mà hai chị Thoa với anh Thoa như quên hẳn Thoa đi. Sự lơ đãng ấy là do sự cách biệt lạnh lẽo của người trong nhà này, mà cũng do thái độ đứa bé thiệt phận. Thoa khác nào cái im lặng mà Thoa giống tính chất: vẫn có đấy mà người ta ít khi nhận ra.
Cái bóng nhỏ bé và lủi thủi kia quanh quẩn trong khu vườn vây bọc lớp nhà cũ ở Hoàng Mai. Thoa không bao giờ bước ra khỏi cổng, cố ý tránh sự tò mò của người ngoài và cả của người hàng xóm. Họ hàng đã từ lâu thưa không qua lại. Khi nghĩ đến cái họa hiện đến nhà ông Tú, họ chỉ nhớ đứa bé ú ớ cái miệng ngoan ngoãn, hai trái đào đen và đôi mắt sáng – đứa nhỏ kháu khỉnh mà họ từng biết sáu, bảy năm đã qua.
Một lần, mẹ Thoa cùng về nhà với một bà cô lấy chồng tỉnh khác. Bà vừa vào đến cửa đã cất tiếng gọi, giọng đầm ấm và ngọt ngào:
– Đâu! Nào cháu út của cô đâu? Con câm đâu, ra đây với cô!
Bà lên chào ông Tú rồi mới xuống nhà ngang đợi. Mẹ Thoa giục gọi hai ba lượt mới thấy “con câm” ở chái hiên chậm chạp bước ra, tay buông xuôi người, mắt đen nhìn thẳng trân trân. Gần tới bà cô, Thoa chợt đứng lại.
– Tội nghiệp! Cháu tôi thế kia mà không nói được, Thoa lại đây với cô nào!
Những lời ân cần, hồn hậu vuốt ve Thoa cùng với một bàn tay êm dịu, Thoa để yên cho người ta vỗ về.
Lần ấy là lần đầu, Thoa nghe thấy người ta ôn tồn gọi cái tật của mình bằng cái tên rõ ràng. Nhưng tiếng “con câm” nói bằng giọng ít nhân từ hơn cũng đã lâu không làm phật lòng Thoa. Huống chi trong lời chân thực của người đàn bà này lại còn có những tiếng khen mà cũng lần đầu Thoa được nghe thấy. Thoa vẫn biết mình gọn gàng xinh đẹp. Thoa hiểu tự bây giờ rằng nhan sắc mình hơn hai chị, hơn cả chị lớn sắp được đi lấy chồng. Nhưng lời bà Đồ vẫn như là một điều chứng nhận khiến Thoa tin chắc giá trị mình và lấy làm hả hạ.
*
* *
Năm Thoa lên mười, ông Tú thình lình ốm nặng rồi chết. Trong hồi bận rộn khóc thương đó, Thoa thản nhiên ngồi xem, riêng hai mắt sáng đen linh động trước một cảnh mới lạ. Rồi theo hai chị mặc tang, theo người thân thuộc đưa ma, bắt chước lễ những bàn thắp hương cắm nến. Thoa vẫn khép nép mà dự vào một công việc quan trọng trong gia đình. Công việc xong, Thoa sẽ trở về với nơi câm lặng của Thoa. Cái chết của người cha để những dấu u ám nào trong tâm hồn kia? Có lẽ Thoa chỉ thấy một sự gì dìu dặt, nhẹ nhàng trong quạnh hiu, có lẽ Thoa chỉ thấy vắng ở chỗ thường ngày cái ông già nghiêm nghị buồn rầu, lúc nào cũng ngồi cạnh bàn trà và mắt đeo kính để xem sách.
Những kỷ niệm còn sót lại trong tâm tưởng Thoa hồi này là sự huyên náo của một nhà đám, những tiếng kể lể ai oán hỗn độn với tiếng kèn trống lần lần phai mờ, những người mặc toàn áo trắng loáng thoáng qua lại với những bộ mặt sụt sùi dưới mũ mấn, những con mắt đỏ hoe và thóc mách, xoi mói nhìn nét mặt và bộ dạng của Thoa… Chị Trâm lấy chồng vào đúng dịp này, nhưng đám cưới chạy tang ấy lẫn lộn vào đám hiếu. Thoa chỉ nhớ có người anh rể mà Thoa được trông thấy mấy lần trước khác lạ trong bộ tang phục và ngộ nghĩnh trong kẻ bơ vơ.
Những hình ảnh ký ức kia diễn hoạt hàng giờ đăm đăm in chìm của Thoa, cho đến ngày bà Tú không buôn bán nữa, bà trang trải xong công nợ, dọn một ngôi hàng nhỏ trao cho cô Xuyến, và nghỉ hẳn ở nhà. Lúc ấy bà Tú mới nhìn thấy rõ người con gái tội nghiệp của bà và lúc ấy Thoa mới được hưởng sự đầm ấm. Thoa vẫn tinh ý sớm, lòng thương yêu đủ cho hai người tìm cách hiểu nhau. Bà Tú bảo ban Thoa, dẫn dụ Thoa, thêm khéo cho cái tay thêu thùa nấu nướng đã sẵn tài. Bà ứa nước mắt thầm nhận thấy con gái mình có đủ cả nết, đủ thông minh và nhan sắc. Đôi mắt Thoa quấn quýt mẹ gồm tất cả mọi tinh ý cảm động ở đời. Thoa đổi khác hẳn trước. Nụ cười của nàng có duyên và rất linh hoạt, vẻ nhìn của nàng là lời nói mà bao giờ bà Tú cũng nghe thấy. Bà Tú thường vuốt tóc Thoa mà bảo: “Con châu, con bâu của mẹ đây!”. Cái tật không nói của Thoa pha những vị chua chát vào nỗi sung sướng của người mẹ nhân từ. Thoa thì không nghĩ ngợi gì, tươi tốt thỏa thuê như bông hoa gặp mùa nắng ấm.
Nhưng hạnh phúc của Thoa không bền. Bà Tú ở nhà được mấy tháng cũng lại thụ bệnh rồi mất. Thoa khóc nghẹn đến ngất đi, tỉnh dậy rú lên những tiếng đứt ruột. Thoa gieo mình ôm choàng lấy săng mẹ khi hạ huyệt và trên đường về, người ta phải ghì tay mà kéo một người con gái rũ rượi, hai mắt điên cuồng.
Thoa ốm liệt giường hơn tám tháng, ngẩn ngơ ngót hai năm nữa. Đau thương không khiến cho họ thân yêu nhau và Lạc, người con trai, vừa hỗn xược vừa lêu lổng. Những tiếng tăm người ta níu giữ từ trước được ùa chạy ra. Người ta nói đến quả báo từ những đâu đâu. Thoa còn nhỏ mà khôn ngoan hơn, lấy thế làm khổ sở nhất. Sự nghèo túng hiện đến mau chóng lạ. Lớp nhà trước còn đem cầm đỡ rồi sau bán hẳn. Người anh rể, chồng Trâm, không kịp can thiệp để ngăn đón những mưu mô lừa lọc của một người họ xa. Rồi Xuyến theo tình nhân, bạn của em trai nàng. Lạc cũng phiêu bạt chẳng biết tới đâu, mang theo số còn lại ở món tiền bán nhà mà hắn đòi giữ, Thoa trở nên gánh nặng cho người chị cả thanh bạch và đã có ba con.
*
* *
Thoa như hiểu ngay từ đầu sự gượng gạo của Trâm. Những lời tử tế quá phải lẽ Trâm nói khi đem Thoa về nuôi chỉ để tô điểm một cử chỉ không thể đừng được. Cho nên Thoa cố dọn lấy một lời kín đáo nhất trong cảnh ăn nhờ chị, Thoa tìm cách thu hẹp địa vị của mình lại, ẩn náu trong một sự ngừng lặng hết mực, để đỡ vướng bận mọi người, Thoa lựa lọc dần dà cho sự sống của Thoa nhẹ nhàng ăn khớp với cuộc đời mới.
Thoa khâu giúp chị, sắm sửa cho các cháu mà Thoa mến, nhưng chúng sợ không hay đến gần. Rồi Thoa được người ta đưa cho những kiểu áo len để đan, những mặt gối để thêu với những công việc may cắt nhỏ. Suốt ngày nọ sang ngày kia, Thoa ngồi ở một góc nhà, cúi đầu xuống kim chỉ và cũng như xưa ở với cha mẹ, Thoa khiến được người ta không nhắc nhở đến sự có mặt của mình.
Tháng năm qua đi, cùng với cuộc đời hoạt động bên ngoài. Người thiếu nữ cặm cụi vẫn ngồi mãi một nơi âm u và điểm vào những ngày lặng lờ của nàng một đôi tiếng thở rất nhẹ, rất dịu. Dưới khuôn mặt hòa đối kia, đẹp một vẻ thanh tao trầm tịch, không ai biết được có những nỗi niềm, những nguyện ước gì?
Thoa mười bảy tuổi rồi. Đôi mắt đen láy nhìn ra dưới cái vầng trán trắng mịn, đã làm cho những người vô tâm nhất cũng phải sững sờ.
*
Cái tết thứ hai sau năm hết tang mẹ, chị Trâm thêm vào số tiền Thoa kiếm được dần trong việc khâu đan đã mua cho Thoa một chiếc khăn nhung và một cặp áo xuyến. Thứ quà ấy là một thứ hảo tâm chợt có, nhưng cũng khiến người cho có một chút quý mến chân thành đối với người nhận. Còn Thoa thì sung sướng rõ ràng. Hôm đưa hàng về, chưa may thành áo, Thoa đã ướm đi ướm lại mãi, miệng rung rung phát một nét cười, đôi mắt loáng ướt. Sự vui vẻ của nàng biểu lộ vì biết bao ngày lặng khép, đã thấm vào lòng Trâm một thứ cảm động rất ngọt ngào.
Tết năm ấy người ta mới bớt quên Thoa. Một chút điểm trang cũng tôn hẳn nhan sắc nàng lên. Và cử chỉ tử tế của chị Trâm như đưa tới cho nàng một sự vỗ về cùng với những ý nghĩ sung sướng. Người thiếu nữ sớm trầm ngâm kia như trẻ hẳn lại. Miệng nàng, mắt nàng, và cả thân thể nàng là sự hớn hở tươi đẹp của tuổi ngây thơ. Trâm khen: “Cô ả khéo làm đỏm tệ!”. Trâm mỉm cười để giữ một câu không tiện nói đùa về việc chồng con Thoa. Dưới mắt ngắm nghía của chị, Thoa làm vẻ nũng nịu õng ẹo thêm. Nàng đi ra đi vào, lấy trầu mời Trâm, vẫy Trâm lại và sửa khăn cho nàng. Nàng chúm chúm và nghiêng đầu liếc Trâm. ôi! Giá Trâm hiểu biết được sự biết ơn của nàng trong đôi mắt chan chứa!
Lần thứ nhất nàng được Trâm đưa đi lễ chùa, đến nhà một vài người họ gần. Vị ấm áp của ngày vui cùng với những cảnh sắc linh động, còn lâu mãi sẽ là câu chuyện hứng thú để nàng rủ rỉ với riêng nàng. Thoa lại thấy đời sống đành phận của Thoa không phải chỉ một mầu tối lạnh như xưa nữa. Từ cái tết đáng yêu đó, một cột tươi hồng đã đánh dấu cho bước đời về sau.
Thoa dần dần được dự vào việc nhà của chị một cách gần gụi hơn. Mấy cháu Thoa đã không tránh xa nàng. Ngoài những lúc khâu vá, đan may, Thoa thường giúp chị công việc bếp nước. Trâm không hay gằn hắt xa xôi như trước nữa và cái bổn phận phải nuôi em, Trâm cũng đã thấy nhẹ nhàng hơn. Rồi xảy đứa con nhỏ của chị Trâm bị trận ốm nguy kịch, Thoa thương khóc và chăm nom hơn cả bố mẹ nó. Đứa bé khỏi, tình ruột thịt của hai chị em như đậm đà thêm. Trâm thấy nàng săn sóc bé Tuyên và thấy đứa trẻ quấn quýt Thoa đã nhiều lần bảo: “Thôi đấy, con của dì đấy. Tôi cho dì”. Thoa nhếch miệng cười, vẻ mặt lững lờ một ý tự phụ sung sướng. Chỗ ngồi của Thoa trong góc gia đình ấy không còn cô tịch lắm nữa. Thoa cũng không phải để tâm dè dặt và lo ngại như trước. Có được một chút yên vui bằng phẳng cũng là có hạnh phúc lớn rồi. Nếu đôi khi phải lúc Trâm bực mình thì tiếng da diết của nàng chỉ để trách hai đứa em vô luân thường không biết sống chết ở đâu. Nghe chị nhắc đến Lạc và Xuyến, Thoa nhắm miệng lại nhìn đi, kéo mạnh thúng khâu vào lòng và không ngửng lên nữa. Nàng tỏ ý ghét hai người ấy lắm: điều đó rất được lòng Trâm.
Việc buôn bán của người anh rể Thoa gặp được nhiều dịp may; hòa khí gia đình nhờ sự sung túc mà không sút kém. Thoa có đưa cho chị những số tiền nhỏ mọn mà công may cắt người ta trả nàng, thì Trâm từ chối với một ý rất kể cả, thấy lòng mình rộng rãi, có độ lượng với một cô em số phận hẩm hiu. Trâm lại được thứ tình cảm ngậm ngùi đến vuốt ve lòng như mỗi lần ái ngại cho em: Không! Trâm không thể nào không mến thương nó được.
Cái địa vị bé bỏng của Thoa thế là đã vững chắc. Ngày tháng gắn bó chặt thêm.
Nhiều sự xảy xa bên ngoài, Thoa đã chú ý đến: Thoa nghe kể lại những vui buồn ly hợp trong lúc trầm mặc đưa mũi kim hay lựa nhát kéo dưới tay. Thỉnh thoảng, người chị sẵn lòng hơn, lại bàn bạc với Thoa về việc sửa cho chồng con, hay về cách buôn bán. Thoa phần nhiều chỉ chịu chuyện hoặc ngỏ một vài ý kiến riêng bằng những cử chỉ giản lược vẫn là cách biểu diễn của nàng. Thoa rất khéo ra hiệu, và những điệu cần phô diễn không có gì lạ thường: đến cả những cháu của Thoa cũng hiểu được ngay. Hoặc giả nàng giấu giữ những điều khó nói?
Bốn, năm năm Thoa mới có thêm một bộ quần áo nữa và một đôi hoa tai, nữ trang vẫn là cái hạnh phúc đằm thắm nhất trong sự sống của nàng. Thoa xếp rất kỹ lưỡng trong cái hòm riêng của Thoa cùng những thứ chẳng ai biết là gì, nhưng xem chừng Thoa quý trọng giữ gìn rất cẩn mật. Khi rỗi rãi và nhà yên ắng, Thoa lại lúi húi xếp đi xếp lại những cái của báu trong hòm. Sự vui thích trẻ thơ cũng giống như ngày nào Thoa ngồi bày nút chai, những mảnh ấm để ngắm nghía. Vậy mà nàng đã trên hai chục tuổi. Thời gian và kỷ niệm không làm kém cái mầu xuân xanh trên khuôn mặt hiền dịu. Nhưng sự lặng lẽ của Thoa với những cử động quá chừng thong thả đã khắc sẵn những vẻ đúng mực của ngày già.
Qua một tết này, Thoa lại yên tâm đợi đến tết sau: chỉ có trong dịp ấy Thoa được nhiều kích thích êm ái nhất. Nàng trang điểm quá chừng cẩn thận, ngắm mình trong gương không có lúc ngớt, sửa đi sửa lại vành khăn không bao giờ vừa ý hay kéo lựa mãi cặp áo cho thực sóng là. Nàng tốn bao nhiêu công phu để lấy hết mực gọn gàng. Nhưng sự gọn gàng ở người thiếu nữ này là một vẻ đẹp lạnh lẽo. Tết năm nay cũng giống tết năm trước, mỗi năm một khô khan.
Con gái Trâm hồi ấy đã là một học sinh lớn, mới mẻ, bạo dạn và tươi cười. Thoa được cháu đưa đi chơi những cảnh đền chùa xa lạ nhất từ xưa tới nay, trong đó, khách đi lễ ngày xuân không phải chỉ là những người thành tín. Thoa trông thấy những thanh niên hớn hở, những đôi trai gái gần nhau mà không hề ngượng nghịu, đôi khi nàng lại bắt gặp những con mắt kín đáo nhận thấy nhan sắc của Thoa. Một chút hồi hộp có lẽ đã làm đôi má kia hồng thêm và những tết năm ngoái năm xưa đưa lại những tình cảm phơi phới cũ.
Thoa có nghĩ đến ngày mai của Thoa không? Tình duyên ở đời gợi những tư tưởng gì trong lòng người xấu số? Và những ngày dài nối tiếp nhau đi. Thoa ngồi trong câm lặng, tiếng thở dài của Thoa dịu nhẹ còn mang những ước mong tha thiết nào nữa chăng?
*
Năm Thoa hai mươi chín. Thoa đem cái áo cánh bông mới may ra mặc. Khi qua chiếc gương lớn, Thoa đứng lại nhìn mãi cái bóng mình. Nàng chậm chạp đưa hai tay áp má, thờ ơ vuốt xuôi xuống rồi ngơ ngác nhìn lại chung quanh. Trở về chỗ ngồi, đường kim của nàng lơ đãng hơn thường. Nàng cặm cụi suốt mấy ngày và nhiều lúc buông tay xuống một vẻ chán mỏi. Chị Trâm thì hết ngày hết tháng bận về việc cầm cái họ. Thằng Tuyên vẫn là đứa cháu út ít (Trâm đẻ hai bận nữa đều không đậu), nhưng Tuyên đã đi học và thôi quấn quít nàng. Gần nàng nhất bây giờ chỉ có Lan, cô cháu lớn nhất. Những ngày nghỉ, Lan hay ở bên dì, học cắt học thêu rồi lại bảo cho dì những mũi đan lối mới. Lan lại hay đem chuyện bà giáo, chuyện bạn gái trong trường về thuật lại với Thoa. Cả những chuyện tâm tình nữa. Ngày ngày Thoa coi chừng giờ tan học của Lan và bước chân Lan trở về; hai dì cháu lại to nhỏ với nhau, Thoa mỉm nụ cười mờ phai và Lan khúc khích phô cả miệng răng trắng muốt.
Đã có lần Lan nhí nhảnh bảo nàng: “Dì ạ, dì đừng giận cháu nhé, con Phương nó bảo cháu rằng dì đẹp lắm cơ. Nó muốn làm mối cho dì đấy”. Nàng lườm cháu, lấy cái thước đo lại, hoặc ướm mảnh áo len trên ngực, tay khẽ run. Nhưng nàng biết câu nói đùa, không giận cháu mà cũng không có vẻ tủi thẹn. Nàng thấy Lan vui thái quá, vui vẻ một ý khác thường. Nàng đưa mắt hỏi Lan thì chợt thấy cháu mơ màng xa xôi. Lan lảng chuyện bằng những câu đùa ghẹo Thoa. Nàng lại nguýt cháu và để cho những câu chuyện mối lái vu vơ kia giỡn cợt.
Sau đám cưới của một người trong họ, chị Trâm một tối kia ngồi lại bàn với nàng về việc nhân duyên của Lan. Có một người bạn buôn muốn hỏi Lan cho con trai, học trường thuốc. Thoa lựa chiều ngỏ ý mình và “nói” đến những quần áo cô dâu mà Thoa trông thấy ở một vài đám cưới gần xóm. Đêm ấy Thoa để đèn đến khuya, mở hòm xếp lại những cặp áo đẹp và ngắm những thứ nữ trang của mình.
Tết năm nay, Lan ít đi lễ với nàng nhưng Thoa được cô Phương và mấy bạn trai của Phương chào mình một cách mến mộ quá đáng. ở giữa những người lanh lẹn và bọn thiếu nữ giòn giã lộng lẫy kia, Thoa là một bậc nữ lưu cũ kỹ trong vẻ đẹp nhu mỳ, sự ngượng ngập của Thoa làm khô khan thêm dáng người gọn ghẽ.
Lan về nhà đòi dì thuật lại chuyện mà Lan đã nghe Phương kể từ trước. Lan reo cười khi nhận được những người mà Thoa mô tả và bình phẩm bằng lối nói riêng của nàng. Lan lại nói đùa dì, để tránh những câu Thoa hỏi về chàng sinh viên. Thoa mỉm cười luôn vì thấy nhiều câu ngộ nghĩnh.
Cho đến ngày Lan thôi học để về nhà chồng. Lan vẫn nhắc lại câu nói Thoa nghe đã quen nhưng không thấy nhàm – và cũng không đời nào tin.
– Không ngờ, đó là sự thực.
Một hôm, Lan ở ngoài hàng chạy vào ghé tai bảo nàng:
“Đấy, cháu có nói dối dì đâu, chả tin rồi chốc nữa dì hỏi đẻ cháu khắc biết”. Nhà ngoài chị Trâm đương tiếp chuyện một người khách đàn ông. Lúc Trâm đưa khách lên gác nói chuyện với chồng, nàng thấy một người mặc tây, chừng ba nhăm, bốn mươi tuổi, thong thả đi vào qua mép sân trên rồi dềnh dàng vừa trèo lên bậc thang gác vừa ngoảnh nhìn xuống. Lan máy: “Chú họ Phương đấy, dì ạ”. Rồi Lan khúc khích chạy coi hàng. Thoa bối rối, nhưng nhất định vẫn không tin. Nàng cố điềm nhiên ngồi đan cho hết một đường nữa, tháo ra đan lại mấy mắt lỗi, rồi sau cùng đặt len xuống thúng, giận Lan sao không trở vào. Chị Trâm ở trên gác dẫn người khách xuống. Thoa lại thấy mình bị người ấy chăm chú nhìn, nàng nghe trống ngực đập mạnh, cau mày cho đến lúc không còn bóng dáng người trong sân. Lâu lắm Lan vẫn không vào: hình như có tiếng Lan cười sau mấy câu mắng của mẹ.
Không, không có gì hết. Chỉ là câu chuyện đùa thôi, Lan dè dặt mấy hôm liền. Thoa cũng tỏ vẻ thờ ơ và chỉ mải miết với thúng khâu. Một tuần lễ qua. Nàng với Lan không nhắc đến người đàn ông. Đột nhiên một hôm giữa lúc nàng thử áo cho Lan thì người ấy lại đến.
Lần này Trâm đưa ông ta vào tiếp chuyện ở nhà trong. Nàng thản nhiên, nhưng giữ Lan lại không cho bỏ vội bộ áo mới thử. Ông khách đã đứng tuổi, đầu tóc mượt và thưa, vẻ mặt rắn rỏi, không linh hoạt lắm, dáng người vững chãi, nói năng và điệu bộ khoan thai. Thoa nghĩ bụng rằng ông ta là người tử tế – nhưng cái đó có quan hệ gì đến mình. Ông ta nhìn, Thoa không cảm động đâu, Thoa thấy chính ông ta như ngượng ngập thì có. Vả lại người ta đến đây cũng như bao nhiêu khách khứa vẫn đến… Lan nó sắp lấy chồng nên chỉ khéo ỡm ờ đấy thôi.
Chiều hôm ấy, Thoa thấy chị Trâm đến nhẩn nha hỏi Thoa về những đồ trang sức cho Lan. Rồi lựa lời bảo nàng: “Này em ạ, ông Phán Tấn, cái ông đến nhà lúc sáng ấy, mà ông ấy hiền lành tử tế lắm kia đấy, từ hôm nọ đến hôm nay cầu khẩn mãi anh chị để xin em…”.
Nàng hiểu rồi, hiểu ngay từ lời đầu tiên của Trâm kia, và không nghe thấy chị nói thêm gì nữa. Tất cả nỗi vui mừng dè giữ, nỗi sung sướng lo ngại, trong giây phút ấy thành hình rõ rệt, tươi đẹp và đôn hậu đến quấn quýt nàng. Thoa không còn một ý gì giấu giếm. Nàng cười bằng cả đôi mắt rất linh động của nàng, miệng hé ra một chút chờ đợi rồi ngậm lại, rồi đưa mắt ý nhị nhìn cái chỗ lúc trước người đàn ông đã ngồi. Nàng thấy một hạnh phúc mới, rạng rỡ nhất mà có lẽ nàng không bao giờ dám vương qua một chút tư tưởng, đến nay không phải là sự không có thể có được cho đời nàng. Thoa ứa nước mắt mà mặt vẫn tươi. Lần đầu tiên nàng tội nghiệp cho thân và hưởng một vị tủi cực thâm đậm.
Thoa biết thêm rằng ông Phán Tấn còn mẹ già và góa vợ sớm: ông ở vậy nuôi các con nhỏ (Thoa sẽ là mẹ đứa con với hết tấm lòng ấp ủ của nàng); ông Phán vừa chí thú, vừa là người quảng đại, tình cảnh của Thoa ông biết rõ và sẽ dành cho một địa vị chững chạc cũng như đợi ở Thoa một người vợ hiền. Việc hôn nhân này sẽ lặng lẽ thích hợp với cuộc đời hai người. Định hết tang bà cô, ông Phán sẽ xin cưới.
Ông Phán Tấn thỉnh thoảng lại đến chơi, rất lễ phép với nàng, và lời nói điềm đạm của ông sao mà có duyên thế! Thoa lại thấy ông có nhiều điều đáng quý mến, có một vẻ sang trọng quân tử ít người đàn ông sánh bằng.
Thoa sắm sửa cho Lan và nghĩ đến lúc chính mình về nhà chồng, nàng sẽ đem bao nhiêu tâm trí và khôn khéo ra để gây một gia đình rất êm đẹp. Những câu trêu chọc nàng từ đấy không cần giữ gìn nữa. Trước kia, dù là lời nói của Lan cũng vẫn có nhiều dè dặt để khỏi chạm ý Thoa. Bây giờ, nhiều khi Trâm đã dám nhắc đến cả tật câm của Thoa, khen mỉa một cảnh hòa thuận ít điều tiếng, Thoa cũng vẫn sung sướng. Càng có lời chế giễu, Thoa càng được cảm động một tình tứ dịu dàng.
Ngày Lan về nhà chồng, Thoa không từ chối làm một người trong họ nhà gái đưa dâu. Nàng mừng cháu một chiếc nhẫn vàng, công sức của bao nhiêu ngày tháng tằn tiện. Nàng được cháu biếu lại hai hộp phấn. Lan dạy nàng vẽ môi, thoa má và ép mãi nàng mới chịu tô điểm ngay trong dịp đó: ý nàng định dành việc son phấn cho những ngày khác quan trọng hơn.
Vắng Lan, Thoa đã thừa cách để khuây buồn. Nỗi lòng chờ đợi nhẹ nhàng, những cảm tưởng quý mến sau những lần Tấn đến chơi, những lúc trí nghĩ nàng tìm đoán cử chỉ của người đàn ông trong công việc hàng ngày: bằng ấy ý niệm đến làm cho những giờ cô quạnh của nàng được ấm cúng.
Gần đến tháng quyết định, thình lình bà cô Thoa ở Hải Dương chết. Thoa kiên tâm trước, nghĩ đến cái khoảng thì giờ phải đợi chờ thêm. Chưa đoạn tang cô, Thoa lại được tin bà thân sinh ông Phán Tấn ốm nặng. Chị Trâm đi thăm về nói bệnh tình bà cụ trầm trọng lắm, nhưng cũng tìm yên ủi Thoa để nuôi cái hy vọng cho chính mình Trâm. Chị Thoa cũng hết lòng mong cho nhân duyên cô em không đến nỗi trắc trở.
Tất cả sự quan tâm của Thoa cũng như của mấy người trong cuộc, đều dồn về nơi giường bệnh của bà già, Thoa hỏi chị về đường thuốc thang, nhờ chị kêu cầu giúp mình, và một lần, chẳng biết nghe ai mách, Thoa gửi bốn chục mua quế tốt để biếu mẹ Tấn. Chưa kịp gửi biếu, bà cụ đã tắt nghỉ. Chị Trâm phiền muộn ra mặt. Thoa không biết nghe, thiết nghĩ gì hết, ông Phán Tấn cảm động vì cái ý thảo của nàng lắm. Ông thưa đến hơn trước, nhưng mỗi lần có những lời gắn bó, Thoa cũng được vững lòng thêm.
Tâm hồn Thoa đã quen với sự thua thiệt từ trước rồi. Cái tang mới kia cũng là cái tang của Thoa, nàng lại sửa soạn tính tình để chịu lấy; nỗi trông mong và tính cẩn thận vẫn được nuôi dưỡng một bên, Thoa dè chừng trước một đôi cái tang nữa trong họ gần, họ xa để ngộ việc đến thực thì nàng có sẵn sức gánh nặng. Nàng cũng dự tưởng cả đến lúc nàng hay ông Phán Tấn đau ốm, hoặc quá ra nữa, người đàn ông sẽ gặp tai nạn gì thảm khốc hơn.
*
Điều nàng không ngờ nhất lại xảy đến.
Ông Phán Tấn phải đổi đi Sài Gòn. Đâu thế nhỉ?
Nhưng sự cách biệt hẳn xa lắm và nguy hiểm lắm theo vẻ lo ngại của Trâm. Lời ông Phán lúc đến chào đôn hậu và thực thà. Ông nói mấy câu với nàng, tiếng ngượng nghịu và hơi run run khiến cả tâm hồn nàng ngan ngát ảo não.
Hôm ông lên đường, vợ chồng Lan và cô Phương đến rủ nàng ra ga tiễn nhưng Thoa khẽ lắc đầu, tuy mắt nàng lộ hết cả ý muốn. Thoa ngồi ở nhà, tưởng đến đoàn tầu hỏa chạy biến về một phương mù mịt. Nàng nghẹn mãi ở cổ nuốt khan bọt, và thấy nước mắt nhỏ nóng trên bàn tay.
Bức thư thứ nhất của Tấn gửi về một tháng sau có những lời thăm hỏi riêng, xoa dịu đau thương của lòng nàng. Nàng mượn lấy tờ giấy quý hóa kia để nhìn những chữ mà nàng không biết đọc. Thoa cất thư xuống một góc thùng và chờ lúc vắng, vẫy gọi đứa cháu nhỏ đến đọc lại cho nàng nghe. Tin tức của người đàn ông về đều được hơn một năm, do những bức thư lời lẽ đơn sơ trung hậu. Rồi có lẽ công việc bận – Tấn nói phải coi nhiều việc quan trọng lắm – thư gửi về thưa dần. Sau cùng, chỉ gần tết, anh rể Thoa nhận được một tấm danh thiếp chúc mừng cả nhà.
Chờ đợi hết năm nọ qua năm kia để thấy những lời lẽ phép hờ hững. Thoa vẫn không tỏ thái độ nào khác lạ, sự im lặng của nàng hòa vào những tháng ngày bình tịnh và người đàn bà ấy héo hắt chậm chạp trong một đời lu mờ.
Tin tức của Tấn bẵng hẳn rồi.
Cái tang cay nghiệt đã hết hạn từ lâu.
Trâm đã trở nên bà, và bận lo về việc cưới vợ cho con trai. Anh rể Thoa giàu có và mệt mỏi, suốt ngày ở trên gác nghỉ ngơi bên bàn đèn. Nhân duyên trắc trở của Thoa người ta quên cũng đã lâu: đời hớn hở bình yên dễ dàng cởi bỏ những vướng bận. Chỉ lòng Thoa còn nhớ. Đôi mắt trông xa của nàng vẫn còn mong ước. Nàng bao giờ cũng thuận theo và chịu lấy cái nỗi đời khe khắt, nhưng hình như vẫn chờ đợi một sự may mắn vu vơ nào.
Nhưng bước đi thong thả ngày một nặng nề thêm, mắt trông lỗ kim đã không đủ rõ. Thoa đã hay mệt yếu, và cái miệng ngậm lại đã phảng phất hai nét hằn khóe môi. Ngày tết, trang điểm vẫn là một việc êm ái nhất của Thoa. Vẻ mặt đã hơi cũ kĩ trên thân hình và trong dáng điệu nàng. Thoa đi lễ một mình, đến chơi với vợ chồng Lan, cho con Lan những áo mũ đã để dành hồi trong năm. Rồi về đến nhà Thoa ngồi bên cơi trầu, chúm chím nghe chuyện bọn cháu đến vây quanh và xem chúng tíu tít nhận tiền nàng mừng tuổi. Mấy năm gần đây, năm nào cũng chỉ thế. Hết tết nàng lại gọn gàng xếp vào hòm những bộ quần áo bao giờ cũng còn mới, khóa kín lại với một vẻ trân trọng trong cử chỉ, rồi lại trở lại chỗ công việc mộ điệu của nàng.
Tháng hai năm ấy, Thoa đã bốn mươi mốt. Một người bạn ở xa về chơi với vợ chồng Trâm. Mắt Thoa tươi sáng lên khi nghe nói người ấy ở Sài Gòn ra. Nàng nhẹ tay đặt kim chỉ xuống nhìn ông ta với một cảm tình không che đậy. Không biết chuyện của Thoa và cũng không hiểu những dấu hiệu riêng Trâm định cản lại, người ấy tình cờ nói đến Tấn, cho vợ chồng Trâm biết rõ cái điều hai người đã ngờ từ lâu. Tấn lấy được người vợ giàu ở Chợ Lớn, đã thôi đi làm để buôn bán được mấy năm nay rồi. Chị của Thoa nhìn lại phía em thì thấy nàng hơi cúi đầu, khuôn mặt bình tĩnh nhưng nước da xanh một màu đáng sợ. Trâm vội để chồng ngồi với khách, lại gần hỏi Thoa. Nàng thản nhiên ngẩng nhìn chị, cười một nụ cười lạnh lẽo và đưa tay trỏ cuốn chỉ để Trâm lấy lại giùm. Đêm ấy Trâm thức dậy, thấy em còn lịch kịch xếp dọn mãi bên đèn. Trâm không hiểu, lo ngại một sự gì mập mờ không dám ngủ lại nữa. Sáng hôm sau, nàng thấy em hốc hác ngồi rũ trên góc phản, thúng khâu và những vải sợi ở đó chỉ để làm vì. Mọi người trông thấy Thoa già tọp hẳn đi.
Mười mấy năm ấy vừa qua trong không đầy nửa tháng. Sự thất vọng ghê gớm của nàng khiến cả nhà kinh ngạc. Thế ra Thoa vẫn mong đợi Tấn thực sao? Thoa bấy lâu không ngờ vực gì sao? Thái độ lãnh đạm của Tấn đã cho mọi người biết sự cố nhiên, trừ có riêng nàng. Hay người ta có thể giữ một ảo tưởng đến bậc đó?
Dẫu sao, Thoa cũng đã đến lúc biết sự thực. Tất cả năng lực tinh thần của nàng sụp đổ ngay một lúc cùng với chút nhan sắc còn giữ lại được ở thân hình nàng. Trong tấm áo bông đen, dài, Thoa co ro và ngơ ngác không thiết gì đến công việc, hàng giờ ngồi nhìn sững quãng không. Trâm thương em có lẽ chưa bao giờ bằng hồi ấy. Nàng săn sóc coi chừng từng li từng chút, và khi thấy Thoa không gượng dậy được nữa, Trâm lao sức đi lo thuốc thang cho em. Thoa không để nài ép bao giờ, ngoan ngoãn đón lấy sự săn sóc của chị. Nàng mỉm những nụ cười ủ rũ mỗi khi Trâm thăm hỏi, đôi mắt cám ơn. Nàng uống cạn những chén thuốc Trâm đưa tới, cố nuốt những bát cháo Trâm dỗ nàng ăn. Lúc nào Thoa cũng dịu dàng, cũng vâng theo, cho đến khi nàng không còn đủ sức để làm vui lòng chị nữa.
Công chạy chữa đã thành vô hiệu lực. Trâm khóc và gạn hỏi, nhưng Thoa không tỏ một ý muốn giối giăng gì.
Nàng phải nằm tất cả tám ngày, bệnh kịch chỉ có nửa ngày và nửa đêm, lúc hấp hối cũng rất mau chóng.
Trong cái hòm mà ngày sống Thoa giữ gìn rất cẩn mật, không cho ai được động vào, Trâm thấy dưới đám áo quần tất cả vốn liếng của cải của em, tám chục bạc gói trong vuông nhiễu điều, những đồ chơi trẻ con của Thoa hồi xưa gói trong cái khăn tay thêu đầu tiên, cái lược gãy của Lạc, em trai nàng, cái đọn tóc của em gái, cái ruột tượng đũi của bà mẹ, một hộp con đựng mẩu mực, tháp bút, cái kính trắng của ông Tú vứt bỏ cùng với một quyển sách chữ nho mỏng gấp đôi. Kỷ vật của các người thân mà có lẽ nàng vẫn yêu vẫn nhớ suốt đời trong sự lặng lẽ của nàng.
Riêng trong một túi bằng gấm lớn khâu theo kiểu phong bì, mấy thứ hàng lụa nàng định mặc khi lấy chồng, một cái lược ngà Trâm mua cho nàng, mấy bức thư Tấn gửi cho vợ chồng Trâm và mấy tấm danh thiếp. Trâm bỗng chú ý đến một tờ giấy gập nhỏ, màu mực khác, trên đó có một vài câu rập xóa trong những hàng sau này:
“Cậu mợ tôi gởi lời thăm ông được bình yên. Từ ngày ông đổi vào Sài Goòng, cậu mợ tôi vẫn thường nhắc ông luôn. Dì tôi cũng bảo tôi gởi lời hỏi thăm ông và anh bé. Dì tôi gởi vào làm quà cho anh bé hai tá mù- xoa lụa, một cái nhẫn mặt ngọc và một đôi áo len”.
Thì ra tờ ráp một bức thư. Nét chữ của Tuyên. Thư đề ngày 12 tháng 4 năm 1920: tám năm rồi. Biết bao nhiêu đắn đo, bao nhiêu công phu trước khi nàng gửi được bức thư ấy.
1943 – Thế Lữ