“Anh muốn thế nào cũng được. Nhưng anh sẽ thấy rằng con người không phải là con người hoặc anh không biết con người như thế nào hết.”

 

9.
Khi Klara kể xong chuyện của mình theo lối đứt đoạn và không được rõ ràng lắm, tôi nói với nàng: “Em thấy chưa, chúng ta gặp may rồi!”.

Nhưng nàng lại òa lên khóc: “Sao chúng ta lại gặp may được? Nếu hôm nay họ không tìm thấy em, thì ngày mai họ sẽ tìm thấy.”

– Anh muốn biết bằng cách nào.

– Họ sẽ đến tìm em ở đây, ở nhà anh.

– Anh sẽ không mở cửa cho ai hết.

– Thế nếu họ gọi cảnh sát? Nếu họ cứ khăng khăng bắt anh phải nói em là ai. Bà ấy đã nói sẽ kiện, bà ấy tố cáo em đã vu khống chồng bà.

– Thôi nào em! Anh sẽ biến bọn họ thành trò hề lố bịch. Tất cả chỉ là một lời đùa thôi.

– Thời này không phải thời của đùa cợt, người ta coi mọi chuyện đều nghiêm túc và đầu tư thời gian vào đó; họ sẽ nói là em cố tình muốn bôi nhọ thanh danh của họ. Khi người ta nhìn thấy ông ấy, làm sao người ta có thể tin là ông ấy muốn quyến rũ một người phụ nữ?

– Em có lý, Klara, – tôi nói, – có lẽ chúng ta phải dừng lại thôi.

– Anh nói vớ vẩn quá, – Klara trả lời. – Anh biết là em phải cẩn thận. Đừng quên bố em là ai. Rằng nếu em bị triệu tập đến một hội đồng xử phạt, ngay cả chỉ để điều tra, hồ sơ của em sẽ có vết ngay và sẽ không bao giờ em thoát được cái xưởng may đó. Nhân tiện, em cũng muốn biết cái nghề người mẫu mà anh hứa với em, chuyện đó đến đâu rồi? Với cả em cũng không muốn đến ngủ đêm ở nhà anh nữa, ở đây em sợ người ta đến tìm em, em sẽ quay về Celakovice.

Đó là cuộc tranh luận đầu tiên trong ngày.

Trong ngày còn có một cuộc tranh luận khác nữa, ngay buổi chiều, sau cuộc họp giáo viên khoa.
Ông trưởng khoa, sử gia nghệ thuật tóc muối tiêu, một con người rộng lượng, bảo tôi vào văn phòng của ông.

– Bài nghiên cứu mà anhvừa cho in cải thiện tốt tình hình cho anh đấy, tôi hy vọng là anh biết điều đó chứ? – ông nói với tôi.

– Có, tôi có biết, – tôi trả lời.

– Ở đây, ở trường, nhiều giáo sư cảm thấy bị chĩa mũi dùi và ông hiệu trưởng cho là đó là một đòn tấn công nhằm vào các ý kiến của ông ấy.

– Thế tôi có thể làm gì? – tôi nói.

– Không gì hết, – ông giáo sư trả lời. – Nhưng các trợ giảng được bổ nhiệm trong vòng ba năm. Đối với anh, thời kỳ đó đã sắp sửa hết, và vị trí đó sẽ được giao thông qua thi tuyển. Dĩ nhiên hội đồng có thói quen giao chỗ đó cho người nào đã từng dạy ở trường, nhưng anh có chắc là người ta sẽ tiếp tục làm như vậy với trường hợp của anh không? Nhưng đó không phải là điều tôi muốn nói. Cho đến hiện tại, vẫn có một điều có lợi cho anh: anh dạy hay, anh được sinh viên yêu quý, và họ học được điều gì đó từ anh. Nhưng anh không thể trông chờ vào đó đâu. Hiệu trưởng vừa thông báo với tôi là anh đã không đi dạy trong suốt ba tháng và điều đó thì không thể biện hộ được. Đó là một lý do đầy đủ để đuổi việc anh ngay lập tức.

Tôi giải thích cho ông giáo sư là mình đã không hề bỏ một giờ dạy nào, rằng tất cả chỉ là một chuyện đùa và tôi kể cho ông nghe toàn bộ cậu chuyện về ông Zaturecky và Klara.

– Tốt lắm, tôi tin anh, – ông giáo sư nói, – nhưng việc tôi tin anh không thay đổi được gì hết. Bây giờ cả trường người ta kháo nhau là anh không đi dạy rồi. Vấn đề đã được bàn ở hội đồng khoa và hôm qua đã lên tới ban giám hiệu.

– Nhưng tại sao người ta không nói với tôi về chuyện đó từ trước?

– Anh muốn người ta nói gì với anh nào? Tất cả đều rất rõ ràng đấy chứ. Bây giờ, người ta đang rà lại toàn bộ hạnh kiểm của anh trong quá khứ và tìm mối liên hệ giữa quá khứ của anh và thái độ hiện tại của anh.

– Người ta có thể tìm thấy điều gì xấu trong quá khứ của tôi? Chính ông cũng biết là tôi yêu nghề đến thế nào. Tôi chưa từng bỏ dậy một lần nào. Lương tâm tôi trong sạch.

– Đời ai cũng có vô vàn ý nghĩa, – ông giáo sư nói. – Tùy thuộc vào cách mà người ta trưng nó ra, quá khứ của bất kỳ ai trong chúng ta đều có thể trở thành đời của một nguyên thủ quốc gia được yêu quý hay của một tên tội phạm. Hãy xem thử trường hợp của chính anh mà xem. Người ta không thấy anh đến dự các cuộc họp nhiều lắm, và ngay cả khi anh đến, phần lớn thời gian anh im lặng. Không ai có thể biết thực sự anh nghĩ gì. Tôi còn nhớ, khi đang thảo luận về những vấn đề nghiêm túc bỗng nhiên anh lại nói một câu khôi hài làm người khác phải nghi ngờ. Người ta quên ngay những nghi ngờ đó, nhưng hôm nay, khi người ta coi xét lại quá khứ, đột nhiên chúng sẽ mang một nội hàm chính xác. Hoặc là, anh hãy nhớ đến tất cả những người phụ nữ mà anh bảo thư ký trả lời là anh không có ở đó! Hoặc là, hãy xem riêng bài nghiên cứu gần nhất của anh, ai cũng có thể khẳng định nó được viết ra vì những tư tưởng chính trị đáng ngờ. Tất nhiên, đó chỉ là những sự việc riêng biệt; nhưng thế cũng đủ để kiểm tra chúng theo ánh sáng của tội lỗi hiện nay của anh để tất cả chúng tạo nên một tổng thể gắn bó minh họa hùng hồn cho đầu óc và thái độ của anh.

– Nhưng tội lỗi nào! – tôi kêu lên. – Tôi sẽ công khai giải thích mọi việc đúng như chúng đã diễn ra; nếu con người thực là con người, họ sẽ chỉ có thể cười mà thôi.

– Anh muốn thế nào cũng được. Nhưng anh sẽ thấy rằng con người không phải là con người hoặc anh không biết con người như thế nào hết. Họ sẽ không cười đâu. Nếu anh giải thích mọi chuyện cho họ như là chúng đã diễn ra, họ sẽ không chỉ không coi là anh rũ sạch được trách nhiệm của mình như được viết trong thời khóa biểu, nghĩa là anh đã không làm cái mà anh phải làm, mà, trên thị trường, anh đã đi dạy một cách bí mật, nghĩa là anh đã làm điều mà anh không được phép làm. Sau đó người ta sẽ cho là anh đã sỉ nhục một con người có việc nhờ anh giúp đỡ. Người ta sẽ cho là anh sống một cuộc đời trác táng, rằng một cô gái trẻ sống ở nhà anh mà không khai báo, điều đó sẽ gây ra một ấn tượng cực kỳ xấu đối với bà chủ tịch hội đồng khoa. Chắc chắn mọi chuyện sẽ ầm ĩ và Chúa mới biết người ta sẽ đồn đại gì, trong sự hả hê của tất cả những người ghét anh vì những ý kiến của anh nhưng lại thích tấn công anh bằng những cái cớ khác.

Tôi biết là ông giáo sư không tìm cách làm tôi sợ, cũng không định khiến tôi phạm sai lầm, nhưng tôi kết luận ông là một người khác người và không muốn nhường đường trước sự hoài nghi của ông. Chính bản thân tôi đã trèo lên con ngựa này; do đó tôi không thể chấp nhận ông cầm cương từ tay tôi và dẫn tôi đến nơi mà ông cho là tốt. Tôi đã sẵn sàng cho cuộc chiến đấu.

Và con ngựa không từ chối cuộc tranh đấu. Về đến nhà, tôi tìm thấy trong hòm thư một tờ giấy triệu tập cuộc họp ủy ban dân phố.

10

Ủy ban dân phố ngồi xung quanh một cái bàn dài trong một cửa hiệu đổ nát. Một người đàn ông tóc muối tiêu, đeo kính và cằm lẹm, chỉ cho tôi một cái ghế. Tôi cảm ơn, tôi ngồi xuống và ông bắt đầu nói với tôi. Ông thông báo với tôi là ủy ban dân phố đã để ý đến tôi từ lâu nay, rằng họ biết rõ tôi sống một cuộc đời trác táng, điều đó tạo nên một ấn tượng xấu cho xung quanh; rằng những người thuê nhà nơi tôi sống đã phàn nàn là không thể chợp nổi mắt cả đêm vì tiếng ầm ĩ phát ra từ phòng tôi; rằng tất cả những điều đó đã là đủ để người ta có được một nhận xét đúng đắn về tôi; và nhất là, nữ đồng chí Zaturecky, vợ của một người lao động khoa học, vừa cầu xin sự giúp đỡ của ủy ban dân phố: từ sáu tháng nay tôi phải viết một bài tóm tắt công trình khoa học của chồng bà mà không chịu làm, dù biết rất rõ là số phận của công trình đó nằm trong tay tôi.

– Tôi thấy khó mà coi đó là một công trình khoa học, đó là một mớ hổ lốn các loại ý tưởng cóp nhặt! – tôi ngắt lời người đàn ông cằm lẹm.

– Thật là lạ, thưa đồng chí, – một người đàn bà trạc ba mươi tuổi mặc đúng mốt can thiệp với một nụ cười sáng bừng dán chặt (có vẻ như là một lần là xong) lên khuôn mặt. – Cho phép tôi hỏi anh một câu: chuyên môn của anh là gì?

– Lịch sử nghệ thuật.

– Thế chuyên môn của đồng chí Zaturecky là gì?

– Tôi không biết. Có thể ông ấy làm cùng lĩnh vực với tôi.

– Anh thấy không, – người đàn bà tóc vàng kêu lên và nhiệt tình quay về phía các thành viên khác của ủy ban, – với đồng chí đây một người lao động khoa học cùng chuyên môn không phải là đồng chí mà là một người cạnh tranh.

– Tôi nói tiếp, – người đàn ông cằm lẹm nói. – Nữ đồng chí Zaturecky đã nói với chúng tôi rằng chồng bà đã đến nhà cậu và gặp một cô gái. Có vẻ như là sau đó cô gái đó đã vu khống ông ấy với cậu, nói rằng đồng chí Zaturecky tìm cách quấy rối tình dục với cô ta. Nữ đồng chí Zaturecky có thể đưa ra những bằng chứng không thể chối cãi cho thấy chồng của bà không thể là tác giả của hành động đó. Bà muốn biết tên cô gái đã vu khống chồng bà và kiện lên hội đồng luật pháp của Ủy ban quốc gia, bởi vì lời vu khống đó có nguy cơ làm hại đến chồng bà và khiến ông mất đi các phương tiện sống.

Dù sao tôi cũng cố thử một lần nữa tách vụ việc khỏi sự quá đà của nó: “Nghe này, đồng chí, – tôi nói, – tất cả những điều đó không đáng đâu. Công trình mà chúng ta đang nói kém đến mức sẽ không ai nhận quảng cáo, chứ không chỉ mình tôi. Và nếu có nảy sinh một hiểu lầm giữa cô gái đó và ông Zaturecky thì đó cũng không phải là lý do để triệu tập cả một cuộc họp thế này.”

– Thật may mắn, thưa đồng chí, cậu không phải là người quyết định có tổ chức những cuộc họp của chúng tôi hay không, – người đàn ông cằm lẹm trả lời. – Và nếu bây giờ cậu cứ cố tình nói công trình của đồng chí Zaturecky không đáng một xu, thì cần phải xem cái đó như là một đòn trả thù. Nữ đồng chí Zaturecky đã cho chúng tôi đọc một lá thư mà cậu viết cho chồng bà ấy sau khi biết về công trình của ông.

– Đúng vậy. Nhưng trong lá thư đó tôi không hề nói về chất lượng của nghiên cứu đó.

– Chính xác. Nhưng cậu đã viết cho đồng chí Zaturecky là cậu sẽ sẵn sàng giúp đỡ ông ấy; và rõ ràng là khi đọc lá thư đó có thể thấy cậu đánh giá cao công trình của ông ấy. Thế mà bây giờ cậu lại nói đó là một mớ hổ lốn. Tại sao cậu không viết cho ông ấy ngay sau đó? Tại sao không nói thẳng cho ông ấy?

– Đồng chí thật là người hai mặt, – người đàn bà tóc vàng nói.

Lúc đó một người đàn bà đứng tuổi tóc phidê can thiệp vào cuộc nói chuyện; ngay lập tức bà ta đề cập đến bản chất vấn đề: “Chúng tôi muốn đồng chí nói cô gái mà ông Zaturecky gặp ở nhà đồng chí là ai.”

Tôi hiểu là rõ ràng mình không còn đủ sức cứu câu chuyện này khỏi bị chụp cái mũ nghiêm trọng phi lý đó, và chỉ còn lại một lối thoát duy nhất: làm rối tinh các dấu vết, tách những người này xa ra khỏi Klara, đánh lạc hướng họ khỏi nàng, như con gà gô đánh lạc hướng con chó săn khỏi tổ của mình và chịu bị ăn thịt để cứu lũ con.

– Thật tệ, – tôi nói, – nhưng tôi không nhớ nổi tên cô gái đó nữa.

– Sao cơ? Cậu không nhớ tên cô gái mà cậu đã sống chung? – người đàn bà tóc phidê hỏi.

– Anh có vẻ có tư cách mẫu mực đối với các cô gái đấy, đồng chí ạ, – người phụ nữ tóc vàng nói.

– Có thể là tôi nhớ được, nhưng phải nghĩ đã. Hôm ông Zaturecky đến gặp tôi là ngày nào nhỉ?

– Đó là… đợi tí, – người đàn ông cằm lẹm nói và nhìn vào đống giấy tờ của mình. – Ngày 14, tức là buổi chiều thứ Tư.

– Thứ Tư ngày 14… Hượm đã…- tôi lấy hai tay vò đầu và suy nghĩ. – Được rồi, tôi nhớ ra rồi. Đó là Hélène. – Tôi nhận thấy tất cả đang nuốt từng lời của tôi.

– Hélène… Được rồi, rồi sao?

– Rồi sao? Thật không may là tôi không biết gì cả. Tôi không muốn hỏi cô ấy. Nói đúng ra thì tôi cũng không thật sự chắc đó có phải là Hélène hay không. Tôi gọi cô ấy là Hélène bởi vì tôi thấy chồng cô ấy tóc đỏ hệt như Ménélas. Tôi làm quen với cô ấy vào tối thứ Ba trong một sàn nhảy và nói được vài lời với cô khi Ménélas đi lấy một ly cognac ở quầy. Cô ấy đến gặp tôi vào ngày hôm sau và buổi chiều ở lại nhà tôi. Khoảng buổi tối, tôi phải để cô ở lại nhà một mình khoảng hai tiếng để đi họp ở trường. Khi về nhà, cô ấy rất tức tối, nói là có một ông đến và đề nghị khiếm nhã với cô. Cô tin là tôi thông đồng với ông ta, cô cảm thấy bị xúc phạm và không muốn nghe tôi nói gì nữa cả. Thế nên, các ông các bà cũng thấy đấy, tôi còn không có đủ thời gian để biết tên thật của cô ấy nữa.

– Đồng chí, dù điều anh vừa kể đúng hay sai, – người phụ nữ tóc vàng nói, – thì tôi cũng thấy không thể hiểu được làm thế nào mà một người như anh lại có thể dạy dỗ bọn trẻ được. Làm thế nào mà cuộc sống tại đất nước chúng ta chỉ khuyến khích anh uống rượu và quyến rũ phụ nữ? Hãy chắc rằng chúng tôi sẽ nói ý kiến của mình về điểm này cho những người có thẩm quyền.

– Người gác cửa không hề nói cho chúng tôi về ai tên là Hélène hết, – người đàn bà tóc phidê nói xen vào, – nhưng ông ấy nói là từ một tháng nay cậu chứa chấp một cô gái mà không khai báo, cô ta làm việc tại một xí nghiệp may. Đừng quên cậu đang thuê lại nhà nhé, đồng chí! Cậu nghĩ là có thể cho ai thuê lại cũng được hết à? Cậu coi nhà là động đĩ à? Nếu cậu không muốn cho chúng tôi biết tên của cô ta, cảnh sát sẽ biết cách để tìm ra.

11

Mặt đất chao đi dưới chân tôi. Chính tôi bắt đầu cảm thấy bầu không khí không có lợi mà ông giáo sư đã nói với tôi. Chắc chắn là chưa ai bị triệu tập, nhưng tôi đã nghe đây đó những lời ám chỉ và Madame Marie, nghe ngóng từ những lần uống trà tán chuyện của các giáo sư tại phòng bà, đã thông cảm cho tôi biết một số thông tin. Ban giám hiệu sẽ họp trong vài ngày tới và sẽ tiếp nhận mọi ý kiến và đánh giá; tôi tưởng tượng ra cảnh các thành viên ban giám hiệu đang ngồi đọc báo cáo của ủy ban dân phố, cái tờ giấy mà tôi chỉ biết một điều duy nhất: nó bí mật và tôi không thể nhận xét gì về nó hết.

Trong đời có những lúc phải vừa lùi bước vừa chiến đấu. Khi đó phải bỏ những vị trí ít quan trọng nhất để giữ lại cho được những vị trí thiết yếu. Với tôi vị trí then chốt dường như là tình yêu của tôi. Phải, trong những ngày nhiều biến động đó, đột nhiên tôi bắt đầu hiểu ra là tôi yêu cô thợ may của tôi, rằng tôi thật sự yêu nàng.

Ngày hôm đó, tôi hẹn gặp nàng trước một nhà thờ. Không phải ở nhà. Bởi vì nhà có phải là nhà đâu? Một căn phòng tường lắp kính bốn bên có phải là một ngôi nhà không? Một căn phòng mà những người quan sát nhòm ngó bằng ống nhòm? Một căn phòng mà bạn phải giấu giếm người đàn bà mà bạn yêu như giấu một món hàng lậu?
Thế cho nên ở nhà chúng tôi không phải ở nhà chúng tôi. Chúng tôi có cảm giác là những kẻ đột nhập đã chui vào một vùng đất lạ và có nguy cơ bị tóm bất cứ lúc nào, chúng tôi mất bình tĩnh ngay khi có tiếng bước chân vang lên trong hành lang, lúc nào chúng tôi cũng nghe có tiếng người gõ cửa, gõ thật dai dẳng. Klara đã trở về Celakovice và chúng tôi không muốn gặp lại, dù chỉ một lúc ngắn, tại nhà của chúng tôi mà giờ đã trở nên xa lạ. Chính vì thế tôi đã nhờ một anh bạn họa sĩ cho mượn xưởng vẽ của anh buổi tối. Và ngày hôm đó là lần đầu tiên anh giao chìa khóa cho tôi.

Thế là chúng tôi lại được ở trong nhà, trong một căn phòng rộng mênh mông với một chiếc đivăng nhỏ và một cửa sổ rộng nghiêng vào trong, từ đó có thể nhìn thấy cảnh Praha trong ánh sáng buổi tối; giữa một đống tranh dựa dọc tường, trong sự bẩn thỉu và lộn xộn vô lo của nhà nghệ sĩ này, tôi đột nhiên tìm lại những ấn tượng xưa cũ của mình về tự do dịu dàng. Tôi nằm thoải mái trên đivăng, lấy cái mở nút chai mở chai rượu vang. Tự do và vui vẻ, tôi nói huyên thuyên và tận hưởng buổi tối đẹp đẽ và buổi đêm đẹp đẽ mà chúng tôi sắp có.

Chỉ có điều, nỗi hoảng sợ vừa rời khỏi tôi lại rơi uỵch xuống Klara.

Tôi đã nói là nàng đã đến ở nhà tôi không chút đắn đo, thậm chí còn với vẻ tự nhiên nhất trên đời. Nhưng giờ đây khi chúng tôi đang ở một lúc trong một xưởng vẽ lạ, nàng lại cảm thấy khó chịu. Thậm chí còn hơn là khó chịu. “Em thấy nhục nhã,” nàng nói.

– Điều gì làm em thấy nhục nhã? – tôi hỏi.

– Vì anh đã mượn một căn nhà.

– Tại sao việc anh mượn một căn nhà lại làm em thấy nhục nhã?

– Bởi vì việc đó có cái gì đó gây nhục nhã.

– Chúng ta không thể làm khác.

– Em biết, nhưng trong một căn hộ đi mượn thế này em cảm thấy như mình là một con điếm.

– Chúa ơi! Tại sao em lại cảm thấy là một con điếm khi chúng ta ở trong một căn hộ đi mượn thế này? Gái điếm thường dẫn khách về nhà mình chứ không về một căn hộ đi mượn đâu.

Không thể tấn công một cách lý trí vào tấm barie vững chắc vô lý mà, như người ta nói, tâm hồn phụ nữ vốn thấm đẫm. Ngay từ đầu cuộc nói chuyện của chúng tôi đã có những điềm xấu.

Tôi kể cho Klara những gì ông giáo sư đã nói với tôi, tôi cũng kể cho nàng cuộc họp với ủy ban dân phố diễn ra như thế nào và cố thuyết phục nàng tin rằng cuối cùng chúng tôi cũng sẽ vượt qua hết tất cả các trở ngại.

Klara im lặng một lúc rồi khẳng định rằng tôi phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện. “Ít nhất thì liệu anh có thể giải thoát em khỏi cái xưởng may đó không?”

Tôi trả lời hiện tại thì phải kiên nhẫn thêm một chút.

– Anh thấy chưa, – Klara nói, – chỉ toàn là hứa với hẹn thôi, cuối cùng thì anh cũng sẽ chẳng làm gì hết. Bây giờ thì làm sao em thoát ra được nữa chứ, ngay cả nếu có ai đó chấp nhận giúp em, vì với lỗi lầm của anh lý lịch của em đã có vết rồi.

Tôi hứa danh dự với Klara là nàng sẽ không dính dáng gì với những chuyện rắc rối giữa tôi và ông Zaturecky.

– Dù thế em cũng không sao hiểu được, – Klara nói, – tại sao anh lại từ chối không chịu viết bài tóm tắt đó. Nếu anh viết, chúng ta sẽ được yên ổn ngay lập tức.

– Dù sao đi nữa cũng đã muộn quá mất rồi, Klara ạ, – tôi nói. – Nếu bây giờ anh viết bài báo đó, họ sẽ cho là anh lên án công trình của ông ta để trả thù, và họ sẽ còn nổi giận hơn nữa.

– Thế tại sao anh nhất định phải lên án công trình đó? Nhận xét tốt cho ông ấy đi!

– Anh không thể làm được điều ấy đâu, Klara ạ. Bài báo đó không thể chấp nhận được.

– Thế thì sao nào? Anh định chơi trò người bảo vệ chân lý chắc! Khi anh viết cho ông già ấy nói là ý kiến của anh không hề có giá trị gì với tờ Tư tưởng tạo hình, không phải là anh nói dối à? Khi anh nói với ông ấy là ông ấy định cưa cẩm em, không phải là anh nói dối à? Khi nói về cô Hélène đó, không phải là anh nói dối à? Thế thì, khi mà anh đã nói dối lia lịa như thế, nói dối thêm một lần nữa thì có sao nếu anh nhận xét tốt về bài báo của ông ấy? Đó là cách duy nhất để dàn xếp mọi việc.

– Em biết không, Klara, – tôi nói, – em cứ nghĩ lời nói dối nào cũng giống nhau, nhưng em nhầm lẫn đấy. Anh có thể bịa ra đủ thứ trên đời, chơi xấu người khác, dựng lên đủ mọi thứ huyền thoại, làm đủ loại trò đùa, anh không hề có cảm giác mình là kẻ nói dối; những lời nói dối đó, nếu em cứ nhất định gọi chúng là những lời nói dối, chính là anh, là con người của anh; với những lời nói đó, anh không che giấu điều gì hết, khi nói những lời nói dối đó thực ra là anh đang nói thật. Nhưng có những điều mà anh không thể nói dối được. Có những điều mà anh biết đến tận chân tơ kẽ tóc, nên anh hiểu được ý nghĩa, và anh yêu quý. Anh không đùa với những điều đó. Nói dối về chúng sẽ hạ thấp chính bản thân anh, và anh không thể làm được, đừng đòi anh phải làm điều đó, anh sẽ không làm đâu.

Chúng tôi không hiểu được nhau.

Nhưng tôi thực sự yêu Klara và tôi quyết định sẽ làm tất cả để nàng không thể trách cứ tôi điều gì. Ngay ngày hôm sau, tôi viết thư cho bà Zaturecky để mời bà đến gặp lúc hai giờ chiều hôm sau, tại văn phòng của tôi.

12

Trung thành với tinh thần kỷ luật của mình, bà Zaturecky gõ cửa văn phòng của tôi chính xác vào giờ hẹn. Tôi mở cửa và mời bà vào.

Thế là cuối cùng tôi cũng nhìn thấy bà. Đó là một người đàn bà cao lớn, rất cao, đôi mắt xanh nhạt không ăn nhập với khuôn mặt gầy guộc và dài ngoẵng của một người nông dân.

“Bà tự nhiên đi”, tôi nói, và bà lóng ngóng cởi chiếc áo măngtô dài màu hạt dẻ đậm, bó chặt vào người và được cắt rất lạ, khiến tôi nghĩ tới những chiếc áo capốt nhà binh cũ.

Tôi không muốn là người đầu tiên mở màn; tôi muốn đối phương hạ bài trước. Khi bà Zaturecky đã ngồi, bằng vài lời tôi gợi cho bà vào câu chuyện.

Bà nói giọng nghiêm trang và không chút nóng nảy: “Anh cũng biết tại sao tôi tìm anh. Chồng tôi vẫn luôn rất kính trọng anh, với tư cách con người cũng như tư cách nhà bác học. Tất cả phụ thuộc ở bài tóm tắt của anh. Và anh đã từ chối không chịu viết. Chồng tôi đã cống hiến ba năm trời cho công trình đó. Ông ấy sống khó khăn hơn anh. Ông ấy là thầy giáo, ngày nào cũng phải đi sáu mươi cây số để đi dạy ở nông thôn. Năm ngoái tôi đã phải xin nghỉ làm để ông ấy có thể cống hiến hoàn toàn sức lực cho khoa học”.

– Ông Zaturecky không đi làm nữa à? – tôi hỏi.

– Không…

– Thế ông bà sống bằng gì?

– Bây giờ thì tôi phải giật gấu vá vai thôi. Khoa học là niềm say mê của ông ấy. Giá mà anh biết được ông ấy đã nghiên cứu những gì. Ông ấy luôn nói một nhà bác học thực thụ phải viết ba trăm trang chỉ để giữ lại ba mươi trang. Rồi bỗng xuất hiện cô gái đó. Hãy tin tôi đi, tôi biết ông ấy, chắc chắn là ông ấy không làm một việc giống như cô gái đó đã tố cáo, cứ thử để cô ta nhắc lại điều ấy trước mặt chúng tôi xem! Tôi biết đàn bà, có thể là cô ta yêu anh nhưng anh không yêu cô ta. Có thể cô ta muốn làm anh phát ghen. Nhưng anh có thể tin tôi, không bao giờ chồng tôi dám làm thế đâu!

Trong khi lắng nghe bà Zaturecky nói, chợt xảy đến với tôi một điều kỳ lạ: tôi quên mất là vì người đàn bà này mà tôi sẽ phải rời khỏi trường, vì người đàn bà này mà một bóng ma đã lẩn quất vào giữa Klara và tôi, vì người đàn bà này mà bao ngày qua tôi đã phải thường xuyên giận dữ và đau đớn. Toàn bộ mối liên hệ giữa bà và câu chuyện mà cả hai chúng tôi đang đóng vai đáng buồn giờ đây bỗng trở nên rối rắm, lỏng lẻo, không ý nghĩa. Đột nhiên tôi hiểu mình chỉ ảo tưởng khi tưởng tượng hai chúng tôi cùng cầm cương cho cỗ xe cuộc phiêu lưu và lèo lái đường đi; rằng những cuộc phiêu lưu đó có thể hoàn toàn không phải của chúng tôi, mà theo cách nào đó chúng đã được ấn cho chúng tôi từ bên ngoài; rằng chúng không thể chi phối chúng tôi dù bằng cách nào đi nữa; rằng chúng tôi không có chút trách nhiệm nào về đường đi kỳ quái của chúng; rằng chúng kéo chúng tôi đi, trong khi chính bản thân chúng lại bị dẫn dắt bởi ai đó không ai biết và từ nơi cũng không ai biết.

Mặt khác, khi nhìn thẳng vào mắt bà Zaturecky, tôi thấy dường như mắt bà không thể nhìn rõ được mọi thứ, rằng đôi mắt đó không nhìn thấy gì hết; rằng chúng chỉ lướt thoáng qua khuôn mặt mà thôi.

– Có thể là bà có lý, thưa bà Zaturecky, – tôi nói giọng hòa giải. – Có thể là bạn gái tôi đã nói dối. Nhưng bà cũng biết một người đàn ông ghen tuông thì thế nào; tôi đã tin cô ấy và đã tức điên lên. Đó là điều có thể xảy đến với bất kỳ ai.

– Vâng, tất nhiên là đúng thế, – bà Zaturecky nói, rõ ràng như thoát được một gánh nặng. -Bởi vì chính anh nhận ra điều đó, thế là tốt rồi. Chúng tôi cứ lo là anh tin lời cô gái đó. Cô ta có thể phá hoại cả cuộc đời của chồng tôi. Thậm chí là tôi còn chưa nói đến cái bóng ma ám ảnh ông ấy về mặt đạo đức. Điều đó thì còn có thể chịu được. Nhưng chồng tôi vô cùng chờ đợi bài tóm tắt của anh. Người ta đã đảm bảo với ông ấy như vậy, ở ban biên tập tờ tạp chí ấy, rằng chỉ còn phụ thuộc vào anh nữa thôi. Chồng tôi tin rằng nếu bài báo của ông ấy được đăng, cuối cùng ông ấy sẽ được nhận vào ngành Nghiên cứu khoa học. Bây giờ mọi việc đã được làm sáng tỏ, anh sẽ viết bài đó chứ? Và anh có thể viết nhanh được không?

Thời điểm để tôi trả thù và xả giận cuối cùng đã tới, nhưng vào phút đó tôi không còn cảm thấy chút giận dữ nào, và những gì tôi nói với bà Zaturecky, tôi chỉ nói vì tôi không thể đánh lừa mình: “Thưa bà Zaturecky, còn về bài tóm tắt đó, chỉ có một khó khăn duy nhất. Tôi sẽ nói thẳng với bà mọi chuyện đã diễn ra thế nào nhé. Tôi rất ghét phải nói thẳng cho ai đó những chuyện không mấy vui vẻ. Đó là điểm yếu của tôi. Tôi đã làm tất cả để không phải gặp ông Zaturecky và tôi nghĩ cuối cùng thì ông ấy cũng phải hiểu ra tại sao tôi cố tránh mặt. Sự thật là nghiên cứu của ông ấy kém quá. Nó không có chút giá trị khoa học nào hết. Bà có tin tôi không?”.

– Đó là điều tôi khó lòng mà tin được. Không, tôi không tin anh, – bà Zaturecky nói.

– Trước hết công trình đó không hề độc đáo. Bà có hiểu không? Một nhà bác học phải luôn mang lại một điều gì đó mới mẻ; một nhà bác học không có quyền sao chép lại những điều đã biết, những điều mà người khác đã viết.

– Chồng tôi chắc chắn là không sao chép bài báo đó.

– Thưa bà Zaturecky, chắc hẳn bà đã đọc nó… – Tôi muốn nói tiếp, nhưng bà Zaturecky ngắt lời tôi.

– Chưa, tôi chưa đọc.

Tôi ngạc nhiên. “Trong trường hợp đó thì bà hãy đọc đi.”

– Mắt tôi kém lắm, – bà Zaturecky nói. – Từ năm năm nay tôi không hề đọc gì hết, nhưng tôi không cần đọc để biết chồng tôi có trung thực hay không. Đó là những điều mà người ta có thể cảm thấy, không cần phải đọc mới biết. Tôi biết rõ chồng tôi, như một người mẹ biết rõ con mình, tôi biết tất cả về ông ấy. Và tôi biết tất cả những gì ông ấy làm đều luôn trung thực.

Tôi phải chịu đựng điều khốn khổ nhất là đọc cho bà Zaturecky nghe vài đoạn trong bài báo của chồng bà và các đoạn có liên quan của nhiều tác giả khác nhau mà ông Zaturecky đã vay mượn ý tưởng. Rõ ràng nó không phải là trò đạo văn cố ý, mà là một sự quy thuận mù quáng trước các bậc đại thụ, đã gây cho ông Zaturecky một niềm kính trọng chân thành và vô bờ bến. Dù sao cũng rõ ràng là không một tờ tạp chí khoa học nghiêm túc nào lại có thể cho đăng bài báo đó.

Tôi không biết bà Zaturecky quan tâm đến những giải thích của tôi đến mức độ nào, bà theo dõi chúng và hiểu chúng đến mức độ nào. Bà chỉ ngoan ngoãn ngồi trong ghế phôtơi, chịu đựng và vâng lời như một người lính biết là mình không được phép rời khỏi vị trí. Tôi nói mất nửa giờ đồng hồ. Rồi bà đứng dậy khỏi ghế phôtơi, hướng cặp mắt mờ về phía tôi và lạnh lùng xin lỗi tôi. Nhưng tôi biết là bà không hề mất lòng tin vào chồng mình. Nếu bà phải trách cứ ai đó, thì đó phải chính là bản thân bà, để không phải đối mặt với những luận cứ mà bà thấy là tối tăm và khó hiểu. Bà mặc lại chiếc áo capốt nhà binh và tôi hiểu rằng người đàn bà này là một người lính, một người lính từ bề ngoài đến tâm hồn, một người lính buồn tẻ và trung thành, một người lính mệt mỏi vì những chiến dịch dài dặc, một người lính không đủ khả năng hiểu được mệnh lệnh nhưng vẫn thực hiện chúng không chút chần chừ, một người lính thất bại nhưng ra đi không chút tì vết.

13

“Bây giờ thì em không còn phải lo gì nữa”, tôi nói với Klara ở Quán rượu Dalmatie, sau khi đã kể cho nàng nghe cuộc trò chuyện vời bà Zaturecky.

– Tôi không hiểu tại sao tôi lại phải lo lắng, – Klara trả lời với sự chắc chắn làm tôi ngạc nhiên.

– Sao cơ? Nếu không phải là vì em, sẽ không bao giờ anh gặp bà Zaturecky hết!

– Anh gặp bà ấy là việc tốt, bởi vì anh đã gây ra điều rất xấu cho họ! Tiến sĩ Kalousek nói rằng một người bình thường khó mà hiểu được chuyện ấy.

– Em gặp Kalousek lúc nào?

– Tôi đã gặp ông ấy, – Klara nói.

– Và em đã kể tất cả cho ông ta?

– Thế thì sao nào? Đó là bí mật chắc? Bây giờ thì tôi biết rõ anh là người thế nào rồi.

– Thế à?

– Anh muốn tôi nói không?

– Em nói đi.

– Anh là một kẻ vô sỉ điển hình.

– Kalousek nói với em thế à?

– Tại sao lại Kalousek? Anh không nghĩ là tôi có thể tự hiểu ra điều đó à? Anh tưởng là tôi không thể nhìn thấu trò chơi của anh à? Anh thích chơi xấu người khác. Anh đã hứa viết một bài tóm tắt cho ông Zaturecky…

– Anh chưa bao giờ hứa viết bài tóm tắt cả…

– Còn với tôi, anh hứa một chỗ làm. Anh đã sử dụng tôi để chống lại ông Zaturecky và dùng ông Zaturecky để chống lại tôi. Nhưng nếu anh muốn biết, thì tự tôi sẽ kiếm được chỗ làm đó.

– Nhờ Kalousek à? – tôi cố tỏ ra châm biếm.

– Tất nhiên là không nhờ anh! Anh thất bại ở mọi mặt trận rồi, thậm chí anh còn không thể biết tình hình tệ đến mức nào đâu.

– Còn em thì biết à?

– Phải, hợp đồng của anh sẽ không được gia hạn và anh sẽ thấy là hạnh phúc lắm nếu người ta nhận anh vào làm trong một galerie tỉnh lẻ. Nhưng anh phải hiểu là mọi điều xảy ra là do lỗi của anh. Nếu tôi muốn cho anh một lời khuyên, thì trong tương lai, anh nên chân thành hơn và đừng nói dối nữa, bởi vì phụ nữ không thể nào coi trọng một người đàn ông nói dối.

Nàng đứng dậy, chìa tay cho tôi (rõ ràng là lần cuối), quay lưng về phía tôi và đi.

Tôi phải mất một lúc mới hiểu rằng câu chuyện của tôi (cho dù im lặng băng giá đang vây quanh tôi) không thuộc loại bi kịch, mà đúng hơn là hài kịch.

Điều đó khiến tôi cảm thấy được an ủi một chút.

 

Tác giả: Milan Kundera

Dịch giả: Cao Việt Dũng

Nguồn: Isach.info 

Phạm Thuý Quỳnh đưa bài

Exit mobile version