Có một lần, hồi năm tuổi tôi đã trải qua một chuyện kì lạ, đó là một buổi trưa tôi mở cửa định đi ra khỏi nhà. Khi tôi mở cửa ra thì bên kia đường, thay vì những ngôi nhà cũ kĩ quen thuộc, lại mở ra một cánh đồng xanh ngát và trải rộng tới tận chân trời.

Cánh đồng cỏ dài dường như bất tận, gió ào ạt, những ngọn cỏ xanh run rẩy. Bị khung cảnh làm cho choáng ngợp, tôi đứng im như tượng một lúc, tim đập liên hồi và trong trí óc của một đứa trẻ năm tuổi nảy ra đủ mọi ý nghĩ sợ hãi, kì quái.

Rồi tôi đóng sầm cửa lại, khi mở ra một lần nữa thì phía bên kia lại là con đường quen thuộc như mọi khi. Nắng trưa oi ả trải trên mặt đường như thiêu đốt, một đống rác ngay dưới chân cột điện bốc mùi.

Tôi không nói chuyện này với bất kì ai ngoại trừ An, người đồng nghiệp của mình. Không hiểu sao lại như vậy, chỉ là câu chuyện từ bật ra vào một buổi tối bên bàn nhậu.

Nhưng tôi thường xuyên nghĩ về cánh đồng ấy, thỉnh thoảng tôi còn nằm mơ thấy nó. Trong giấc mơ tôi là một phần của cánh đồng chứ không đứng bên kia cánh cửa nữa. Tôi thong thả đi dạo và bầu trời thì lúc nào cũng bàng bạc những sắc mây chiều. Mặt trời lẫn trong mây và nhuộm đỏ một góc trời tây. Rồi tôi nằm xuống dưới cỏ, cánh đồng ôm lấy tôi trong sự dịu dàng của cỏ.

Những giấc mơ về cánh đồng luôn kết thúc như vậy.

Mỗi khi có chuyện gì bực mình, hoặc những lúc mọi thứ trở nên quá khó khăn hay đơn giản muốn cách biệt với mọi người xung quanh, tôi lại đứng trước cánh cửa năm xưa. Hồi hộp vặn nắm đấm, tôi mong chờ phía bên kia cánh đồng rộng lớn sẽ xuất hiện trở lại. Nhưng chẳng có gì đặc biệt xảy ra, bên kia cánh cửa vẫn là khung cảnh mà mỗi ngày tôi đều thấy.

Tôi nhận ra mình bị kẹt với cuộc đời này, thực tại trước mắt bao trùm lấy tôi không một lối thoát.
“Chấp nhận và trưởng thành đi!”

Có một giọng nói trong đầu vang lên thúc ép, tiếng nói của lí lẽ.
– Anh đang nghĩ gì vậy?

Tôi giật mình nhìn vợ mình, trên khuôn mặt của Nguyên thoáng chút lo lắng, môi nàng hé ra một nụ cười hốt hoảng. Tôi nhấp một ngụm trà đã nguội.

– Không có gì đâu, anh hơi mệt chút thôi.
Tôi liếc nhìn cánh cửa năm xưa một lần nữa, không hiểu sao câu chuyện về cánh đồng đã trở về trong kí ức tôi sau bao nhiêu năm. Tôi đã quên bẵng nó, nhưng giờ cánh cửa hình như vẫn còn mời gọi bằng một ma lực nào đó.

dong xanh
Minh họa: Thành Chương
Nguyên nhìn tôi bằng ánh mắt lo lắng rồi nàng nắm lấy bàn tay tôi, những ngón tay nhỏ và trắng của nàng im lặng đặt trên bàn tay thô ráp của tôi, hơi ấm từ chúng thật dễ chịu.

Chúng tôi vừa tổ chức đám tang cho mẹ…
Cảm giác mệt mỏi vây bủa lấy tôi, không nặng nề nhưng có thể cảm nhận được, nó giống như một cái balô đeo trên vai. Mẹ đã lập di chúc từ khi bắt đều phát bệnh, vì không có anh em nào khác nên tôi được hưởng tất cả. Một căn nhà hai tầng ở ngoại ô nơi tôi đã lớn lên và cuốn sổ tiết kiệm mà ba mẹ đã tích cóp hồi còn sống.

Tôi bước ra ngoài, đi qua khoảng sân nhỏ, tôi mở cổng rồi đứng lại ở lề đường. Ánh sáng duy nhất giữa đêm tối mịt mùng là từ ngọn đèn đường trải dài ở phía bên kia. Những ngôi nhà đều đã đóng cửa. Gió thổi lạnh buốt, đút hai tay vào túi tôi ngước lên nhìn bầu trời, mặt trăng là một lưỡi liềm bị mây mờ che phủ.

Cũng có lúc tôi cảm thấy mình là một cá nhân đặc biệt, tôi đã có một trải nghiệm phi thường nên tôi không giống những người bình thường. Chìm trong cái ý nghĩ tuổi thiếu niên tôi khép mình lại và lẩn sâu vào suy tưởng. Tôi đọc nhiều, thỉnh thoảng cũng tập tành viết lách.

Nhưng rồi một ngày kia cảm giác đặc biệt biến mất, không một lí do, chẳng một lời báo trước. Tôi trở thành giáo viên và mọi thứ trở nên bình lặng.

Khuôn mặt của An chợt hiện ra trong tâm trí tôi, cái vẻ chán nản bất cần, một ánh nhìn lơ đãng như muốn buông xuôi tất cả.

Tôi cứ đứng giữa màn đêm cho tới khi Nguyên đi ra và gọi tôi vào.
Không phải là buồn, càng không phải là vui, chỉ là một cảm giác của những kẻ đã trót trưởng thành…

Vợ chồng tôi không thể có con, đúng hơn chỉ có tôi là không thể còn Nguyên bị mắc kẹt với sự không bình thường của tôi. Chúng tôi biết chuyện bảy năm sau khi lấy nhau. Hai vợ chồng lúc ấy chưa nghĩ tới chuyện có con, cả hai đều bận rộn với công việc. Nguyên vốn không thích trẻ con, nàng là kiểu người của công việc, khi biết được tin này nàng cũng bình thản chấp nhận.

Ít nhất đó là những gì nàng thể hiện ra ngoài, thỉnh thoảng tôi vẫn day dứt tự hỏi tại sao nàng có thể bình thản tới vậy. Có những đêm tôi nhìn chằm chằm nàng ngủ mong dò xét được những ý nghĩ sâu kín bên trong.

Và rồi trong một nỗi bức bối lạ lùng và bí ẩn nào đó tôi trằn trọc cả đêm, vẻ mặt quá yên ổn của nàng làm tôi mất ngủ.

Hồi ấy Nguyên đang bắt đầu thăng tiến trong tòa soạn, còn tôi bận rộn hơn với các lớp dạy thêm ở một trung tâm luyện thi do một người bạn mở. Các lớp học chôn vùi hết khoảng thời gian trong ngày của tôi, trong cái xã hội đêm ngày điên cuồng vì học hành thi cử thì chẳng thiếu học sinh để dạy. Càng kiếm nhiều tiền lại càng có ít thời gian để tiêu xài hơn, chúng tôi mua một căn hộ ở ngay mặt tiền một khu yên tĩnh cách trung tâm thành phố không xa, hàng tuần mướn người tới quét dọn. Cuộc sống gấp gáp đến nỗi chẳng có thời gian để mà tận hưởng hay mệt mỏi.

Đôi khi tôi cảm thấy trong căn hộ ấy không phải là một mái ấm thật sự, chỉ là một thứ gì đó tạm bợ, chắp vá, chúng tôi dựng lên để làm yên lòng nhau.

Như những con kiến chăm chỉ chúng tôi tích góp, tha mồi về đầy kho tàng của mình dù chẳng biết rõ để làm gì.

Thời gian ấy thi thoảng khi mở một cánh cửa tôi lại thầm mong cánh đồng ngày xưa sẽ xuất hiện. Có thể là cửa phòng học, phòng ngủ hay cửa nhà vệ sinh trong một quán cà phê nào đó nhưng tôi không hề tìm thấy cánh đồng. Những buổi tối đi nhậu với lũ bạn, tôi mở cửa trong trạng thái ngà ngà say để rồi thất vọng nhìn thấy chào đón mình chỉ là một căn phòng chật chội, dơ bẩn.

– Anh tính làm gì với ngôi nhà do mẹ để lại? – Nguyên hỏi tôi trong bữa ăn tối, nàng giảm nhỏ âm lượng tivi rồi liếc nhìn tôi vẻ thăm dò.

– Anh chưa nghĩ tới chuyện đó. – Tôi trả lời thành thật. – Tạm thời cứ để nó vậy đã.
Nàng im lặng nhìn tôi rồi lại tiếp tục ăn, bên ngoài văng vẳng tiếng la hét vui vẻ của những đứa trẻ con hàng xóm.

Chút khó chịu mơ hồ làm không khí bữa cơm trở nên nặng nề.
Dường như đối với nàng mọi chuyện luôn dễ dàng…

Mười giờ tối đồng nghiệp ở trường gọi điện cho tôi, dĩ nhiên như mọi khi đó là An.
– Đi ra quán ngồi chút không? – An hỏi.

– Giờ này hả?
– Ờ có sao đâu, tôi đang rảnh, ông có gì phải làm không?

– Không.
– Vậy đi thôi!

An cũng dạy văn như tôi, đó là một thầy giáo mới về trường được một năm, dáng người dong dỏng cao, mắt kính gọng vuông, nét mặt hiền lành. Khi nói chuyện thì giọng hết sức êm ái nhưng cũng đầy nam tính, ưa triết lí và có chút chất nghệ sĩ ẩn sau cái khuôn phép, quy củ của nghề giáo. Một con người với đầu óc cấp tiến và luôn tỏ vẻ chán chường trước thực tế cuộc sống. Chính vì vậy mà đôi khi nhìn anh ta có vẻ khốn khổ.

Cái kiểu khốn khổ làm tôi thấy ghen tị.
Tôi thì không được như An, tôi đen đúa và cục mịch và cũng an phận hơn so với chuẩn của giáo viên hay ít nhất là cách người ta thi vị hóa họ.

Chúng tôi hay lai rai với nhau vào buổi tối ở một quán lề đường, một đĩa ốc nướng, vài con mực, hai ba chai bia. Quán ngay đối diện nhà tôi, tôi ra kêu sẵn mồi và chỉ ngồi chờ An chạy đến.

Khi An tới tôi đã uống được một chai, ngồi xuống ghế đối diện anh ta dốc cạn một li bia rồi rót thêm cho chính mình, An nhấm nháp một miếng khô mực.

– Ông có việc gì khó chịu hả? – An hơi nhếch mép.
– Vậy à?
– Nó hiện rõ ra trên mặt ông kìa!
Tôi xoa xoa mặt mình.

– Có gì đâu, toàn chuyện lặt vặt.
– Tôi vừa chấm xong một đống bài viết nên giờ cần phải ngà ngà một chút, tôi chỉ muốn quên phứt chúng đi thôi, viết kiểu gì mà như nhân bản vô tính. Nó cứ na ná nhau. – An nhăn mặt.

– Chuyện thường thôi, tôi gặp nhiều bài như vậy tới mức chẳng thèm bực mình nữa. Thỉnh thoảng tìm được vài đứa thật sự có khả năng còn lại chỉ là những sao chép vô tận.

Cả hai dốc cạn li, An khui rồi rót thêm, mỗi lần bực mình hay khó chịu chuyện gì là An nói luôn miệng.
– Tôi thì chẳng có ý kiến gì đâu, thật đó, tôi chỉ muốn sống một cuộc đời bình thường với một công việc bình thường thôi. Lúc còn là học sinh tôi cũng ghét cay ghét đắng trường học. Nhưng giờ thì tôi làm giáo viên, đời đúng là nực cười. Khi còn nhỏ tôi từng nghĩ rồi mình sẽ làm cái gì đó khác biệt. Nhưng hóa ra không phải vậy. – An mồi điếu thuốc rồi rít một hơi dài.

Trong khi An nói thì tôi lơ đãng nhìn ra đường, nhà tôi ở bên kia dòng xe, từ đây tôi có thể thấy rõ phòng của mình, đèn vẫn sáng, tấm màn cửa màu xanh lơ lúc nào cũng khép lại.
Rồi bỗng nhiên cánh đồng chợt xen vào, cỏ xanh và gió biếc, đường chân trời rộng mở đến vô tận. Tôi chìm ngập trong suy tưởng.

Cụng li, lại một vòng bia nữa, lại khui, lại rót đầy, đèn đường soi vào những cái li thủy tinh lấp lánh. An nhấp nhỏm trên ghế, anh ta quẳng điếu thuốc ra đường, cái đốm đỏ nhanh chóng bị những chiếc bánh xe dập tắt. Khô mực dài vùi mình trong tương ớt đặc, chúng tôi cùng rít thuốc, thời gian tàn tạ trôi qua trên một vòng xe chậm chạp.

Tôi đang đi trên cánh đồng trong hình hài một đứa trẻ năm tuổi, tay chạm vào cỏ…
– Còn ông? Có bao giờ ông biết mình làm gì chưa? – An chợt hỏi, anh ta búng điếu thuốc khác bằng một động tác điệu nghệ rồi dùng chân đá vào những vỏ chai bia rỗng dưới gầm bàn, chúng ngã ra và kêu lạo xạo.

– Lí do thì đơn giản mà. – Tôi nhún vai. – Nếu tôi dừng lại thì tôi sẽ bị nghiền nát, áp lực của xã hội khiến tôi làm việc không ngừng dù đôi khi không rõ mình đang thật sự làm gì.
An gật gù rồi nhận xét gì đó về một giáo viên trong trường với giọng điệu mỉa mai, trong khi An nói tôi uống cạn li bia và rót đầy một li khác cho mình. Dường như tôi luôn nắm bắt được cốt lõi của vấn đề, ngay từ khi còn nhỏ đã như vậy, tôi luôn lựa chọn cái gì quan trọng trong đời mình. Vì vậy mà tôi tránh được những đau khổ không đáng có. Tôi để dành tim mình cho những cái đáng để đau hơn, những cái quan trọng.

– Sao ông bình thản vậy? – An nói, nhìn thẳng vào mặt tôi. – Lúc nào ông cũng bình thản hết.
– Vậy à?
– Đúng rồi. – Vẻ mặt An trở nên nghiêm trọng. – Bình thản như ông thì quả là kì cục, thỉnh thoảng cũng phải nổi nóng chứ, hay có phản ứng gì đó. Thậm chí ngay cả trên bàn nhậu ông cũng bình thản, không khéo là một kiểu tâm thần chứ chẳng chơi.

An ngả người ra sau, mái tóc rủ xuống.
Có vẻ như An đã say, chính tôi cũng thấy lâng lâng, men bia làm mọi thứ trở nên dễ chịu hơn. Tôi nheo mắt nhìn lên bầu trời, những đám mây xám bị neo tại chỗ.

– Ông nên xem lại bản thân mình đi, tôi nói nghiêm túc đó! – An mỉm cười, chúng tôi cạn thêm một li nữa. – Chúng ta không thể nào biết được cái mình đang sống có phải là thực tại hay không. – An chỉ hai ngón tay vào trán. – Nó rất có thể chỉ là một màn ảo thuật của trí não, thỉnh thoảng tôi lại nghĩ vậy.

Hơn mười một giờ tôi băng qua đường trở về nhà, Nguyên vẫn còn thức và đang xem tivi trong phòng ngủ, tôi đánh răng trong cơn biêng biêng. Tôi nhìn mình trong gương, có vẻ như chính tôi cũng đang bị méo mó, những đường nét trở nên xa lạ, các biểu cảm lệch lạc.

Nheo mắt, như thể trong gương là một con người khác vậy, không có cái vẻ mặt như thường ngày, một sự cau có hay chán chường nào đó lộ ra.
Tôi sờ mặt mình một lúc rồi đi vào phòng lên giường nằm kề Nguyên. Nàng tắt tivi, trong cơn say tôi ôm lấy nàng, chúng tôi lặng lẽ làm tình trong bóng tối.

Đôi khi tôi nghĩ vì mình không thể có con nên tình dục trở thành một hoạt động không mục đích. Chỉ là thứ để giải tỏa những bức bối và đạt khoái cảm. Dù vậy chúng tôi vẫn đều đặn làm chuyện đó, cả tôi và nàng đều có nhiều căng thẳng cần giải tỏa.

– Em có nghĩ anh là một người bình thường không? – Tôi hỏi khi Nguyên vừa bước ra khỏi phòng tắm.
– Ý anh là sao?

– À không có gì. – Tôi phẩy tay nhận ra mình vừa hỏi một câu ngu ngốc, những vấn đề như vậy chỉ dành để thảo luận với chính mình.
– Anh say rồi! – Bàn tay Nguyên đặt lên ngực tôi. – Chẳng có ai bình thường cả.

Tôi nhìn lên trần nhà, ở trên đó chẳng có gì ngoài bóng tối.
Cuộc đời vẫn tiếp diễn xung quanh và tôi đi trên một con đường ngập sương mù, đi dạy ở trường rồi tất bật với những lớp dạy thêm. Nguyên thì bận rộn với công việc của nàng. Thỉnh thoảng khi ở nhà chúng tôi cũng ít nói chuyện, chỉ im lặng tận hưởng thời gian bên nhau.

Chúng tôi làm tình đều đặn, cuộc sống vợ chồng trôi qua với những cảm xúc mơ hồ, lấp lửng.
Ngôi nhà của mẹ tôi để lại vẫn còn đó, mỗi tuần tôi lại về nhà cũ một lần, lấy cớ là lau dọn nhưng thật ra tôi chỉ ngồi trên sopha im lặng nhìn mọi thứ xung quanh. Tôi để cho những đồ vật trong ngôi nhà bám bụi một cách chậm rãi và không hiểu sao lại thấy dễ chịu khi để chúng như vậy.

Đôi khi tôi lại thầm mong cánh đồng sẽ xuất hiện.
Nhưng nó chẳng bao giờ ở đó nữa, đồng xanh đã mất biệt đằng sau, trong miền đất bí ẩn của những suy tư.

Tôi và An thường xuyên gặp nhau ở trường, đôi khi An nhìn tôi mỉm cười lúc đi ngang qua ở ngoài hành lang. Có giờ học anh ta bỏ ra lan can hút thuốc, bỏ lũ học sinh bơ vơ với hàng mớ chữ nghĩa trên bảng, cái dáng vẻ trầm tư cô độc như thể cả thế giới đã suy tàn xung quanh mình. Tôi hay nhìn An từ xa, cái dáng vẻ ấy cuốn hút tôi một cách kì lạ.

Từng có thời gian tôi khao khát trở thành anh ta, một con người chống lại những thứ ngu ngốc xung quanh mình. Nhưng tôi chưa bao giờ là người đó.

Tôi nhìn xuống dưới lớp, bọn học sinh đang cặm cụi viết bài. Tôi lướt qua tất cả những cái đầu một lượt, không có kiểu người đó ở đây.

Có hôm, tôi đi ra ngoài đứng cạnh An, nhìn xuống khoảng sân trống trải ngập nắng, chúng tôi lặng lẽ hút thuốc.
– Ông có bao giờ nghĩ tới thời gian mình đi học trước đây? – An hỏi, quay lại nhìn vào trong lớp. – Lúc giống như tụi nó.

– Cũng thỉnh thoảng, tôi không muốn nghĩ tới quá nhiều. Tôi muốn giữ bản thân xa khỏi mọi thứ có thể làm mình khó chịu. Nhớ về thời gian ấy tôi cảm thấy mình thất bại.
Nhếch mép, An vứt điếu thuốc vào thùng rác.

– Ông lại đi tìm cánh cửa hả?
– Chắc vậy.  – Tôi nhún vai.  – Mọi thứ lúc này đều khiến tôi mệt mỏi. Mà sao tôi lại kể cho ông nghe chuyện này nhỉ? Tôi còn chẳng kể cho vợ nghe.

An nhìn xuống bên dưới, cả người anh ta chồm ra bên ngoài hết mức có thể, gió thổi làm mái tóc của An rũ rượi.
– Vì ông muốn trở thành tôi! – An nói một cách lạnh lùng, anh ta dùng hai ngón tay đẩy gọng kính lên. – Ông muốn trở thành tôi, vậy nên ông mới kể cho tôi nghe chuyện cánh cửa, bởi khi trở thành tôi ông sẽ không cần tìm một lối thoát siêu thực nào nữa. Trở thành tôi là lối thoát cho ông, vì ông bất lực.

Anh ta nhìn tôi, nụ cười trẻ trung nở ra trên khuôn mặt bất cần.
– Đừng tự tin như vậy…

– Không đó là sự thật, ông luôn bình thản trước mọi sự bởi vì ông có cánh cửa đó, cánh cửa mở ra một cánh đồng rộng lớn. Khi trông chờ vào nó ông có thêm chút sức mạnh. – An dang tay lùi lại mấy bước, giọng anh ta vang xa trong hành lang trống trải. – Cánh cửa đó làm cho ông yên ổn, ông dồn nén hết mọi thứ bực bội trong đời mình để biến nó thành hi vọng một ngày nào đó sự nghỉ ngơi sẽ đến với mình, một sự kết thúc, một viễn cảnh mênh mông bất tận.

– Đó là cách ông nghĩ thôi.
– Không, đó là cách mà mọi thứ diễn ra, ông thấy mọi thứ xung quanh mình đang bị bào mòn, ông thấy bản thân đang trở nên lạc lối, nhạt nhẽo. – An dí sát miệng vào mặt tôi, hai bàn tay bóp chặt lấy vai, tiếng nói của anh ta giờ như lời thì thầm. – Nhưng thay vì tìm cách cứu vãn ông lại muốn trốn tránh vào cánh cửa đó, vào đồng xanh, một thứ vớ vẩn không có thật. Tôi mới là cách cứu vãn của ông.

Tôi đẩy An ra bằng hết sức mạnh của mình khiến anh ta ngã xuống đất.
– Nó không phải là thứ nhảm nhí! Ông mới là thứ nhảm nhí. – Tôi trỏ tay vào mặt An. – Ông tưởng mình là ai, ai cho phép ông phớt lờ hết tất cả mọi thứ đang diễn ra? Ai cho ông cái quyền bất chấp thực tại?
An bật cười, anh ta lắc đầu như điên dại.

– Nhưng mà có cái quái gì khác nhau đâu? Một là phủ nhận thực tại, hoặc là bất chấp nó, tại sao ông khao khát cánh cửa nhưng lại chối bỏ tôi? Ông sợ cái gì, ông muốn có tất cả cùng một lúc sao?

An nhảy xổ vào tôi, trong giây lát tôi thấy nắm đấm của anh ta sắp sửa chạm tới mặt mình. Nhưng thay vì gây thương tích nó lại xuyên thẳng vào đầu tôi, như thể cánh tay An bị hút vào đó vậy.

– Đừng hòng chối bỏ tôi. – Anh ta thì thầm. – Ông có cảm giác, ông không hề bình thản, tôi sẽ bắt ông phải hét lên vào mặt lũ người mà ông khinh ghét.
Nghiến răng, chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau, tóe lửa…
*
*     *
Tôi đang đứng trong phòng khách ngôi nhà cũ, phía sau lưng là bàn thờ của cha mẹ, cảnh vật xung quanh vẫn như hồi mấy chục năm trước. Trước mặt tôi là cánh cửa, nơi đã từng dẫn tới đồng xanh.

Tiến từng bước chậm rãi tôi đặt tay lên nắm đấm, khẽ xoay, tiếng lạch cạch vang lên làm tôi rùng mình.

Và bên kia không phải là con đường thân thuộc, cũng không phải là đồng cỏ rộng lớn mà là một đầm lầy u ám bao la. Nơi những thân cây chết khô nằm quặt quẹo, đủ loại dây leo gớm ghiếc quấn chằng chịt, những cái hồ với nước đen ngòm và bầu trời phủ một lớp mây dày xám ngoét.

– Cái quái quỷ gì thế này? – Tôi thì thầm.
Đi qua cánh cửa, tôi đứng giữa đầm lầy xơ xác.
– Vậy anh còn mong chờ gì nữa?

Quay lại phía sau, Nguyên chậm rãi đến gần tôi, đôi mắt nàng chán chường và sắc da xám xịt. Nàng mặc một bộ quần áo công sở, chân mang giày cao gót. Cách ăn mặc của Nguyên y như lúc làm việc.

– Hơn ba mươi năm đã trôi qua rồi, rất nhiều chuyện đã xảy ra ở cả ngoài kia và ở đây. Anh tưởng mọi thứ sẽ mãi mãi như trước sao? Lúc anh năm tuổi dĩ nhiên nơi này tươi đẹp nhưng thời đó đã qua từ lâu. Đứa trẻ năm tuổi của anh không còn tồn tại nữa.

Tôi nhìn Nguyên rồi lắp bắp:
– Nhưng tại sao… tại sao em lại ở đây?
– Anh không nhận ra gì sao? Em ở đây lâu rồi, trong cái chốn xám xịt buồn bã này.
*
*     *
Giật mình tỉnh dậy, tôi cảm thấy cổ họng vẫn còn đau rát vì những tiếng thét trong giấc mơ, tứ chi rã rời không cử động nổi, mắt đã mở nhưng mọi thứ vẫn mờ mờ và một cơn đau nhức khủng khiếp ở trong đầu.
Nhìn quanh, trên người tôi có đủ mọi loại dây nhợ và những cây kim chích vào tĩnh mạch, túi nước biển đang nhỏ giọt, máy móc đang chạy. Một ống dẫn oxy luồn sâu vào mũi. Và xa xa ở góc phòng là Nguyên, nàng ngồi trên băng ghế, đầu gục xuống, hình như đang ngủ.

Chau mày, tôi rên lên một tiếng.
Nguyên giật mình, nàng vội chạy đến chỗ tôi, khuôn mặt lo lắng của nàng làm tôi se lại.
– Anh thấy sao rồi?
Không trả lời nàng, tôi cố ngồi dậy.

– Sao anh lại ở đây? – Tôi hỏi Nguyên.
– Anh đang dạy thì đi ra ngoài hút thuốc rồi bị ngất xỉu, sau đó thì được đưa tới bệnh viện…
– Vậy còn An?
– An là ai?

– Là đồng nghiệp của anh, cũng dạy văn, trước khi ngất đi anh có nói chuyện với cậu ta. Giờ thì anh không nhớ là chuyện gì nhưng hình như cũng khá gay gắt, anh ta thế nào rồi?
Nguyên nhìn tôi, mắt nàng mở to:
– Anh nói gì vậy? Em biết hết đồng nghiệp của anh, làm gì có ai tên An. Và tụi học sinh cũng nói là khi ngất đi anh đứng một mình.

– Sao lại như vậy được? – Tôi yếu ớt phản đối. – Anh ta tới nhậu với anh hoài mà, mấy buổi tối ở cái quán trước nhà mình…
– Anh làm sao vậy? Anh luôn nhậu ở đó một mình, làm gì có ai khác!

– Nhưng, nhưng…
Cơn nhức đầu choáng ngộp tâm trí tôi, vậy còn những câu nói của An, những lần tôi nghĩ về cậu ta, cuộc tranh cãi cuối cùng của chúng tôi. Đó là gì?
Cái quái quỷ gì vậy?

Tôi cảm thấy tay chân mình đang mất kiểm soát, chúng co giật liên hồi. Mắt tôi mờ đi, đầu ong ong; dường như xung quanh có hàng triệu giọng nói đang cùng thì thầm một lúc.
Điều tiếp theo tôi nhận thức được là những bóng áo trắng chạy vào phòng rồi một mũi tiêm vào cổ. Tôi từ từ lịm đi.

Phải một tuần sau tôi mới tỉnh dậy, đó là một quá trình dai dẳng giữa những giấc ngủ dài và các lần thức ngắn. Nguyên túc trực bên tôi mọi lúc.
Được chẩn đoán chứng loạn thần kinh và có dấu hiệu tâm thần phân liệt, tôi xuất viện về nhà với khuyến cáo cần được theo dõi cẩn thận trong thời gian ít nhất là nửa năm với một đống thuốc phải uống mỗi ngày.

Hôm xuất viện, trên đường về tôi nói với Nguyên:
– Hôm nào cuối tuần anh sẽ dọn bàn thờ ba mẹ về nhà mình. Còn ngôi nhà cũ thì rao bán.

Nguyên không nói gì, nàng chỉ lặng lẽ gật đầu, chúng tôi ngồi trong taxi, tôi nhìn ra bên ngoài, nơi phong cảnh đang bị bỏ lại phía sau. Nàng dùng bàn tay nhỏ bé và mềm mại của mình đặt lên tay tôi.

Và như bao lần, tôi biết ơn về điều đó!
“Đồng xanh, tạm biệt mày!”

Đ.Q.V – VNQĐ