Nhà văn Nguyễn Văn Thọ sinh 1948, sống ở Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.Giải thưởng: Giải B tiểu thuyết Quyên cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn VN năm 2006-2009; Giải Nhì ( không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn Tạp chí văn nghệ quân đội 2001-2002.

Nhà văn Nguyễn Văn Thọ

“Dù viết về đề tài nào, truyện ngắn Nguyễn Văn Thọ cũng tạo được ấn tượng. Dù ở nước ngoài hay ở trong nước, anh đều lăn lộn với đời sống, lặn ngụp tận đáy xã hội, lại luôn “đứng về phe nước mắt”, nên anh rất hiểu đời sống nhân dân, rất hiểu những người lính, đặc biệt là những số phận mong manh của những kiếp người bé nhỏ. Đấy chính là xứ sở của văn chương. Văn chương đâu có trong nhung lụa. Văn chương chỉ trú ngụ trong những chốn bần hàn.” Trần Đăng Khoa-Lời bạt tập tuyển truyển ngắn Hương Mỹ Nhân của Nguyễn Văn Thọ

Nhà ba hộ

Ngôi nhà không số. Con đường không tên. Nguyên xưa là đất vật bùn ven hồ của một xưởng than quả bàng, sau bỏ hoang, đầy bụi gai, cỏ, rác, phân, xác súc vật thối. Con đường lồi lõm hiện ra từ các vệt bánh ô-tô chở hải sản sơ tán đến cái nhà kho tạm một thời. Người quanh vùng lần theo, đi bộ tắt sang khu bên kia hồ, nơi có đường lớn gần hơn vào trung tâm thành phố.

Lối nhỏ luôn lép nhép bùn. Nước đọng. Những đám cỏ bánh chè. Đôi khi lác đác mấy con cuốc mỏ hồng, chân đỏ, thân đen, ăn lẫn với đám gà nhà. Đường cong như cánh tay ôm dải cúc tần sát cái hồ. Hồ cũng không tên, ba mẫu. Bên cùi chỏ cánh tay là khu tập thể của công ty thuỷ sản: tám ngôi nhà hai tầng. Xuân và đông nồm, nom như tám con tàu cũ rẽ sương, khói bếp mù mịt. Dải cúc tần lắm dây tơ hồng, mùa xuân nhả mớ tóc vàng óng phủ trên màu xanh đông đã già.

Ngôi nhà quay lưng vào đầu hồi một nhà tầng, mặt ngoảnh đón gió hồ. Nhà rộng bảy chục mét vuông, lợp lá gồi, xưa là kho tạm chứa cá khô, nước mắm từ ga Giáp Bát về. Hết chiến tranh, kho không cần tới. Cỏ dại mọc xoá vệt ô-tô, chỉ còn vệt đi bộ. Rồi người quay lại Hà Nội như kiến, công ty nhớ tới cái kho bỏ quên hai năm, cải tạo lại, lợp tấm phi-brô-xi-măng, quét vôi vàng, ngăn thành ba phần không đều cho ba hộ.

Thật bất ngờ, ba chủ dọn đến đều là vợ chồng mới cưới. Một tuần, đám phụ nữ đã tường gần hết lý lịch của nhau. Tôi, thương binh phục viên, cán sự ba, phòng bảo vệ công ty, ở gian giữa. Vợ chồng anh Phạn bán lòng lợn tiết canh, cô vợ tên Xuân, con gái lớn của bà phó phòng tổ chức ở chái hữu. Vợ chồng anh Thủ, chị Huyền, cán bộ kiểm nghiệm công ty ở chái tả. Hộ chị Huyền rộng gấp rưỡi hộ của tôi và Phạn. Lý do giản đơn là nó có sẵn bức ngăn gỗ, xưa là nơi thủ kho làm việc.

Được chia nhà là diễm phúc rồi. Mè nheo hơn kém vài thước vuông làm gì!

Sự giống nhau của ba hộ là ba cái cửa vào đều loại gỗ tạp, bản lề sắt luôn kin kít và hở hoác trên, dưới, đón gió hồ lồng lộng thổi. Không có gió hồ thì thật không thể nằm trong cái nhà trần thấp lợp xi-măng tấm bắt nhiệt như hun ấy. Lại mùa đông, khi gió heo may về, những ống tre hu hú đón gió và bụi đất lả tả bay từ vách tre trộn bùn rơm ngăn giữa hộ tôi và hộ Phạn. Trời nồm, tường sau và trước nhiễm mặn cá khô, tứa nước đọng thành hột, toả mùi khăm khẳm, khó thở. Trần bưng bằng cót, kín mà hở. Mùi của ba nhà, tiếng động cứ thông thống từ hộ này sang hộ kia.

Chủ nhật, vợ chồng tôi hì hục dán giấy báo lên biên giới phía trái để che bụi. Phía phải vang lên tiếng đóng đinh cồng cộc, chan chát. Tôi đoán, anh chàng rể của công ty mới đi Tây về sẩm chiều qua, da trắng, nhễ nhãi phá hòm gỗ, sớm nay chắc làm xong gác xép, thừa gỗ gia cố biên giới giữa hộ tôi và anh cho vững chắc.

Buổi sáng tuần thứ hai đi xếp hàng lấy nước máy ở đầu nhà A3, gặp ngay Phạn. Hắn đang rửa cái thùng to còn dính cáu mỡ lòng và tiết lợn.

– Chào ông bác! Gớm làm gì mà chèn chắn ghê thế. Để hổng ra một tẹo cho thoáng. Đã bí rì rì các bố lại thi nhau bưng thêm. Đứa đếch nào nghe tiếng phì phò! Em cũng như bác, lúc mải cái ấy thì để ý đến ai.

Phạn bán tiết canh lòng lợn chợ cóc(1). Gã vừa nói vừa đổ oà thùng nước đầy bọt màu hồng lênh láng khắp mặt đất. Mắt nháy với tôi nom vừa trải vừa bất cần.

– ấy, mình che chắn gì đâu. Bụi quá!

– Nói là nói thế thôi, chứ ông bác có đổ tường xi-măng em cũng kệ. Phía em căng cái ni-lon xanh vừa dịu, vừa cách âm hết sảy! Ông bác đi tây hôm qua mới lấy hòm về. Bốn năm cái Kích(2), một đống hàng như núi. Tiên sư! Các bác sướng thật! Chả đầu tắt mặt tối như cánh em !

Tôi không dám trả lời câu chửi đổng bất ngờ ấy, tủm tỉm cười và lấy thùng nước quảy nhanh về: “Tớ cũng như ông thôi!” Phạn có thể nhìn dáng
cà nhắc của tôi mà đoán ra điều gì, chắc thế, ái ngại mời với: “Em nói cái bác Thủ thôi! Bác xá cho! Chủ nhật này rỗi, tối, ông anh sang em làm chầu tiết canh nhé. Đừng khách khí ông bác ạ. Trước lạ sau quen!”

Điều mà Phạn vạch ra trần trụi ấy là có thực, nhưng mà không đáng lo. Bởi vốn hay e thẹn, nên vợ tôi nhất quyết bất động vào cái thời điểm mấy nhà mới đi nằm. Chúng tôi thường rón rén yêu nhau lúc gần sáng. Khi ấy chỉ có tiếng chuột chạy, tiếng gió đu đưa sáo trên các lỗ tre, tiếng thở, ngáy đều đều của bốn đứa người ở hai hộ bên.

Sau ba tuần chúng tôi đã thuộc làu lịch ăn uống, khẩu vị từng bữa, sinh hoạt, yêu nhau – tóm lại, là mọi hoạt động của nhau. Tất cả như một mùi hỗn tạp, song vẫn phân biệt được, nhất là mỗi chiều chủ nhật, ba nhà cùng nổi lửa. Mùi tỏi xào thịt bò của anh Thủ, mùi rau muống xào tóp mỡ của vợ tôi hoà trong mùi rượu đế thơm nức với tiếng mỡ sôi lép bép, béo tanh khi nhà Phạn rán cá.

Mùa hè năm ấy, gió quật từ hồ đem theo cả mùi ngai ngái và hơi tanh của bèo tây và bọt khí lòng hồ. Tôi thường đọc sách tới khuya bên vách đất. Vợ tôi đã lăn ra ngủ, thở đều, đôi chân trắng nõn của nàng gác lên bức ngăn gỗ.

Tất cả quen dần như vậy. Nó cũng giống như ta thở hít thứ không khí làng quê. Hương làng sống ăn đời ở kiếp bao đời với đa số người Việt Nam, nhưng chẳng ai để ý. Khi ra thành phố, vẫn nhơ nhớ một cái gì đó, thiêu thiếu cái gì đó, xưa ẩn giấu trong vô thức, nay có dịp, hong hanh nhớ ra, gợi về cái làng xa kia mà chẳng nhớ rõ mùi gì.

Tuần thứ tư từ khi lấy nhau, vợ tôi ghi một dấu thập to vật trên tờ lịch. Mới chín giờ tối, mà hai nhà bên đã tắt đèn. Tôi đành tắt đèn trần và bật cái đèn ắc-quy vẫn dùng khi mất điện.

– Trời nhiều mây, gió nhẹ, nhiệt độ từ 18 tới 25 độ. – Tôi tắt vội đài.

– Tiên sư mấy con phò bán trứng(1). Bảo mấy lần rồi mà nó cứ chèn ngang vào đầu hàng nhà mình.

– Ngày mai anh sẽ bảo nó. Thôi, lại đây! Anh chúa ghét cái thứ khuy cài. Mai anh lên Hàng Đào mua cho em cái loại mới về của Thái! Mềm và đẹp lắm. Sờ vào, mát cả tay!

– Rõ dơ! Tay gì như hòn than thế!

– Gớm… – có tiếng khúc khích, rồi yên một lát.

Tôi cố tập trung cúi xuống đọc tiếp giáo trình thương phẩm để khỏi mang tiếng là nghe trộm.

– Anh yêu em như thế nào? – Có tiếng rất nhẹ từ chái phải vọng sang. Tiếng Huyền!

Tôi bịt tai lại. Đầu ong ong mà vẫn nghe tiếng rinh rích của bầy chuột đùa chơi trên trần nhà. Bịt tai mới được muơi phút phải bỏ hai ngón tay ra. Khó chịu quá!

– Mùa đông bên kia lạnh lắm. Tuyết trắng xoá. Anh ở nhà một mình, ngồi nghĩ tới em!

– Nói dối!

– Thật đấy, đoá hồng của anh!

– Ai tin ma ăn cỗ?

– Nhìn trăng kia kìa. Có nó chứng giám cho anh!

– Bây giờ của anh rồi, ván đã đóng thuyền. Còn yêu thế không?

– Hơn chứ, cưng ơi! Anh yêu em bằng cả trái tim chỉ dành cho em!

Tôi chợt nhận ra, trăng lên thật. Tia sáng loang loáng như lưỡi kiếm màu vàng chém xéo qua khe cửa xuống vạt chiếu vợ tôi nằm.

Có tiếng gì chun chút như tiếng mở cái giác chữa cảm khỏi da thịt, như tiếng mút bóng từ miếng bóng bay vỡ, vọng từ chái phải. Lại nghe:

– Anh thích trai hay gái?

– Trai gái đều được tuốt! Gì cũng thích.

– Em thích con trai!

– Anh cũng thích con trai!

– Em thích con gái!

– Thôi, gái trai như vậy cả. Đấy! Con gái nhé! – Có tiếng thở. Tiếng cựa mình. Rồi tất cả chìm trong im lắng như tuyệt đối. Một lát lại nghe tiếng sột soạt của áo quần. – Ngày mai anh còn đi lên viện, có cuộc họp rất quan trọng! Thôi, ngủ đi, cưng!

Gió đêm nổi lên. Đập vào chỗ trần nào kẹp không kỹ, dập lên dập xuống. Hình như có tiếng thổn thức. Hay là gió?

Buổi sớm hôm sau tôi ra chợ. Đám hàng rong bán rau và trứng bày lấn ra hết cả lối đi. Mới sớm mà trời oi lạ. Những người ở ngoại thành kéo ra bán rau tự sản từ tinh mơ, những người buôn từ chợ rau Mơ cũng đã qua nhà tôi rình rịch từ khi trời còn tối. Cái chợ bé mà chẳng thiếu gì. Tôm cá từ mạn Đuôi Cá tươi đành đạch trong các thúng sơn hay trên mẹt. Rau, dưa, hành, thơm, đủ cả. Quầy bán tiết canh lòng lợn ngay đầu chợ. Họ không trông thấy tôi. Tôi nhìn thấy Phạn thoăn thoắt thái lòng cho vợ anh xếp lên đĩa. Mùi cháo răm hành phả ra thơm ngậy. Tôi nín thở. Tôi quay mặt đi vòng nhanh, trốn chạy cái mùi hấp đẫn. Cồn cào! Tới chỗ bán đậu phụ còn nghe tiếng Xuân lanh lảnh: “Nhà em hãm tiết bảo đảm, nước luộc lòng sôi trăm phần trăm. Các bác có chén tới ễnh bụng cũng vô tư đi!”

“Này con kia! Ông đã bảo không quang thúng chềnh ểnh chỗ đấy cơ mà. Đổ xe của khách, ông bảo.” Tôi quay mặt đi. Giọng Phạn! Có tiếng cười nồng khùng khục của ai đó. Tiếng ai: “Em đi đây, em đi đây!”

*
*    *

Tháng sau, phòng quản trị công ty cho người tới chuẩn bị mắc nước cho ba hộ chúng tôi. Người ta đo đạc sau nhà và quyết định đào phía sau một cái hố, xây bể nước. Công việc chẳng cần sự có mặt của tôi, nên tối về mới biết công trình ngày mai khởi công. Phạn chạy sang nhà Huyền, rồi quay sang nhà tôi: “Anh em ta mỗi người bỏ ra năm đồng bồi dưỡng thợ. Chúng em tính giá lòng mua, đắt là hai lít chính hiệu Con Nai Vàng(1) nếp lủi. Thôi thì cho bọn nó nhờn mép một tí, không mai bể nước lại rò rỉ thì chết cả nút.” Vợ tôi lấy tiền đưa Phạn. Gã cầm tiền xỉa vèo vèo. Xong! Phạn cười, mùi rượu phả vào tôi: “Giàu mà kiết, anh ạ. Nó tưởng em lợi dụng chém nó, hỏi đi hỏi lại mấy đồng bọ, như thanh tra không bằng. Em cần đếch gì mấy cắc đểu(1) của nó”.

Nửa tháng sau bể nước xong. Cái bữa xả nước hồi hộp như đào vàng. Dòng nước trong vắt lừ đừ dâng lên trong bể. Cô Xuân, cô Huyền chốc chốc lại ra ngó xuống. Phạn và tôi xúc đất, than xỉ làm một cái nền quanh bể. Từ nay chúng tôi đỡ chen chúc tranh nước quanh cái vòi công cộng. Cám ơn công ty. Công ty muôn năm! Phạn tự nhiên hô to như vậy, gã nằm lăn ra đất, sau khi giội ào ào liền mấy xô nước lên cái thân hình khi nào cũng ám mùi lòng lợn và mùi rượu.

Vợ tôi dọn một mâm cơm đậu phụ và đĩa thịt vịt ra chiếc chõng kê ngay đầu hồi nhà Phạn. Dù đã mời gia đình cô Huyền trước, nhưng cô Huyền cười cười từ chối: “Các bác cứ tự nhiên xơi, chứ nhà em hôm nay có hội nghị đã ăn cơm rồi”. “Cán bộ có khác, suốt ngày đi họp, lại đỡ cơm nhà!” – Xuân nói.

– Gớm ! Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì cứt. ấy, em xin lỗi bác! – Phạn nhìn theo cặp mông căng lẳn của cô Huyền, tấm tắc cái quần hồng cô đang mặc để nhận một cái véo rứt thịt của vợ.

Đêm ấy thực là dễ chịu hiếm có. Gió phe phẩy, nhiệt độ chỉ 18 độ. Tôi nằm xuống cứ thao thức mãi, có thể vì quá chén chăng? Trăng mười bảy và ánh sáng của muôn ngàn tinh tú loang loáng qua các khe hở phía trước nhà. Tiếng đồng hồ rí rách, chậm và thong thả thế!

– Lần này thì trúng thật rồi, anh ạ!

– Nói thật chứ?

– Tiên sư đứa nào lừa anh!

Tôi giật mình nghe tiếng ré lên nghẹt trong họng của Phạn sau đó. Tôi giả vờ ho đánh tiếng. Có tiếng đấm bùm bụp vào da thịt chắc nịch. Yên ắng một lúc, lại nghe :

– Anh yêu em không?

– Yêu!

– Yêu thế nào?

– Yêu đéo chịu được!

– Thật không?

– Đ. mẹ đứa nào nói dối!

Tôi thiếp đi sau tiếng rúc rích, tiếng chân chuột vẫn chạy trên tấm trần cót.

Tôi không hề biết rằng, gần sáng hôm đó vợ tôi cũng trúng, bắt đầu có trong người một mầm sinh linh. Sự kiện phải hai tháng sau mới xác định được. Ba tháng sau, vợ cho biết tin ấy, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì mình sẽ có con. Lo vì cuộc sống thế này, hai miệng ăn với lương lậu chỉ đủ chi hà tiện, nay mai thêm trẻ, nuôi nấng ra sao? Tôi không dám nói điều băn khoăn ấy cho vợ biết. Còn vợ tôi thì hớn hở khi thấy nụ cười của tôi trong đêm. Chưa gì nàng đã dự kiến tương lai của cái hoa mới vừa hong noãn. Nào là đi học Trường Y, Trường Nhạc, nào là sẽ may cho nó đồ màu xanh; nào là đi học Bách khoa hay trở thành nhạc sĩ? Đàn bà trẻ bao giờ cũng lãng mạn như bọn thi sĩ ấy, còn khi đã có con, trăm công ngàn việc, họ có còn vậy không? Tôi không dám cười, lặng kéo vợ vào lòng, nhìn nước mắt vợ cũng lặng ứa và chợt nhớ bao nhiêu mộng ước trước chiến tranh tôi
từng có.

Câu chuyện của chúng tôi nói nhỏ thế mà sớm ấy Phạn nghe thấy. Phạn chả hay dậy sớm uống trà, rồi đi lấy lòng và tiết từ ba giờ. Vài tháng sau, khi thau bể nước vì con chuột ngu ngơ sểnh chân, chết nổi lềnh bềnh, Phạn khoe: “Vợ em cũng có rồi. Ba tháng! Mẹ em sờ bụng, xem tóc gáy bảo: con trai! Vợ chồng anh thì mong cháu đi học này, học nọ, chứ con em chả cần học gì hết. Chỉ cần biết đếm là đủ! Đếm không nhầm là đủ. Con trai cho học hết lớp năm, biết đọc báo. Con gái thì ở nhà giúp mẹ thái lòng, đếm tiền! Hết!”

Phạn nhoẻn miệng cười, rồi vỗ vai tôi. Nụ cười của gã ngoác tận tai, nom vô tư và rất thiện cảm . Nụ cười ấy xoá hết những nét rất sắc cạnh ở khuôn mặt phong trần của gã. Người ta, khi cười rõ hình thiện và ác, có phải thế chăng mà tôi quên đi hết nét mặt vốn dĩ chờn chợn của gã, giữ lại nụ cười ấy suốt bao nhiêu năm phiêu lạc sau này của mình. Bàn tay gã nặng và ấm đặt lên vai tôi. Tôi nghĩ, Phạn không đùa.

Mùa thu năm ấy đến sớm hơn mọi năm. Không gian trước nhà chúng tôi như rộng ra khi gió trở mình đùn hết bèo từ mặt hồ bên này sang bờ bên kia. Vợ chồng tôi cuốc đất, dọn bụi trồng rau ven hồ từ đầu hè. Thu tới, rau muống vừa cằn thì cải lên xanh. Nom rất mát mắt. Thấy vậy, vợ chồng Phạn cũng xí một khoanh. Cô Huyền cũng xí một manh, chạy dọc tới năm chục mét, rào kỹ mà chẳng trồng xới. Vợ chồng Phạn không mát tay, rau cải của họ chưa kín luống đã vàng. Bù lại, mấy hàng ớt của họ rất tốt. Xanh mướt và cho trái ngay. Phạn bảo, gã bứng cả gốc từ nhà bạn, nên nhờ lạ đất và lắm phân gà mà như vậy, chứ chả giỏi giang quái gì! Con người em như ớt ấy, càng lạ càng tốt, nhiều phân rác càng hay! Lạ là cái gì nhỉ? Tôi chẳng biết gã muốn nói gì. Hắn lại bảo, hơn ba chục tuổi mới biết cái sở trường của hắn là chọc tiết và hãm tiết! Ông anh biết không, thọc con dao vào cái cổ mũm mĩm trắng toát để máu phun ra chói loà ấy mà, chuyện ấy đâu có giản đơn. Phải biết! Phải xử chính xác lưỡi dao. Không run tay, chệch hướng. Chọc một cái, đứt màng trên. Gí cái thứ hai, trúng tim. Tiết chảy hết, không đổ màu tím, không còn một tiếng kêu. Đấy là nghề! Nghe gã nói mà rởn người.

Những khi rau rộ, chúng tôi tỉa vài cây tươi roi rói chia cho hai nhà. Đúng là chúng tôi bắt đầu già trước tuổi, hay là khó khăn mà thấy vui vui bên luống rau. Những câu chuyện bên cái vườn ấy lan man đủ thứ. Tôi biết thêm việc Phạn cũng từng ở lính. “Ông đừng nhìn tôi bây giờ mà đánh giá nhé! Tôi từng là học sinh giỏi, chẳng khi nào chịu tổng kết các môn tự nhiên dưới điểm 9 đâu!” Phạn mở màn với câu như vậy.

Phạn vào Bình Trị Thiên hai năm, đánh dăm trận rồi bị thương, ra Bắc điều dưỡng. Cả năm, anh đi xin việc khắp nơi mà không có công sở nào nhận. Sau nhờ bạn đồng ngũ, làm ở lò mổ dạy cho nghề tiết canh lòng lợn, lại tìm cả mối bỏ hàng. Phạn kể: “Gia đình tôi gốc ở Nam Hà. Hai đời các cụ kỵ đều đỗ đạt, làm quan cho triều Nguyễn. Đời ông cũng bằng Tây, chữ ta đủ cả. Tới đời bố tôi thì ruộng nương cũng chẳng còn mà cái sở học, tiếng Tây, những sự biết của ông về Hắc Sơn, Man, Chu Chi, Hê Min Uê(1), đại loại như vậy, trở nên thừa thãi. Chẳng kiếm đủ cơm ở Hà Nội, bố mẹ tôi lên Tuyên Quang khai hoang, rồi lại xuôi Hà Nội. Xoay đủ thứ, sau chuyển làm hộp giấy gia công, rang xay cà-phê. Khi sinh tôi, mẹ tôi chỉ muốn tôi sau này đủ ăn, nên đặt tên tôi là Phạn. Phạn là cơm. Mẹ tôi nói vậy. Người ta đói thì cần cơm. Cha mẹ tôi trong loạn lạc triền miên, nên giản đơn mong tôi có ăn là đủ. Các anh chị tôi tên đẹp lắm, nào Hùng, nào Lan, Ngọc. Chuyện tôi lấy vợ là duyên số. Tôi quen cô ấy trong một lần đi xem phim ở Tháng Tám. Gặp người ta gây gổ với nó. Tôi can thiệp. Sau đó nên vợ nên chồng. Vợ tôi như miếng mỡ gầu, ngu hơn tôi một chút. Cô học chỉ hết cấp hai. Cái thời sơ tán, đạn bom, đi theo mẹ lang thang suốt trên những chuyến giao hàng. Nồi lành úp vung lành, méo úp méo. Chúng tôi hợp nhau. Trời cho lộc thì chả mấy chốc tay dao tay thớt mà có của ăn của để!”

Đêm ấy, tôi nằm nghĩ lại chuyện Phạn. Cái tên là lạ của anh ấy cũng có cả một lịch sử dằng dặc của mấy đời. Đời phức tạp quá hay con người ta trót mơ mộng nhiều, nên khi vỡ mộng thì quay lại thực tế với những điều giản đơn nhất? Lạ thật, có còn xứ nào cái tên cũng cõng theo thân phận, ước mơ của một kiếp đời không?

Vài lần, khi cả bọn đang làm vườn, tôi thoắt trông thấy bóng anh Thủ nhìn chúng tôi qua cửa sổ. Cái nhìn rất khó hiểu, gật đầu chào nhau mà tôi vẫn thấy có gì đó không cắt nghĩa được. Sao anh ấy không trồng hái gì nhỉ? Tôi tự hỏi, khi cô Xuân và vợ tôi vừa nhổ cỏ vừa thì thào. Họ thương: cùng kiếp đàn bà mà sao chị Huyền vợ Thủ chưa
có gì.

Tôi bước vào năm cuối cùng tại chức nên rất bận. Tuy nhiên vẫn phải chuẩn bị vật chất cho đứa con sắp chào đời. Tôi đi làm thợ hồ, thợ chụp ảnh đám tang, đám cưới, làm điện trong tất cả các ngày chủ nhật, cả ngày lễ, tết. Vợ tôi năng lên bà ngoại lấy tóp mỡ, dưa, thịt kho, cá kho. Vợ chồng Phạn thì xoay ra mua lợn tự mổ, bán kèm thịt. Có hôm, không mổ ở nhà chủ lợn, Phạn đèo lợn bằng xe đạp về chọc tiết ngay đầu hồi. Hắn làm thế nào mà không có một tiếng kêu. Sáng ra, thấy vệt máu mới biết đêm qua hắn làm lợn ở đó. Tôi bảo, ông khéo thế! Gã hiểu ý tôi, cười: “Sợ làng xóm mất ngủ thôi, còn mấy ông bác thuế vụ, có phần cả rồi!”

Vợ chồng anh Thủ vẫn đều đều đi làm. Mỗi sớm, anh dắt xe máy qua cửa nhà, thấy tôi, gật đầu chào. Bây giờ anh để bộ ria đen nhẫy, cặp kính râm vừa khuôn mặt màu xám nom rất hợp. Mắt luôn nhìn thẳng như chưa bao giờ trông thấy chúng tôi. Tôi nghĩ, mỗi người có một cá tính và sống bên Tây rồi, nên như thế. Nhưng Phạn thì phản ứng ra mặt. Một lần đụng nhau ở chỗ bể nước, Thủ vụng về để rơi thùng múc nước xuống mà không sao lấy lên. Phạn nhổ nước bọt ra dáng khinh bỉ, đu xuống lấy hai chân khều cái dây lập lờ lôi lên. Thủ không nói gì, mặt hơi tái, xách xô nước đi về nhà không ra nữa. Cô Huyền ra kín nuớc thay chồng. Phạn múc nước giúp Huyền, lại xách cả hai thùng về để ở đầu hồi nhà Thủ. Không hiểu sao Phạn hay ác cảm với Thủ như vậy?

Sau tết, qua xuân, sang hè, cái bụng vợ tôi cao lên bao nhiêu thì công việc chuyền sang tôi bấy nhiêu. Vợ tôi yếu, người vàng nhớt. Cô ấy chẳng chịu ăn, hơi trở trời là kêu mỏi, đau. Vợ Phạn thì không như vậy. Cô quần quật từ sáng tới tối mịt như chưa từng có chửa. Cái bụng ưỡn ra phía trưóc, bước chân khuỳnh khoàng, nhưng vẫn thoăn thoắt đi trước gánh lòng, thịt chồng gánh. Đúng là trời sinh ra mỗi người một phận. Chúng tôi thường an ủi nhau, rằng có con thì hạnh phúc phải trả giá, thêm vất vả, neo bấn. Cô Xuân đôi khi e ngại nhìn vợ tôi, rồi lại bảo: “Sướng chán, nom con Huyền kia kìa, có cái đéo gì để sướng như tụi mình đâu!” Lời thì thế, nhưng mặt ngó không có ý ác. Vợ tôi nhăn nhó cười.

Tháng tám, vợ Phạn sinh trước. Một thằng con trai rõ to khoẻ, bốn cân hai, chân tay mũm mĩm, mắt đen nhìn lơ láo, miệng đỏ tươi như múi quýt hồng. Tôi hỏi Phạn, đặt tên con là gì? Phạn bảo: “Tiến! Tiến lên, ông ạ!”

Hồi ấy, Hà Nội chưa chơi Tá lả, mới có trò Tiến lên. Giá có Tá lả thì chắc Phạn đã đặt tên con là Tá.

Vợ tôi vật vã hai ngày hai đêm trong bệnh viện Bà mẹ trẻ em. Mụn gái chưa đầy ký rưỡi, ủ trong lồng kính, chân tay đầy lông như con chuột con, nom rất thương. Phạn chắc cũng như tôi chỉ mong mọi việc xong là về nhà với con. Khuôn mặt người ta có hạnh phúc là biết ngay, lúc nào Phạn cũng tơn tớn. Không biết nom mặt tôi có thế không?

Sự thật là như vậy! Nhưng bên niềm vui dễ cảm nhận ấy thì Phạn rất vất vả trong mỗi phiên chợ mà chỉ có mình anh. Tôi thì khỏi phải kể. Ai đã từng có con ở cái thời bấy giờ, cái thời mà mua một hộp sữa, một lạng sườn nấu cháo cho trẻ cũng phải cân nhắc, đắn đo mãi, phải nhịn ăn, nhịn tất cả mọi sở cầu vật chất, tinh thần của người lớn như thịt tươi, xi-nê. Sự ấy, cho tận tới khi con gái tôi biết đi, biết chạy và đến lúc bảy tám tuổi, chúng tôi chưa hết vất vả vì cháu luôn đau ốm. Tim dị tật bẩm sinh, phản ứng rất nhạy với đủ mọi thời tiết. Sau, do tiêm gì đó động huyệt, chân cứng nhắc, đại tiện đứng rất tội! Không khí trong nhà luôn căng thẳng, nhất là những ngày nóng bức mà con khóc ngặt nghẽo, mềm lả trong tay vợ tôi.

Có thể tất cả những điều ấy đã làm cho một thằng tôi, một người quen với cuộc sống mười hai năm ở lính, chỉ quen chấp hành mệnh lệnh, nay trở nên một người hết sức lúng túng chăng? Đi bộ xuyên rừng tốt, kiếm rau rừng tốt, kinh nghiệm tìm nơi ẩn giấu, giữ cái mạng mình tốt, nhưng chả biết gì ở cuộc sống một cặp vợ chồng phải mềm mại giải quyết những khó khăn khi rơi vào hoàn cảnh mà tôi kể trên. Tôi trở nên thường xuyên cáu bẳn vô cớ. Vợ tôi cũng hết cả sự dịu dàng của cô kỹ sư trẻ vừa ra trường. Cả hai kẻ chẳng đứa nào xấu, nhưng ngô nghê trước cuộc sống gia đình vốn chả giản đơn. Sau này nghĩ lại, tôi vừa xa xót vừa ân hận. Nhất là nghĩ tới vợ tôi, người suốt cả thời gian ấy phải chịu đựng quá nhiều, việc cơ quan, việc nhà, việc con cái ốm đau. Song thường là, người ta có gục xuống, thì mới nhận ra điều đã mất. Đã mất đi thì cái gì chứ tình cảm như con chim sổ lồng đã vụt bay mất rồi.

Chúng tôi cãi nhau về những điều rất lặt vặt trong đêm. Từ chuyện tôi hút thuốc nhiều; chuyện đi hôm về tối chẳng buồn nhắn một câu; chuyện sao nhà bừa bộn thế, đến cái đầu tôi luôn hôi, bốc mùi trong căn buồng hẹp! Tất tần tật! Mọi sự cứ sinh sôi, chất đầy, lèn chặt trong cái hộ vốn hẹp tí của chúng tôi. Tháng, năm, những giọt nước mắt khô đi để lại khuôn mặt lầm lì và nặng trình trịch của vợ, cả mỗi khi cơm nước dọn ra; có khi bất ngờ không duyên cớ, những tiếng bát vỡ tan tôi ném vào cái cửa đầy những khe hở. Trong khi đó, cuộc sống của vợ chồng Phạn, Xuân vẫn hùng hục như ngày nào, vất vả hơn, nhưng thực là thứ cây hoang dã bất chấp mọi thời khí, để những khi Phạn dậy muộn, chúng tôi phải nghe một câu chửi rất chói tai của Xuân:

– Trời ơi, đéo mẹ nó chứ, bảnh mắt rồi, mà bố con nó còn ôm nhau ngủ như chó thế kia?

*
*    *

Khi đứa trẻ đầu mới chập chững biết đi thì vợ Phạn lại chửa. Công việc đòi hỏi cần có người giúp đỡ. Lúc sinh con đầu lòng, mẹ Xuân tới, hai tháng quần quật giặt tã đỡ đần Phạn. Lần này, Phạn dứt khoát không muốn mẹ vợ vất vả. Sáng xuống nhà, chiều ngược vào phố. Bà ngoại già rồi, phải ngơi chút xíu chứ! Phạn bảo vậy.

Một cô gái thôn Linh Cầu, đang tuổi xuân thì, em họ Xuân, tên Phượng. Tóc dài mượt đến ngang lưng. Hai tháng trời ra Hà Nội ở nhà trông cháu, không mưa đồng, gió bãi, trắng ra, mắt luôn lấp lánh, đôi má mơn mởn như rắc phấn.

Có người giúp việc, quán xuyến, tháo vát từ trông cháu tới cơm nước, vợ chồng Phạn rảnh rang đan tay làm ăn. Mà đúng khi ấy, Hà Nội đang rộ cao trào nhà nhà nuôi lợn, nên công việc giết mổ, tiết canh rất thuận. Phạn bận bịu lắm, quần quật suốt tháng, suốt năm, nhưng vẫn phởn ra hơn cả hồi mới lập gia đình, lại bớt say ngất ngư. Một bữa Phạn sang tôi bảo, sao vợ chồng tôi không thêm một nhau. Cho có lứa! Cho chó có đàn! Tre ấm bụi! Như cách nói của Phạn. Gã cười hoác cái miệng khi ghé tai tôi: “Hay máy ông anh tịt rồi?”

Phạn thừa sức biết gia đình tôi khó khăn ra sao, nhưng điều gã không thể biết là tôi đã rất nhiều lần phải tự giày vò với mình khi công ty mở chiến dịch giải toả hàng, điều cán bộ bảo vệ đi áp tải. Chỉ cần phẩy tay một cái, trút ngay vài can nước mắm là có mấy tháng lương. Sự hao hụt vài chục lít nước mắm sẽ được bù trừ dễ dàng bằng nước ruộng. Nhưng tôi không sao làm được cái điều giản đơn ấy. Can nước mắm trở nên nặng như buộc đá mỗi khi định xách nó xuống xe dọc đường. Hay, vì công việc chuyên môn, những lần lập biên bản, giáo dục những người ăn cắp hàng hoá níu tay tôi lại; hay từ điều xa xôi nào, ẩn tàng một cái nhìn như quở trách con người thực tại của tôi khi ấy. Ai nhìn tôi? Mắt vô hình! ở đâu, từ đâu nhỉ? Tôi cũng không tự lý giải ngọn ngành, mà chắc Phạn càng không biết. Hay là gã biết mà không thèm nói, vì có lần thấy tôi đăm chiêu, gã bảo: “Các ông là hay phức tạp lắm. Đời rắc rối quá rồi, cứ để nó thiên nhiên!(1) Nghĩ nhiều là tổn thọ!”

Vợ chồng Thủ, Huyền vẫn chưa có con. Tôi ngửi thấy mùi thuốc bắc đủ loại thơm phức bay sang nhà tôi. Tôi luôn nhìn thấy khuôn mặt đã buồn buồn lại buồn hơn theo năm tháng của Huyền. Anh Thủ vẫn qua cửa nhà tôi mỗi sớm. Cái Mô-kích đã thay bằng chiếc xe Hon-đa đầu bằng máy cộc, long lanh giọt lệ(2), nhưng khuôn mặt thì chẳng đổi, vẫn là cái gật chào rất lịch sự, bộ ria nhẵn nhụi và kính nâu nhạt.

Năm ấy hay mất điện. Mất điện thì ngày cũng như đêm. Ngôi nhà của chúng tôi biến thành lò thiêu. Riêng chái nhà Thủ ở hướng Nam, lại có bóng cây lớn phủ lên và Thủ trổ thêm cửa rộng đằng hồi, nên rất mát. Buổi chiều, bên hồi ấy, trẻ con hai nhà hay làm sân chơi. Phượng cũng bế cháu ra đó cho uống sữa, ăn bột, hóng gió.

Tháng bảy, Cô Huyền đi dưỡng bệnh trên Tam Đảo một tháng theo tiêu chuẩn công đoàn. Chắc ở nhà buồn, chiều nào anh Thủ cũng ra chơi với trẻ con. Nom người vậy mà dỗ trẻ còn tài hơn cô Phượng. Anh bế con Phạn rung rinh trên tay, cười nắc nẻ. Tôi nhìn ra chợt thấy thương anh. Căn hộ chật ních tiện nghi, lương lậu đủ chi, lại thấy anh luôn có khách tới mua bán đồ phim giấy, chắc kiếm ăn được. Thế mà anh chưa có một đứa trẻ! Nom đôi mắt và cái miệng có ria xanh kia nựng trẻ tươi ron rón, chắc cũng thèm một mụn con?

Cuối tháng bảy, trời chợt đổ cơn mưa chiều bất ngờ. Cô Xuân từ chợ đội mưa về lấy thêm nước mắm, thấy dãy quần áo chưa kịp rút, ướt sũng trên dây phơi. Xuân ngó vào nhà chẳng thấy cô em đâu. Linh tính thế nào, cô đạp mưa, chạy xô cửa nhà Thủ. “Con em tớ còn ôm cháu. Mặt gục xuống. Thằng khốn nạn đã cởi hết khuy áo của con bé dại dột. Thền lễn vú vê, hêu hếu cả rồi. Tớ điên hết cả người, chả kịp nói gì, lao vào giật con và tát ngay một cái lệch mặt thằng khốn nạn.” Hai tuần sau Xuân vẫn kể hệt như vậy với vợ tôi.

Đêm ấy, tôi tưởng tượng lại câu chuyện qua lời thuật của vợ. Tôi thấy Thủ mặt tái với vệt tát đỏ, cúi mặt xuống. Thấy tiên nữ làng quê của tôi hớt hải ôm áo đội mưa chạy về nhà. Thấy Xuân chạy ngược ra chợ báo tin dữ, Phạn mặt tím lại, nhưng vẫn bình thản thái thịt xếp lòng. Tôi nghĩ Phạn sẽ vác dao xông vào băm cho Thủ mấy nhát. Nhất là vợ anh cứ sấn sổ quát: “Bỏ dao thớt đấy cho tôi, về cho nó biết thế nào là mỡ chài với mỡ khổ!”

Vậy mà im như thóc. Tối ấy, Phạn vẫn sang tôi uống trà, nhưng lầm lì, không hé răng về chuyện đã xảy ra.

Mưa chiều làm nhẹ không khí cho vợ chồng tôi ngủ thiếp từ chín giờ. Có lẽ hai giờ sáng, tôi chợt tỉnh vì tiếng thì thào từ nhà Phạn vọng sang: ” Tôi nói như thế đủ rồi. Đàn bà như cô biết đéo gì!”

Có tiếng thút thít. Không biết Xuân khóc hay cô Phượng khóc. Lại nghe.

– Em cô vú vê nòn nõn như thế, làm đếch gì không có đứa thích. Nó chưa tụt quần em cô là may rồi. Xử như cô chả ra sao, lại tan nát hết! Lỗi ở con mả mẹ kia nữa. Con gái phải biết giữ mình. Các bà, cái gì chả đổ tội dâm ô trụy lạc cho đàn ông! Đàn ông, đàn bà đều là đàn. Còn thằng Thủ, tôi có cách của tôi. Sao cho nó sợ mà lại biết rõ bộ mặt nó, cho nó biết rõ cái mặt mình. Khóc gì nữa. Ngủ đi, mai còn chợ. Con Phượng muốn lên thành phố thì thiếu gì chỗ. Bạn bè tôi, dân giang hồ, tứ chiếng, đủ cả! Không thiếu thằng chồng ra chồng. Các bà thời này cứ tưởng, mới một tí là tru lên như chó, khóc thảm như thiên hạ khóc Kiều ấy! Bà biết Kiều không? Hay đếch biết nốt? Cũng như cô em cô thôi. Đẹp mà, thời nào chả chết! Không đẹp thì chó nó dòm, một quan cũng chả đắt, tiền đâu chuộc ông via. Nín ngay cho tôi nhờ! Thế đấy! Chán quá! Đời ơi là đời! Lý thuyết lằng nhằng với cô chán bỏ mẹ. Ngủ đi cho nhanh, để mai còn chợ búa!

Tôi bàng hoàng. Thì tôi cũng là thứ chẳng ra gì. Tay đây, vai đây, sức vóc đây mà như bị vòng kim cô thít chặt. Xoay xoả như thế nào, kiểu nào cho vợ con mát mặt? Tôi nín thở, cắn răng để khỏi đấm mạnh xuống giường.

Buổi chiều hôm sau. Biết Thủ có nhà, Phạn rủ tôi sang. Tôi từ chối. Nhưng Phạn quyết kéo tôi đi. Anh không lo! Phạn này chả dẫn ai vào thế cùng đâu, gã nói vậy và kéo tôi xềnh xệch ra cửa.

Cái bàn gỗ lát có tấm kính và bộ uống trà men sứ tây long lanh trước khuôn mặt tái nhợt của Thủ. Tay anh run run, nhưng còn chút bản lĩnh để mở cửa, lịch sự mời chúng tôi vào nhà. Đôi mắt Thủ vốn vô hồn, giờ đây nhớt nhát, khó tả quá. Tôi ngoảnh mặt đi chỗ khác, nín thở. Không khí căng, im như khi tôi lên dây mí đàn ghi-ta.

Phạn vào đề ngay. Tiếng anh nhỏ, nhưng gằn:

– Nói cho ông biết! Vuốt mặt phải nể mũi! Đánh đĩ thiếu đéo gì nơi. Nó là em tôi! Chúng tôi không phải là chó! Cho ông một nhát thì dễ hơn chọc con lợn. Nhưng như thế thì tiệt cái thứ giềng tỏi xóm gừng. Ông định lợi dụng nó thì phải dứt khoát sang xin lỗi vợ tôi, xin lỗi con Phượng. Còn muốn có con vì vợ thiếu trứng, hoặc yêu thực nó thì báo vợ. Có gan! Tôi cho ông quan hệ thoải mái. Đ…mẹ! Đừng có lập lờ! Hẹn cho ông ba ngày! Nếu không làm thì nói một câu cho nhanh! Nhắc lại, chúng tôi quyết không phải giống chó! Nhưng…!

Phạn chợt dừng nói. Anh đứng phắt dậy. Tôi giật thột nguời.

– Thôi! Đủ rồi! – Phạn kéo tôi đứng dậy, đi luôn.

Suốt vài hôm, tôi không thấy bóng Thủ. Hắn biệt đi hai hôm, lại về. Tôi không rõ việc Thủ có gặp Phạn không và nếu gặp thì gặp ở đâu, nhưng thấy Phạn trở lại vẻ tơn tởn xưa. Thậm chí còn tỉnh bơ huýt sáo như chưa hề có chuyện gì. Mãi nửa năm sau, Phạn mới bảo, nó thực hèn, đạo đức giả, cố làm sang, tách ra khỏi hàng xóm láng giềng. Đi mẹ đâu cho khuất, chứ còn ở gầm trời này, phải thở khói bụi này! Nhưng may là nó còn biết thương vợ một chút. Còn không thì em bảo, Phạn này không thích đùa dai.

Chuyện chỉ biết đến vậy. Mắt gã khi ấy kinh thật! Quắc sáng như điện, chớp lạnh cả sống lưng tôi.

*
*   *

Hết đợt nghỉ, Huyền về và sự việc Thủ với Phượng chìm trong lãng quên. Cũng còn do sau đó hai tháng Phượng về quê, thế chỗ là một chị cứng tuổi, cũng em Xuân. Đùng một cái có tin vợ Thủ có mang. Một năm sau, sinh một cháu gái rất kháu khỉnh. Con Thủ đầy tháng, cô Huyền tổ chức đầy tháng cho con, xe pháo chật cả dãy bên hồ.

Chúng tôi, hàng xóm láng giềng cũng sang mừng vợ chồng Thủ. Vợ tôi và Xuân bàn nhau đi mua quà mừng. Họ mang về một cân đường, hai chục trứng gà, một bộ quần áo lọt lòng rất đẹp trên Hàng Đào làm quà mừng đầy tháng. Từ nhà Thủ, xong việc, Phạn vào tôi uống nước. Hết tuần trà thứ hai, gã ghé vào tai tôi nói: “Ông có thấy con bé giống ai không?” Tôi trừng mắt lên ngạc nhiên. Phạn cười bảo: “Nó chẳng giống ai cả. Thụ tinh nhân tạo đấy! Như lợn ấy mà. Ông không biết chuyện này đâu. Nhưng tôi thì biết rõ!” Tôi có cảm giác bất nhẫn, nhưng chợt nhớ lại việc gặp vợ chồng Thủ ở viện bữa nào mà họ cứ né mặt. Có thể như vậy thật. Trầm ngâm một lúc, Phạn lại nói: “Cái hôm nó gặp tôi để nói chuyện con Phượng, có lúc điên tiết, tôi đã tính thí cho một nhát, đạp mẹ nó xuống hồ. Đến lúc nó cúi mặt xuống, kể chuyện rằng vợ chồng phải thụ tinh nhân tạo thì mình lại thấy cơn giận dữ, căm thù cái bộ mặt đểu giả của nó biến đi đâu hết cả.”

Từ ngày có con, Thủ chẳng thay đổi gì, vẫn khuôn mặt như hôm nào, nổ máy xe nhè nhẹ qua cửa nhà tôi.

Gia đình Phạn cũng thêm đứa nữa là ba mống, hai trai một gái. Vợ chồng tôi vẫn ở với nhau. Chúng tôi hoàn toàn tan vỡ về mặt tình cảm, nhưng bệnh tật của đứa con gái vẫn níu chân nhau lại. Có bận, tôi bỏ nhà một đêm, sau lần tôi thư từ với một bạn gái cũ tận Huế, bị vợ nghi ngờ trai gái, vặn vẹo, rồi ném thẳng vào mặt một câu nói khinh bỉ: “Anh là đứa phản bội. Từ bộ đội về, thực khố rách áo ôm! Bây giờ no xôi chán chè lại định mèo mả gà đồng, hả? Muốn bỏ mẹ con tôi thì nói cho rõ ràng rồi chia tay!”

Tôi không muốn thanh minh cho sự hèn hạ và kém trải đời của tôi khi ấy. Tôi không đủ sức chịu đựng và hiểu ra nguồn cội câu nói nặng nề của vợ. Tôi cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Tình cảm của cả hai như con chim sẻ già bị bẫy vào lồng, càng cố vùng vẫy càng xơ xác. Chỉ còn nước chim tự cắn lưỡi chết hay vụt bay đi khi cửa lồng vô ý hé mở. Như thế, vợ tôi và tôi là hai bóng ma buộc vào đứa con tật nguyền.

Năm 1988, con gái tôi đã hơn mười tuổi. Cơ quan có đợt đi Đức. Tôi quyết định ra đi mong: “Có tiền mà tay vẫn sạch”. “Cũng nên biết ở xứ khác, người ta sống thế nào”, vợ tôi nói vậy. Chúng tôi quyết định, nếu tôi đi thì bán căn hộ ấy để vợ tôi có cái mà chi tiêu chữa chạy cho con. Vợ tôi cũng muốn đi chỗ khác. Cô ấy bảo, đất ấy xúi quá, nên con cái không ra gì. Nếu bán căn hộ ấy, tính cả đất chúng tôi chiếm được trước, sau nhà làm vườn, chái bếp công ty mới làm cho ba hộ sau nhà, vị chi khoảng hai cây rưỡi. Tôi hoa hồng một phòng nhỏ ở khu tập thể gần nhà mẹ vợ bên Tương Mai, còn dư ra vài chỉ. Thế là quyết!

Vợ tôi đánh tiếng cho cô Huyền vì biết cô gióng tiếng mua nhà. Dây dưa hai tuần, ông Thủ dứt khoát chỉ trả cây tám. Chuyện bán chác nhà tập thể khi ấy chẳng phải che giấu như xưa, nên đến tai Phạn. Tối chủ nhật, Phạn sang hỏi giá và không bớt một cắc, hẹn tuần sau chồng đủ hai cây rưỡi. Vợ tôi mừng rỡ, sớm sau vay tiền mẹ đặt
cọc cái phòng nhỏ nói trên. Đùng một cái, tối thứ hai vợ tôi lại nhận tiền đặt cọc của cô Huyền. Ba cây! Căn hộ này ba cây! Vợ tôi báo với tôi giọng mãn nguyện.

Tôi không biết xử lý ra sao. Trời ơi, nửa cây với chúng tôi là cả gia tài lớn. Bảo vợ giữ lời với Phạn thì mất toi nửa cây. Tôi trằn trọc tới nửa đêm, nhưng không sang nói lại với Thủ hoặc là thưa lại chuyện với Phạn. Đêm tối, tôi quay về nhà Phạn lầm rầm: “Phạn ơi, tha thứ cho vợ chồng tôi!”

Ngày giờ tôi đi Đức được quyết định chính xác. Ngày giờ chúng tôi chuyển đi, bứt khỏi nơi chúng tôi sinh sống, chung đụng mười hai năm trời trong cái nhà ba hộ, đã xác định. Vợ chồng tôi vào đêm trước ngày chuyển nhà không sao ngủ được. Con gái đã ngủ, chúng tôi ngồi yên lặng nhìn nhau không nói một lời. Cô ấy đang nghĩ gì nhỉ? Bao lần tôi tự hỏi.

Phải hai ba tiếng sau đó, cô ấy phá tan sự im lặng, buột hỏi: “Anh có yêu em không?”

Tôi im lặng. Tôi cảm thấy thời gian nặng và chậm tới như ngàn khối bộc phá ở đâu đây. Mãi sau mới nói: “Anh thương em!” Vợ tôi cắn môi, nhìn tôi không chớp đến một phút và lặng lẽ đi tới bên cửa.

Đêm ấy, tôi linh cảm thấy cuộc đi của tôi là cuộc chạy trốn vô vọng hay cô ấy cũng cảm thấy điều ấy mà mọi sự nói chuyện phút chia tay đều trở nên vô nghĩa và dối trá?

Cuộc dọn nhà diễn ra trước khi tôi đi Đức hai ngày, rất nhanh và không kèn trống. Tôi và vợ sang chào Phạn. Vợ Phạn vẫn cười chúc chúng tôi may mắn. Phạn thì chẳng nói nửa lời. Mắt gã lơ lơ nhìn đi đâu. Mãi lúc ra cửa gã mới hạ một lời gọn lỏn: “Thôi, ông đi!”

Gã giận là phải! Tôi nghĩ.

Tôi ngoái lại mảnh đất. Con đường. Cái hồ. Ba căn hộ!

Khi ấy bất chợt xuất hiện bảy sắc huyền ảo của chiếc cầu vồng dẫn từ bên bờ bên này sang bờ bên kia hồ. Tôi dụi mắt. Không! Cầu vồng! Cái hồ nửa nắng, nửa mưa tạo thành cầu vồng, bắt đầu từ cái dải đất bên này vắt sang bờ bên kia.

*
*     *

Thực ra câu chuyện chỉ nên kể đến vậy. Nhưng thật bất công, nếu quên nhắc tới việc vợ tôi đã hết sức kiên trì theo đuổi chữa bệnh cho con gái tôi. Qua bàn tay của giáo sư X, với hai lần phẫu, mổ tim và mổ chữa xơ cứng cơ tứ đầu đùi, con tôi đi lại hoàn toàn bình thường. Tất nhiên cũng phải tốn kém. Con gái chúng tôi học xong đại học và ra trường, nay công tác tại một viện khoa học. Nửa năm, sau khi nó khỏi bệnh, tôi nhận được thư và đơn ly hôn của vợ tôi gửi sang. Thư khá dài, nhắc lại thêm đau buồn. Nhưng không bao giờ tôi quên được đoạn thư sau: “Em biết, anh không yêu em. Sự cầu mong một gia đình, sau lần anh cãi nhau với chị dâu anh, dẫn đến việc chúng ta đột ngột quyết định từ mới quen biết thành vợ thành chồng. Đốt cháy giai đoạn, cả em và anh đều ngộ nhận. Tuy mỗi người ngộ nhận một dạng khác biệt. Chia tay, em cầu mong cho anh sẽ chẳng khi nào mắc lại khuyết điểm ấy. Không thể có một gia đình thiếu một tình yêu đích thực…”

Tôi về phép. Chúng tôi ly dị. Tôi thề chẳng bao giờ quay lại nhà ba hộ. Nó không có tội gì, nhưng tôi không muốn nhìn lại quá khứ, kỷ niệm một thời chật chội! Vì thế, mấy năm liền, dù vẫn về Việt Nam ăn tết với anh chị tôi, nhưng không khi nào tôi ghé qua nơi đó.

Sự đời chẳng giản đơn giữ một câu thề.

Tết vừa rồi, tôi lại về thì gặp con cả của Phạn đi cùng chuyến, ngồi cạnh ghế. Vô tình hỏi chuyện, mới nhận ra cậu bé mũi xanh lét, ngày nào cha cậu định quyết số phận cậu chỉ học hết lớp Năm, biết đếm là đủ. Thằng mũi xanh ấy, vừa tốt nghiệp Đại học Kiến trúc tại Đức với số điểm cao tuyệt đối và được ở lại để làm tiếp bằng tiến sĩ. Vậy là tôi quay lại nhà ba hộ với sự háo hức qua những lời kể của con Phạn: “Bố mẹ cháu vẫn nhắc tới bác. Mẹ cháu vẫn hay tới thăm vợ bác. Mà sao cả hai bác không đi bước nữa, hở bác? Chú Thủ sinh thêm con gái nữa. Vẫn ở đấy, nhưng bây giờ nổi tiếng lắm. Chú ấy lên ti-vi, viết cả thơ, mới đỗ tiến sĩ mỹ học gì đó! Cô Huyền lên Hồ Tây xây một biệt thự, sống hẳn trên đó với con. Bố mẹ cháu dạo này bỏ bán lòng lợn tiết canh, chuyển sang mở hai cửa hàng bia hơi. Người làm thuê bây giờ ở quê ra đầy, nên bố mẹ cháu không phải đầu tắt mặt tối như trước nữa.”

Tôi bàng hoàng không nhận ra con đường cũ. Một dãy phố dù lộn nhổn nhưng đúng là phố, hiện ra bên hồ không tên xưa. Mặt hồ vẫn nhiều bèo tây và tôi cảm thấy hẹp lại. Tôi chẳng còn trẻ để xúc động, dù nhận ra cái mùi tanh tanh của nước hồ ngày nào. Ngôi nhà của Thủ và Huyền rộng tới hơn bảy chục mét, cao vót lên với cái tháp tròn Ba Tư. Tháp muốn nghiêng trùm lên ngôi nhà ba tầng của Phạn. Được báo trước, Xuân ăn mặc rõ nuột nà, còn Phạn thì nghiêm chỉnh trong bộ com-lê màu xám rất điệu. Họ đã bốn cháu, nom cũng khác truớc, đẫy ra và tóc đều đổ muối tiêu cả lượt.

Chẳng đứa nào chịu chỉ biết đếm cả! Gã cười toác tận mang tai khi tôi nhắc chuyện cũ và chỉ sang nhà bên: “Xem kìa! Ông tiến sĩ mỹ học xây cái nhà nửa tây, nửa ta cứ chực nuốt tôi. Tôi thu xếp xong cửa hàng bia hơi nữa cho ổn, sẽ bán nhà này, nhường khu này cho lão và chuyển hẳn đi, anh ạ. Con cái đều muốn vậy. Chúng nó bảo, bố mẹ lưu luyến gì đây? Sau này người ta sẽ chẳng phá tất đi để xây lại hết cho mà xem! Bây giờ chả đứa nào nó nghe mình, nên mình khéo phải theo chúng lên khu mới làm nhà mới, cho đời chúng chuyển hẳn sang cái đất khác đi. Ông anh và tôi cố sống chờ xem bọn trẻ chúng nó có cơm cháo gì không, rồi nhắm mắt. Mà đếch ai biết được con tạo nó vần thế nào, ông anh nhỉ?”

Phạn đặt tay lên vai tôi. Mắt ấy, môi ấy, hơi rượu thơm nức phả vào tôi để tôi nhận ra gã đã rũ sạch nỗi bực xưa.

Mưa xuân lắc rắc lẫn trong nắng nhạt. Bụi cúc tần sót bên kia đường mới nhả đám tơ hồng vươn lên chua chúa những sợi lua rua vàng óng, cố bứt lên, trong ảo huyền mưa nắng, khỏi màu xanh đông già, cũ.

Nước Đức – 2001

Mùi Thuốc Súng

Chiến tranh chấm dứt. Anh đòi trở về quê nằng nặc, từ chối tất cả mọi ưu đãi, thăng hàm, đề bạt, chỉ mong về quê. Với anh, cuộc chiến đã xong, đất nước đã hòa bình và thống nhất. Quê hương là tiếng gọi duy nhất, sau 12 năm anh ra đi.

Suốt cả chuyến tàu trở về, dường như anh không thể ngủ cho ra ngủ, cứ vừa thiêm thiếp là lại chập chờn mơ. Giấc ngủ bồng bềnh, lắc lư như con tầu, đầy những cơn mộng mị. Khi thì vui, lúc lại buồn. Trong cơn mê sảng, anh thấy thầy, thấy u, thấy rõ cả mảnh vườn xơ xác, mái nhà anh lợp rạ; lại thấy mồn một cái cầu ao mà ngày đi, trước khi ra đình hai tiếng, để đứng vào hàng quân, anh vẫn lột trần ra, lội xuống cố đóng thêm hai cái cọc tre vào đầu cầu, giữ cho chắc tấm ván không cập kênh. Anh muốn vợ không sợ nữa khi ra ao giặt rũ, rửa rau, vo gạo. Và, trong mơ, có lúc anh còn ngửi thấy cả mùi tóc, mùi miệng, mùi môi, cả mùi nách nồng nồng nhưng đã ngấm vào anh của vợ. Mơ thấy vợ, rồi con, đứa con gái anh chưa biết mặt, anh choàng tỉnh. Bật phắt dậy, không thể ngủ được nữa! Ra đầu toa, đứng nhìn vào đêm đen thẫm, anh đốt liền ba bốn điếu thuốc. Sao tầu đi chậm thế!?

Quay lại toa tầu nơi có chỗ của anh, lại mở ba lô lần đếm. Cái này cho con gái, cái này cho thầy, cái này cho u, cho vợ nữa và, còn những cái này, bao kỉ vật cuộc chiến của anh. Chiếc ponso rằn ri, mấy múi dù hoa. Con dao găm Mỹ chuôi bằng các vòng gỗ kết vào nhau và túi mìn Claymo…Anh lật đi lật lại trên tay vật cuối cùng, một bánh TNT, loại thuốc nổ cực mạnh. Thỏi thuốc hình bánh khảo, màu vàng. Anh đưa lên mũi ngửi.
Mùi thuốc súng.
Cái mùi theo anh suốt bao năm, để mỗi khi hít phải, anh có cảm giác rất lạ. Nửa đam mê, nửa như sợ hãi, lại như cho anh sức mạnh tựa khi mộng du. Rồi tỉnh táo lạ thường. Anh là đặc công, lính đặc công quần xịp, bôi tro đen kín khắp thân người, để anh lẫn vào bùn đất, vào bóng đêm, áp sát đồn, căn cứ địch với nhiều kíp nổ và vài khối thuốc nổ đã tra kíp, dao găm và thủ pháo, Ak 47 giảm thanh báng xếp. Ừ, cái thứ thuốc chết người ấy, tỏa ra một mùi vị khó quên, không thể tả nổi. Mỗi khi bật chốt điểm hỏa; lửa đỏ bùng lên trong nháy mắt tạo ra sức ép kinh khủng và mùi thuốc súng tỏa ra, để anh nhao vào điểm đánh khác như tan vào nó. Mùi ấy sau bao ngày, lâu năm ngấm vào từng tế bào trong anh.

Anh ấn sâu thỏi thuốc vào ba lô. Hòa bình rồi chả cần nó nổ nữa, anh rút kíp vất đi trước khi giữ nó làm kỉ vật.
Mỗi con người có một thời kỉ niệm. Khi con người ta thuộc về một lớp lứa, một thế hệ, cụ thể hơn ở đây là anh đã thuộc về một đơn vị đặc biệt, phải giữ nó để nhớ, nhớ về một thời họ đã trải qua, khi thỏi thuốc ấy, mùi khói ấy cũng gắn bó với tất cả, trong cuộc sống sinh tử của đồng đội, thằng còn, đứa mất. Và, trong cái mùi dễ khơi lại ấy ở anh từng khuôn mặt, từng kỉ niệm bừng hiện ra thật rõ như hôm qua… Cái mùi theo anh suốt bao năm, mùi bi hùng của đời lính đặc biệt…

Rồi con tầu cũng về tới ga Hà Nội.
Anh quyết định đi bộ, sải chân về làng. Ăn nhằm gì! Từ ga Hàng Cỏ tới Kinh Bắc có bao xa? Anh muốn nhìn lại tất cả, từ ga tới làng anh, bên kia con sông, nơi cách đây 12 năm anh giã từ nó, chưa một lần trở lại.

***

Nhà đây rồi. Anh hồi hộp nới sợi thép buộc cổng. Rón rén, lách qua hàng dậu cúc tần. Những sợi tơ vàng quấn trong bụi cây, trong ánh trăng lấp lánh sương ướt, vẫn phân biệt được màu vàng của dây tơ hồng và màu xanh của lá, dầu là muôn kiếp, chúng cứ quấn quýt bên nhau.
Trăng chiếu xéo vào cửa nhà anh. Anh nhận ra bậu cửa vẫn xiêu vẹo. Cái hiên đất nện nứt nẻ. Lòng anh thắt lại…
Bấy giờ không còn chần chừ được, anh lao vào nhà.
-Ai thế!- Có tiếng người rè,  khản vọng ra.
Anh im lặng. Rón rén! Khe khẽ:
-Tôi, tôi đây.

Tiếng chân từ trong chái nhà bước ra chầm chậm. Đúng là vợ anh rồi. Cái dáng ấy bao nhiêu năm sao mà lẫn với ai được.
Anh chợt sững lại. Vợ anh ư?! Sao trên tay lại có đứa trẻ nào thế kia?
– Ai đấy? Tiếng người  run rảy hỏi.
– Tôi đây? – Anh sấn tới như gió, ùa vào ôm vợ.

Sao vợ anh hờ hững và chợt như xỉu ra.
-Thầy u đâu cả? – Anh nói, nhìn quanh gian nhà lạnh ngắt.
Người đàn bà hình như đã nhận ra anh:
-Trời ơi! Mình đấy à? Tôi mê hay tỉnh đây? Trời ơi, mình hay ma?- Người đàn bà sụp xuống, lạy:
-Anh có khôn thiêng phù hộ mẹ con tôi, đừng làm tôi sợ. – Nói xong, người đàn bà bỗng khuỵu xuống, ngất xỉu. Anh đỡ vợ. Đúng hơn là đỡ cả người đàn bà và đứa trẻ như con chim non bấy trong vòng tay.
***
Chuyện anh về cả xóm, cả làng ồn lên. “Thằng Thánh về rồi. Chuyến này chắc nó giết con đĩ Thơm. Vợ con chó gì, ngủ với cả bố chồng, lại đẩy ông ta tới mức tự tử. “Ối trời, cái làng nhỏ như bàn tay ếch ồn ĩ, xì xào, rì rầm, thì thào như cái chợ âm phủ, rỉ rả quanh câu chuyện của gia đình anh. Nhưng anh không điếc, tiếng người ta cứ như rót vào, đổ vào tai, như cố xoáy, day, cứa cho bằng nát cõi lòng của anh mới thôi.

Anh trốn tránh tất cả. Trốn cũng không yên. Ngày, đêm nằm chết lặng trong góc giường tối, ba bốn ngày không ra khỏi nhà. Người ta như vô tư tới thăm người lính trận đột ngột trở về. Người thương anh ái ngại nhìn, ngập ngừng nói. Nhưng anh lại như đau thêm vì tình thương ấy. Kẻ tò mò thọc mạnh cũng nhanh chân đến. Cả hai điều ấy chỉ làm cõi lòng anh thêm nhức nhối, bởi người lính từ cõi chết trờ về đâu cần thương hại. Hóa ra vượt qua hàng rào lửa ở chiến trường còn dễ hơn khi nghe, nhìn, rồi cảm thấy nổi đau rất rõ ràng của chính mình ở ngay trong cái làng của anh. Anh quyết định rào kín cổng, quây tre cao hơn những những hàng cúc tần, bít chặt cả những lỗ thủng to bé quanh nhà, thậm chí tất cả lỗ chó chui. 
Từng đêm vắt tay lên trán anh nằm, giữa một bên là con gái anh, 12 tuổi, tính ra đúng là tuổi sinh ra từ ngày anh ra đi; một bên là em trai anh mới hơn một tuổi…Chẳng thể nào ngủ nổi, và anh như muốn chôn sống mình trong chính ngôi nhà, khu vườn cha ông, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi đã nuôi anh lớn khôn. Anh ôm đứa em trên tay khi nó cựa quậy, ú ớ đòi mẹ. Sao nó giống anh thế? Anh đi sang mái nhà bên, nơi thầy u anh ở, thắp hương cho thầy, rồi lại ôm lấy mẹ. Những khi ấy, anh để nguyên cho mẹ khóc. Anh không thể khóc được nữa. Nước mắt mẹ ướt hết vai anh. Trên bàn thờ, cha anh cứ nhìn anh trân trân. Cái ảnh mờ mốc, nhưng đôi mắt thì cứ thăm thẳm, nửa như mong chờ, nửa như ngạc nhiên. Đen trắng hoang  dại.

-Biết làm thế nào bây giờ, u ơi.- Có lúc anh muốn thốt lên câu ấy mà không sao mở miệng được. Lại có đêm, anh đau thắt nhìn khuôn mặt vợ bơ phờ quỳ bên hương án. Anh dìu vợ về chái nhà, lên giường nằm giữa hai đứa bé và thở rất dài.
Đau lòng quá. Anh chợt nhớ tới mùi thuốc súng. Lục ba lô, lấy ra thỏi bộc phá TNT, lại bần thần vầy vò nó mãi trong tay. Cuối cùng nhìn lại hai đứa trẻ, anh quay ra tìm con dao găm Mỹ đã dắt ở cửa nhà từ đêm anh về. Cạo ra một ít thuốc, anh châm lửa Zippo. Một mùi thơm bay ra, quẩn vào anh, đánh thức tất cả thần kinh của con người đã vượt qua biết bao khó khăn, sinh tử trận mạc, cho anh bình tĩnh lại.
Phải sống! Anh còn mẹ già. Còn hai đứa trẻ. Con anh và đứa kia. Đứa kia là em ruột của anh.

Phải sống! Nhưng sống như thế nào đây?  Những khoảnh khắc sinh tử trong chiến tranh vụt hiện. Nhưng hóa ra nó đâu khốc liệt như ngày hôm nay? Cuộc đời bao mất mát, bao người hy sinh trong vòng tay anh cho anh hiểu điều ấy. Hai đứa trẻ, con và em anh đòi anh phải sống, quên đi mà sống. Bản thân anh cũng không hiểu rằng, mình còn yêu thương hay căm thù cái gì, cả con người mà khi xưa anh rất yêu thương và mong chờ 12 năm cho ngày trở về.  Và, cả thầy anh, người anh kính trọng và yêu thương. Không, tất cả đã qua rồi, cần gì tra hỏi và truy cùng tận nguồn căn? Con người ta đâu chỉ sống cho quá khứ, phải sống cho hiện tại và nhất là tương lai chứ!

Phải sống!

Hai đứa trẻ, con anh,  em anh và mẹ già đòi anh phải sống, quên đi mà sống. Bất giác anh đăm đăm nhìn lên mái nhà để tránh cái nhìn của vợ, cả ánh mắt hai đứa trẻ. Nơi mái nhà anh nhìn lên có một góc xơ xác, đen mục vì mưa thấm xuống “nơi đấy đã hơn năm nay,  chả có ai dọi lại chỗ dột”. Cuộc chiến đã đi qua mái nhà này và để lại một di chứng là nơi dột kia. Và, cả những góc không nhìn thấy được. Nơi dột kia có thể soi lại, dọi lại, còn số phận mẹ anh, các con anh? Và cả chính anh nữa?
Sớm ấy anh sang nhà bên ôm lấy mẹ, thôi u ạ. Mọi sự con cho qua hết. Từ mai u dọn sang nhà con đi!
-Không. U không sang đâu. Nhà anh, anh ở…
-Thôi mà u. Nhà con nó chót dại.
-U cũng chẳng trách nó, cả làng này ai mà chả nghĩ, anh hy sinh rồi. Đã 11 năm nó vẫn kiên gan chờ anh. Chờ một người mà cả làng đều bảo đã chết. Giấy báo tử cũng đã về kia. Tôi cũng chả trách thầy anh. Anh đi ngày nào tôi ốm đau, mỏi mòn ngày ấy. Thầy anh cũng vò võ một mình. Rồi lại thương nó, đàn bà con gái cũng chỉ có thì…Nhưng giá như ông ấy tìm thú vui ở đâu, sao lại là nó… thì…thì tôi đâu hận.

-Thôi mà u. U trách thầy con làm gì! Con biền biệt chả tin tức gì! Thôi nín đi u!
-Ừ, tôi cũng nghĩ vậy. Vì thế trời Phật cho tôi còn đến ngày hôm nay để thấy anh về.
Anh  cũng hiểu cả, muốn tha thứ, muốn quên tất mà vượt qua. Nhưng…anh không biết  phải sống tiếp như thế nào?
Anh cũng hình dung tất cả sự việc qua lời kể đứt quãng của vợ về cái ngày sau đó, khi cái bụng vợ anh to dần, lộ ra không thể che dấu, để cả làng náo loạn lên.  “Thầy ngồi trong góc nhà tối khuya lắm, đêm ấy, cạnh cái vỏ chai thuốc sâu đã trống rỗng…” Rằng, “miệng thầy sùi bọt, bàn tay thầy yếu ớt run rảy đưa về phía em. Vươn sát cái bụng đã to sáu tháng của em.”- “Giữ lấy em thằng Thánh! Nó chết rồi. Thày có lỗi với hai vợ chồng mày cũng là vì dòng họ, dòng tộc! Ai là người gìn giữ mồ mả? Ai giữ gìn đất đai? ” Rằng, thầy ho khi bọt cứ sùi ra- Thánh cảm thấy cả giọng thầy anh yếu ớt van vỉ:
-Hãy tha thứ cho thầy. Thầy xuống đấy gặp nó đây. Thầy sẽ bảo nó tha thứ cả cho con.

”Thầy dặn thế, nên trước đó em giận thầy lắm, em vẫn giữ lại đứa em của anh, cho dòng họ Nguyễn làng này. Tất cả trai đinh làng ta đã ra đi và nằm lại ở chiến trường cả…Ai ngờ… Mà sao anh vẫn sống sót trở về để xáo tung hết cái ao bùn đang lắng này. Hu… hu….“
Suốt đêm ấy vợ anh rấm rứt khóc. Anh nằm bên, trân trân nhìn lên trần nhà, đau thắt như trăm ngàn nhát dao chém nát cả cõi lòng. Bao nhiêu ngày vợ anh đã khóc? Bao nhiêu ngày từ khi anh ra đi? Anh nào có lỗi, anh nào có lỗi?
Những năm ấy máy bay cứ rào rào bắn phá quanh làng anh. Máy bay trút bao nhiêu bom bi xuống phá cả ngôi chùa làng anh, cạnh nhà máy thủy tinh nhỏ của huyện. Từ Nam ra Bắc ai mà chả căm ghét cái lũ từ đâu tới đấy và bao nhiêu người như anh phải ra đi. Ra đi là tất nhiên rồi!
Mà sao thầy anh lại chọn cái kết cục thảm khốc thế. Cả nhà anh đều khổ đau thế. Cả thầy, vợ anh, cả anh và nhất là u anh. Nỗi đau đâu của chỉ mình anh hay của riêng u anh? Rõ là thầy anh đã làm thế rồi tìm lấy cái chết để tự giải thoát…Anh cũng hiểu vì sao vài lần vợ anh muốn tự vẫn, cả trước và sau khi thầy mất. Rồi có lần, khi dọn dẹp bàn thờ giúp u, lục trong hốc tủ nhà u, anh còn thấy một sợi giây thừng giấu kín trong mớ quần áo bạc phếch. Vậy là, ai cũng muốn ra đi rồi vẫn ở lại với hai đứa trẻ thì sao anh lại hèn hơn họ? Thánh mân mê con dao găm Mỹ. Con dao anh mài đã sắc bén, có thể cạo sồn sột đám lông chân. Anh không thể đâm một nhát vào bụng mình dù anh đã cố mài cho thật bén, thật nhọn và sắc! Không, anh phải sống! Những đứa trẻ còn kia!

***

Thời gian qua đi, như con người ta không để tự cứa mãi vào vết thương của mình. Anh cố gắng như con trâu đực kéo cày trên thửa ruộng, trong vườn nhà. Rồi cũng có tiền mua ngói thay mái rạ. Mua một cái xe đạp cà tàng. Những đứa trẻ cũng lớn lên, thấm thoát hai năm. Mỗi khi nhìn con gái anh, cặp sách ngang hông, tóc chấm ngang vai, tung tăng từ trường về như con sáo nhỏ, hát líu lo. Tiếng hát của con bé như trườn lên rặng cúc tần có những sợi tơ vàng yên bình quấn quýt bên nhau, bay qua cả rặng tre trước ngõ thanh bình, làm lòng anh chùng xuống, dịu đi. Anh ra cái vại đựng nước mưa bên gốc cau múc một gáo nước rõ to, uống một hơi hết sạch. Mát. Sao mát thế mà bây giờ anh mới biết. Có tiếng chim cu gù gù rất nhịp, nghe rất thanh bình quê anh, rồi  những làn khói bếp êm ả bay. Hình như mùi cơm mới…
Vâng, phải sống. Dù sao cũng vẫn phải sống. Yên hàn rồi cơ mà!
Một ngày mùa hè nóng bỏng, cách giỗ thầy anh hai ngày. Mùa hè, ai cũng như muốn điên vì cái nóng hầm hập cả ngày và đêm. Trước khi ra đồng, vợ anh chặt hai buồng chuối và dặn, có thằng Hạ tới thì bán giá như thế, như thế. Không được bớt xén! Tưng ấy tiền vừa đủ mua sách cho con gái anh đấy!

Chờ mãi cũng chẳng thấy thằng Hạ tới mua chuối. Tới chiều đang lúi húi bên vườn vật bùn từ dưới ao lên, thì u ở nhà thờ họ sang:
-Này, anh này. Buồng chuối đẹp quá. Cho u xin hai nải thắp hương cho thầy, anh nhé.
-Vâng u lấy đi! -Anh chọn cắt hai nải lớn nhất cho u. Lại hái cho u mớ chè xanh.- Mai u nấu cho họ hàng tới giỗ thầy con.
Đến sâm sẩm thì vợ anh về. Trong nhà nghe rõ tiếng vợ:
-Ai cắt hai nải chuối rồi?
-U lấy đấy! –Anh nói vóng ra.

-Thằng Hạ không sang hay nó tới mà thấy mất hai nải nó không lấy?
Anh nói với ra:
-Tôi cắt cho u cúng thầy hai nải rồi. Ngay kia là giỗ thầy mà.
-Này thì giỗ thầy này. -Nghe rõ tiếng dao phầm phập. Anh hớt hải chạy ra.
Ngoài sân người đàn bà vung con dao phát bờ chém như điên dại vào hai buồng chuối. Những nhát chém dồn ứ bao nhiêu uất hận?!
-Dừng tay lại! Dừng lại! Cô điên rồi.
Người đàn bà vẫn chém như điên như dại để tới khi cả hai buồng chuối thành một đám lổn nhổn nát bét.
Anh không kiềm chế được, khi cái phần con người thường nhỏ nhoi chôn cất ở đâu đấy trong anh bật ra từ kẽ nứt. Sao mà tha thứ nữa. Anh chỉ vào mặt người đàn bà vừa xa lạ vừa thân thương kia:
– Cô làm tôi không thể chịu  được nữa rồi. Cô phản bội tôi, còn khinh mạn cả thầy tôi.

***

Anh bỏ nhà ra bờ sông ngồi, mang theo thanh thuốc nổ TNT.
Có mùi thuốc súng thoảng lan ra từ đấy, bên một bóng người đàn ông đen sậm hằn bóng trên nền trời; hằn lên khi mặt trời phía Tây chìm dần; một khối đỏ ối đang chìm dần, quanh nó là những đám mây như có bàn tay nào đang rưới máu, loang lổ.
Đêm ấy anh về viết đơn li dị, điều mà suốt hai năm qua, anh chưa bao giờ nghĩ tới.
U anh nhứt định ở lại với hương án thầy, còn anh phải ra đi:
-Thôi con đi trước. Con đón u vào sau!
-Thôi anh đi đi. Đi cho khuây khỏa. Tôi chịu đựng một mình quen rồi.
-Vâng, thế thì con đi, con sẽ gửi tiền về cho u.
Người kéo vó đêm, trên đoạn sông ngay sát bến đò, đầu làng của Thánh, nửa đêm thấy hai bóng người len lén đi xuống nước.
Anh chính là kẻ dùng kĩ năng lính đặc công, tránh đi đò, bơi qua khúc sông đêm ấy. Lúc ra tới giữa sông, tay trái vẫn đẩy bọc nilon làm phao, trên phao đặt đứa con gái, anh chợt ngoái nhìn lại làng. Anh biết, vẫn có một người đàn bà già nua, u anh cô độc đứng khuất dưới bờ dậu cúc tần, từ lúc cha con anh rời nhà, nhìn mãi theo bóng cha con anh lủi thủi bước như kẻ đi trốn.

***

Bạn bè cũ ở thành phố Đà Nẵng bất ngờ thấy cha con anh quay lại nơi anh từng chiến đấu, đã giang tay đồng đội đón cha con anh. Không một ai được biết lí do anh quay lại vùng chiến trường cũ, ngoài thủ trưởng đơn vị cũ nay cũng đã chuyển ngành về làm trong ban lãnh đạo thành phố. Ai tò mò hỏi, anh bảo, vợ tôi chết rồi! Mà chết trong anh thật rồi!
Thủ trưởng cũ ân cần nói với anh, cậu cũng nên về đây với chúng tớ. Tất nhiên chưa thể thu xếp nhà ở ngay được, phải ở tạm văn phòng. Cậu có khả năng làm báo chí tuyên truyền, tớ phân công cậu về tờ báo của thành phố.
-Không có việc nào khó cả.- Anh bình tĩnh nói.
Với anh, còn có điều gì sau hậu chiến đau đớn quá đã đẩy anh vào sự chán sống như ngày anh trở về Bắc? Có lẽ đấy là điều khó khăn lớn lao nhất, thử thách khủng khiếp nhất và anh đã vượt qua trong suốt hai năm trời. Khi rời bỏ nơi ấy ra đi, anh đã bỏ lại tất cả nhà cửa đồ đạc cho vợ cũ và người em. Khó nhất là lúc tạm biệt u. Bà dứt khoát không theo anh. U bảo, u sinh ra ở đâu thì chết ở đấy. Nghèo khổ mấy cũng được. Mà cả một đời nghèo khổ rồi.
Nhưng một điều anh không thể vượt qua được là hành vi của người vợ năm ấy. Nó đẩy anh tới lòng căm giận để chia li. Chả nhẽ cứ hận thù mãi ư? Câu hỏi đó cứ lởn vởn như thường trực trong đầu anh, như vết thương cũ đau đớn chẳng đợi chờ những ngày trở gió. Anh cố lấy công việc để quên đi nỗi buồn tê tái để lại trên quê nhà, nhưng nỗi đau âm ỉ vẫn lẽo đẽo theo anh, dày vò anh, khiến anh nhiều đêm khó ngủ. Mỗi lần như thế,  chờ đứa trẻ ngủ rồi, anh rón rén moi trong ba lô “phong bánh khảo“, lấy con dao găm cạo ra một chút và đốt.
Mùi thuốc súng lại lan tỏa sau vệt lửa cháy vụt lên, chợt như cho anh vừa an ủi, vừa tạo ra một mê lực nào đó để anh có thể ngả lưng, trằn trọc nhắm mắt.

***

Thành phố Đà Nẵng sau chiến tranh một thời gian như trở mình vươn dậy. Những cải cách liên tục của thành phố không chỉ cho nhân dân mà cho cả cha con anh. Rồi anh cũng có một căn nhà nhỏ ven sông Hàn. Ngôi nhà quay ra biển để cha con có những ngày tha thẩn dạo trên bãi cát trắng xóa và anh tư lự một mình nhìn về phương Bắc.
Hình như con người có số phận. Nhất định có số phận như cái ngày thành phố khánh thành tượng Bà Mẹ Âu Cơsừng sững ngay lối ra biển lớn.
Ngồi ở ghế những đại biểu cựu chiến binh hôm ấy, anh thực bất ngờ khi có một bà mẹ đại biểu nhân dân ở dưới huyện Hòa Vang tìm anh, gọi tên anh và nhất quyết nói, anh là người lính Mậu Thân đã bị thương và nằm lại ở nhà bà trong hầm bí mật cả tuần.
-Cậu là cậu Thánh mà. Tôi nghe người ta giới thiệu tên cậu mà tìm cậu. Cậu nhớ không, má đã tiễn cậu ra tận ngã ba khi quân ta về đón cậu.- Bà má tóc bạc phơ cứ nắm chặt lấy tay anh dứt khoát bảo anh là người lính nào đó.
Đúng là năm Mậu thân anh đã tập kết nằm vài đêm ở cái làng ấy rồi vào đánh Đà Nẵng. Nhưng chiến dịch đó, anh đâu có bị thương. Thủ trưởng ghé tai anh: “Cậu lạ quá. Cả miền Nam này ai chả là mẹ của chúng ta. Cũng như những bà má từng nuôi cậu. Đừng để bà cụ thất vọng, ít ra là lúc này, dưới bức tượng Bà Mẹ Âu Cơ mà chúng ta vừa dựng lên.“
Anh ngượng ngùng, gượng gạo ôm lấy bà má. Thế là dưới tượng đài Bà mẹ Âu Cơ của thành phố, anh được nhận một bà mẹ, người đã cưu mang một thương binh nặng năm nào. Bà má, sau bữa ấy, gặp ai là người quen đều hớn hở khoe: “Tôi đã bảo nó dứt khoát quay lại mà, nó sống là tôi sẽ tìm được nó!“

Cha con anh được đón về huyện Hòa Vang thăm cả gia đình đã từng che dấu đơn vị anh. Thực không ngờ được, cô gái út của má tên Thắm rất xinh đẹp lại chưa có chồng, là giáo viên dạy văn trong trường con gái anh.

Bà má càng tin anh chính là người lính bị trọng thương năm ấy. Trong bữa ăn xum họp, bà như trẻ lại vài tuổi: “Má tính, trước sau má cũng sẽ tìm thấy con mà“. Cứ như thế, gia đình má và Thắm đi lại với cha con anh nửa năm.
Nhưng anh là người trung thực. Anh không thể dối trá. Anh đã kể hết với cô giáo cuộc đời mình và nói rằng, anh không phải là người chiến sĩ năm ấy.
Câu chuyện của anh lại rẽ sang chiều hướng khác. Cô giáo trẻ không nói gì. Suốt cả buổi nói chuyện với anh, cô chỉ âm thầm gạt nước mắt. Như con người ta có số phận cứ buộc với nhau bằng sợi giây vô tình. Cô giáo Thắm chăm sóc kèm cặp con anh nhiều hơn, đi lại với cha con anh dầy hơn và anh cũng tự cảm thấy không thể thiếu cô được. Cô dặn, anh cứ để cho má em tin là anh chiến sĩ kia đã trở về nhé! Có thể anh ấy đã hy sinh rồi. Nếu còn sống, chắc anh ấy đã về thăm mẹ em…Được! Anh nói yếu ớt.
Ngày cưới thật là vui. Con gái anh cũng vui. Còn không hiểu sao, khi khách khứa đã về hết, anh lại chợt nhớ tới bụi cúc tần ở làng anh.
Ánh trăng chênh chếch từ phía bờ biển soi vào nhà, run rẩy như ánh trăng đêm ấy…

***

Mười năm nữa trôi qua. Dù phải nuôi con gái vào Sài Gòn ăn học, tháng nào anh cũng vẫn gửi tiền về cho mẹ. Duy nhất một lần anh ra Bắc là lần về chôn cất bu anh. Anh để con gái sang với mẹ nó mà không lời thăm hỏi. Lặng lẽ về và lặng lẽ ra đi.
Nhưng hơn mười năm là cả quãng dài bao sự kiện và chính thời gian lại vừa xóa đi những uất hận vừa lại khơi gợi lại những kỉ niệm mà dù có muốn quên cũng không dễ mà quên của lòng đau.
Anh nhẩm tính thằng em anh đã 16 tuổi. Nó lớn rồi. Không biết nó sống ra sao? Dù ra sao thì nó vẫn là máu mủ của dòng họ nhà anh, là em ruột của anh. Thế là Thánh bàn với vợ và khăn gói trở về Bắc.
Chuyến tầu đưa anh về không nhanh cũng chả chậm. Tầu dừng, từ Hàng Cỏ, anh không đi bộ về làng như ngày nào. Đến đầu làng thì anh bảo xe ôm quay ra cho anh đi bộ.
Anh men theo lối cũ. Làng anh, đường đi lối lại bao biến đổi nhưng con đường ngõ vào của nhà anh vẫn thế. Bụi rào cúc tần vẫn còn đó trong đêm, đứng hững hờ, xơ xác.

Anh bàng hoàng trước ngôi nhà của anh mà bây giờ là nhà người vợ cũ. Vẫn tường gạch cũ nứt nẻ và xiêu vẹo từ hồi anh dựng lại. Mái ngói lô xô viên lành viên vỡ. Anh đứng giữa một người đàn bà già nua tàn tạ và thằng bé 16 tuổi gầy trơ xương vì thiếu ăn.
-Em ông bỏ học từ hai năm nay rồi. Tôi lo lắm. Làng xóm bây giờ cứ xổng ra là trẻ con hư. Nghèo quá chả làm sao lo được. – Người vợ cũ thều thào nói- Nói rồi mò tay vào hộc tủ sứt sẹo nứt toang toác lần ra bọc quần áo cũ, bà lôi ra một bọc giấy mở ra trước mắt anh:
– Đây là tất cả tiền của anh gửi cho u. Tôi lậy van thế nào u cũng không tiêu lấy một xu. Nhà có rau thì ăn rau. Có cháo ăn cháo. Khi trăng trối, u gửi lại bảo tiền dành cho tôi. Nhưng mẹ con tôi cũng không dám tiêu đâu. U bảo, nó thương tật thế, làm sao có tiền, chắc nó lại vay mượn của ai…
Suốt đêm anh không ngủ. Cứ lăn bên này lại lăn bên kia trong nhà người em họ. Không ngờ người vợ anh chối bỏ, vẫn lặng lẽ làm dâu. Một nàng dâu không chồng…

Anh lại vục dậy và lục ba lô ra bờ sông ngồi. Anh châm lên ngọn  lửa Zippo đốt ít mùn thuốc nổ cạo ra từ thỏi bánh khảo màu đã xậm vàng vì thời gian. Anh hít cho căng lồng ngực cái thứ khói hăng hăng thơm thơm mùi thuốc súng rồi quyết định, không thể chần chừ nữa. 
Móc máy điện thoại ra, bất kể khi đó là gần 2 giờ sáng, anh gọi cho Thắm. Anh nói với vợ hoàn toàn tỉnh táo không hề khóc. Giọng anh khô xác trong đêm. Anh không ngờ vợ anh, người con gái Đà Nẵng trả lời gọn lỏn:
-Vâng. Em nghe rõ cả mà. Anh đưa chị và em anh vào đây luôn đi.

Bấy giờ người cựu binh hơn 60 tuổi mới bật khóc. Khóc nức nở! Nước mắt tràn trề má anh. Lúc anh quay lại nhà hai mẹ con lại qua bụi cây có dây tơ hồng. Trong đêm tối vắng trăng, anh không nhìn rõ mọi vật, nhưng anh vẫn thấy tất cả. Bàn tay anh sờ nhẹ mơn man vào đám dây tơ nguyệt trên bụi cúc tần mà nhà nào chả có.
Một tuần sau, có người làng đi tát nước tang tảng sáng, bên con đê, thoáng thấy anh đi trước, người vợ cũ và đứa bé lụi cụi đi sau, lặng lẽ rời khỏi làng.
Ra đến đầu làng, anh dừng lại, trân trân ngó về hướng nhà cũ, im lặng đến dăm phút rồi quay phắt ra, nắm tay thằng em phăng phăng kéo đi.

***

Viêc thu xếp cho vợ cũ và em anh ở Đà Nẵng cũng không hề đơn giản. Nhưng phải rõ ràng và minh  bạch. Anh và Thắm bán cả hai xe máy. “Chúng ta sẽ đi bộ một thời gian. An cư thì mới lạc nghiệp!“ Cầm số tiền bán nhà của vợ cũ và tiền tiết kiệm, bán xe của vợ chồng anh, Thánh mua cho hai mẹ con một căn nhà nhỏ trong hẻm phố. Cũng thật may mắn, một doanh nghiệp đồng đội cũ nhận thằng bé vào xưởng sửa chữa ô tô. Thằng bé cũng sáng dạ và ngoan. Đấy là bạn anh bảo thế.
Nhưng con người ta đâu chỉ ăm ắp niềm vui. Tháng ấy là có ngày giỗ thầy anh. Làm cơm chung cho cả đại gia đình, anh mời cả mẹ vợ anh lên ăn giỗ.
Chiều ấy anh lại lấy chiếc bánh khảo ra cạo ngoài hiên và đốt.
Một vệt lửa và mùi thuốc súng lan ra. Lan ra tận nơi mẹ vợ anh đang ngồi. Bà má Hòa Vang thảng thốt bật dậy: “Mùi gì thế hở các con?“

Thắm thì không lạ gì. Những khi anh buồn, những lúc khó khăn, chị đều thấy chồng làm cái động tác kì cục nhưng đã trở thành quá quen thuộc với chị.
-Ảnh ấy đốt thuốc nổ, má ạ!
-Đâu, thuốc gì?
Bà má chạy ra ngoài hiên cầm lên thỏi thuốc màu vàng và sững người:

-Trời ơi cái thứ giết người này. Ba mày cũng bị địch chất quanh và đốt ổng bằng thứ này đây. Thảo nào. Mày giữ nó làm gì hở con. Sao lại như thế. Đừng làm má sợ…- Nói rồi má vợ anh bưng mặt khóc. Mớ tóc bạc rung lên.
Sự thật quá rõ ràng và cực kì bất ngờ làm anh sững sờ và bừng tỉnh. Thánh ôm lấy bà má vợ anh và vỗ nhè nhẹ lên vai bà:
-Con xin lỗi, con xin lỗi má.
-Mày vứt ngay thứ ấy xuống biển cho má. Vứt ngay đi!- Bà má nói khi đôi vai rung lên, run rẩy.
Anh chộp lấy thỏi bộc phá, thỏi bánh khảo màu vàng xậm đã gắn bó suốt cả tuổi thanh xuân trận mạc kiêu hùng của đời anh, cũng là cuộc đời bất hạnh của riêng anh hay bao nhiêu người đã ngã xuống trên mảnh đất này.
Anh chạy như bay ra bờ biển. Ngay sau tượng đài Bà Mẹ Âu Cơ với trăm bọc trứng, anh liệng nó ra xa. Liệng cho thật xa.
Ném hẳn đi thanh thuốc màu vàng xong, anh đứng thừ ra. Tự nhiên chẳng hiểu sao anh vụt nhớ cái làng nhỏ xa kia và trong đầu anh lại chợt bừng hiện ra, rõ mồn một hình ảnh bờ dậu ven nhà cũ…
Những sợi tơ vàng quấn quýt trong bụi cây, dưới ánh trăng lấp lánh sương ướt, vẫn phân biệt được màu vàng của cây tơ nguyệt và màu xanh của lá, dầu là muôn kiếp, chúng vẫn quấn quýt bên nhau khi khói bếp lam chiều muộn bảnh lảng lan ra như mây lành bay trên những ngôi nhà…

NVT- Làng Ngọc Hà 

Vàng Xưa

Con tàu lừng lững như viên đạn khổng lồ, dài, rời ga Hàng Cỏ, đưa chúng tôi lên đường. Đầu máy diesel nặng nhọc, phì phò thở, rồi bỗng gấp gáp hú còi, giật mạnh, khẩn cấp xuyên thẳng vào màn đêm.

Cuộc gặp đầu tiên bàn về chuyến đi này cách đây có hai tháng mà mọi công việc chuẩn bị nhân sự, tiền, mua sắm thức ăn, trang bị nhanh đến không ngờ.

Hơn bảy chục ki-lô-gam vàng! Hơn nửa triệu USD! Trời ơi, nếu tìm được nó? Mà nhất định tìm được! Ta sẽ đổi đời! Trong đêm trước, tôi nói như mơ mấy lần với vợ câu ấy. Không biết bọn kia có ngủ không? Đêm nay, tôi lại sẽ trằn trọc. Tôi không ngủ như ngày nào.

Tiếng bánh sắt nghiến vào đường ray chao chác, hối hả. Qua những ô cửa còn tươi sơn, kính trong vắt, chưa sập, ánh sáng như lưỡi kiếm vàng lạnh liên tục chém loang loáng xuống sàn tàu. Con tàu mỗi khi gặp chuyến ngược tuyến, cứ tưởng như đứng lại hay thời gian trôi ngược.

Tại sao tôi không nghĩ về viễn cảnh của ngày mai? Người đời, khi sắp đưa chân vào một hoàn cảnh mới, rực rỡ hơn, liệu có chợt nhớ những ngày bĩ cực như tôi không?

Giải phóng Sài Gòn một cách bất ngờ. Trở về nhà bất ngờ. Tất cả làm lại từ con số không. Một năm, lần mò khắp nơi kiếm việc làm. Ăn bám anh chị. Công việc nào dành cho một kẻ văn hoá hết phổ thông? Chuyên môn không! Có chân bảo vệ bãi cát xây dựng. Phúc chán! Lấy vợ. Sinh con.. Nhìn cát mênh mông, trắng phớ bay mù mịt sau những chuyến xe ăm ắp cát mà nhớ!

Những bữa cơm hai vợ chồng chỉ có hai bìa đậu phụ. Miếng ăn đùn đi đẩy lại thành miếng ăn thừa. Đĩa rau muống chấm nước mắm khăm khẳm. Gia tài chỏn vỏn cái giường gỗ phân phối theo giấy đăng kí kết hôn, mọt nghiến suốt đêm. Tủ lạnh chị gái tôi thương em mà cho, có trăm nốt gỉ đen, thủng lỗ chỗ như bị đạn bắn. Nó là nhà máy sản xuất đá để bán cho hàng nước chè bên kia hè đường, luôn rỗng mùi thịt cá. Tôi nghĩ tới những mẩu thuốc lén nhặt trên mặt đất. Tôi gặm ăn cả kỉ vật. Con dao găm Mỹ, chiếc Ponso rằn ri. áo choàng mưa sĩ quan hậu cần phát trước lúc ra quân. Cả cái bật Zippo nhặt lên, ướt máu của người lính ở Quảng Trị, Mậu Thân 68. Vỏ khắc: Please! Don´t tell about Vietnam because I have been there(1) và bên kia, đứa con gái trần như nhộng dạng háng cười nhoe nhoét.

Tôi trằn trọc. Tàu qua một cung đường đang sửa, chưa ổn định, lắc đi lắc lại. Tôi nhìn bóng đầu ai trên trần toa, nghĩ tới cái chảo đãi vàng cũng lắc đi lắc lại như thế.

Ngã ba suối cạn. Hai seo cát như đôi vú mẩy cứng thanh xuân, giữa lòng ngã ba suối lấp lánh. Mùa khô trong khu rừng ấy, ba thằng đi kiếm cá đụng phải. Bắt đầu, thằng Phương phát hiện, cái quần đùi rách tướp tua của tôi, trên những sợi bông dính nhiều bụi tấm, vàng lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Vốc cát, reo lên! Vàng! Dân gốc Hàng Bạc. Nhà tao bốn đời làm vàng! Đánh cá, tao không lầm! Phương hét lên.

Chúng tôi đắp đìa, đãi vàng, lắc, nhặt, thổi, dầm chân trong con suối suốt cả tuần. Dòng suối từ đâu đổ về, đâm thẳng vào vách núi, rồi cuộn vòng sang trái. Nước xoáy mãi vào đá, tạo thành những cái hốc nhẵn tròn. Bao nhiêu năm? Nước chảy, quẩn, dồn tích mãi, sàng lọc tự nhiên để vàng đọng xuống từng hốc đá, chạt dày tới nửa gang tay. Vàng mỏng tang như vẩy nhót. Thổi khô, bay phát sáng trong nắng. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy vàng. Phương bảo, đây là vàng bảy, gọi là vàng cám, vàng sa khoáng. Tôi nhìn, bụi vàng như vảy nhót. Hơn bảy chục cân chứ chả ít. Đóng vào sáu cái túi cát Mỹ. Hì hụi như thế rồi vàng chẳng để làm gì! Giết thời giờ vô vị, sáu thằng trông cái kho sắp sập nghĩ ra nhiều trò. Thằng Hội dân Đông Anh, làng đúc đồng truyền thống, lấy đất nặn nồi. Đắp lò hun than. Quạt quạt thổi thổi. Vàng cũng chảy ra. Phương khoe, có a-xít, vài hóa chất nữa, tao sẽ lấy ra vàng mười tuổi. Đúc thành mấy thoi bằng ngón tay, rồi lại bỏ đấy. Giá như chúng mình đào được một nồi thịt kho hay một bao gạo trắng nhỉ? Tôi nghĩ, khi một đêm đi gùi đạn về đói thót ruột. Đã hai năm, sắn trừ bữa, nên hay mơ gạo, thịt. Hay nói món nọ món kia. Muốn chất đạm thì săn thú, bắt cá. Tiêu chuẩn bồi dưỡng sĩ quan, người ốm, thương binh là đạn. Mười viên đạn một quý! Mùa khô thú biến mất tăm. Đói quá hoá điêu. Hội bảo, bây giờ có, tao ăn hết bốn kí thịt luộc! Để qua ngày, cái bụng bớt bồn chồn, lấy cả cọng khoai ngứa dại nấu nhừ với nhúm bột cá. Rau tàu bay, độn vào bột sắn giả bánh khúc! Hôi mùi dầu! Lùng bắt tiệt cả chuột dưới gầm kho. Chuột béo nhẫy. Sao chúng sung sướng thế, no nê, phởn phơ, chí choé đú đởn suốt đêm? Giá mình là chuột? Mỡ từ những lũ chuột thui vàng ươm cháy xèo xèo trên giàn lửa. Răng nhe trắng ởn. Nước dãi nuốt ừng ực. Còn cái giống khoai dại dai như đỉa. Ninh mấy lửa, tưởng nhừ tướp mà xơ đầy, khi nuốt lằng nhằng vướng trong họng, phát nôn. Thế mà lại vớ được vàng!

Thằng Hội treo cả sáu túi vàng lên cái cần cối giã sắn. Nhờ sức nặng của vàng, sắn thành bột làm bánh nhanh hẳn lên! Rồi cũng chẳng đứa nào tha thiết với vàng nữa. Thằng Bảo doạ: Đời lính, đi trận, vớ vàng xui lắm. Tụi mình, thế nào cũng có thằng chết! Nó đi trước tôi có vài tháng, nhưng hay ra giọng cựu binh ở Tây Nguyên. Nói tới chết thì ai chẳng sợ. Có kiêng có lành. Tự nhiên, những túi vàng ám ảnh cả bọn về những cái xui xẻo ngoài trận mạc vốn thường nhật như cơm bữa.

Nửa năm sau, bất ngờ có lệnh rời khu kho vũ khí đã rỗng. Mặt trận chuyển hướng. Lại xuyên rừng. Cái đời lính căng hải(2) suốt năm, suốt tháng. Vứt mẹ nó đi! Báo lên trên cũng chả ai để ý, tin chuyện kho vàng của bọn tôi có thực. Thêm rách việc! Năm trước, bộ tư lệnh bị vố lừa vụ người rừng nên các bố cảnh giác. Thôi, cho vào hang đánh dấu. Biết đâu nay mai có đứa sống mà tìm. Ra trận súng đạn là chính. Đi trận ăn sướng hơn trông kho. Thay vì cái thứ vàng vô tích sự, chỉ mang cái xui tới, là tám bơ gạo, cá sấy và thịt nai khô. Lương khô BA 70 hai phong. Mì chính nửa lạng. Sướng thế, bỗng chốc dồi dào thế. Chỉ tội, gạo mới lĩnh mà lúc nhúc bọ đen tanh tách nhảy.

Bảo về đơn vị cối. Còn lại về bộ binh.

Chúng tôi đi cùng đất tới Sài Gòn. Hội sau mất tích. Nó mất tích kì lạ. Kì lạ như bí mật của câu chuyện nó thổ lộ.

Trước trận cuối cùng, nằm ở Mũi Lớn, nó hỏi tôi, hoà bình rồi về đâu? Về Hà Nội chứ về đâu! Nó nhăn đôi lông mày rậm đen nhánh, thốt lên: Ông còn có nơi về. Đây chẳng biết về đâu? Tôi gạn mãi, nó dặn đi dặn lại không được kể lại chuyện nó. Bắt mang danh dự thằng lính ra thề.

Gia đình nó có hai anh em. Thằng anh vừa cưới vợ một tháng, xung phong đi bộ đội. Khi bom Mỹ bắt đầu đánh xuống miền Bắc, thanh niên tòng ngũ như trẩy hội. Đa số chúng tôi đi bộ đội diện ấy. Hội khi 17 tuổi cũng đi, nhưng không đi như thế. Nhà có người đi rồi, chú nó chủ tịch xã. Ai bắt nó đi! Xung phong cũng khó. Anh nó đi một năm, hai năm, ba năm biệt tin. Nó ở chung với chị dâu và bố. Một bữa, đi cày về, trời mưa tầm tã. Bố đi họp dưới huyện. Chị gọi em vào xê thóc tránh dột. Chái nhà hẹp. Đụng chạm. Quần áo ướt bết da thịt, cơ thể phô phang trần trụi, khêu gợi. Hơi thở, hơi nóng từ hai con người hừng hực bốc ra. Chị dâu, con gái thơi thới, vừa biết mùi trần tục mà chồng đã vắng xa biền biệt. Thế là xảy ra chuyện động trời. Nó nghẹn ngào nhớ từng chi tiết. Em cũng chả biết sao lại thế. Em mới mười sáu tuổi… Chị em kéo tay em ấn xuống, nắm cái ấy. Chị đè nghiến em dưới nền đất. Lăn lộn. Hổn hển. Hai con chó liếm láp, cắn nhau vội vã. Ăn vụng. Làm liều. Miền trung du, tổng động viên, nam giới như mì chính cánh. Chị dâu thoả mãn, búi lại tóc, ưu tư nói: Chú giống anh như đúc. Đi, đứng, cười, mùi nách…” Mấy tháng sau nó luôn tránh cái nhìn của chị. Dứt khoát không nhìn chị. Có thế thôi mà chị nó chửa. Cắn lưỡi không khai ai làm. Vợ bộ đội đi Nam chiến đấu cho làng nước mà chửa!? Lỗi ấy tày trời. Ông bố Hội gọi bố đẻ chị dâu sang. Hai người già uống rượu. Trói con họ vào gốc cau. Cạo trọc đầu. Nửa đêm Hội đứt ngủ. Tiếng la. Chửi, thề độc, kể lể của hai người già đều goá vợ. Tiếng khóc của chị. Gần sáng, nó lẻn ra, liều cắt trói. Cứ cầm tay nhau mà chạy. Lang thang lên tận Điện Biên. Rồi mẹ tròn con vuông. Nhưng lương tâm day dứt. Suy đi nghĩ lại, Hội quyết chí đi tìm anh thú tội. Chỉ có gặp anh thú tội, rồi chết. Đơn giản hoảng lên nghĩ vậy. Đi bộ đội. Mà chỉ xin đi B3. Vào tới B3 biết anh nó hy sinh ở Kontum. Thế là nó âm thầm nuốt nghẹn câu chuyện riêng, lì lì sống dở, chết dở. Hoà bình tới đít chợt nhớ ra ngày trở về. Về đâu? Mặt mũi nào về làng? Người ta đã nguyền rủa bố nó cho đến phải hộc máu chết. Nhà vô phúc! Tuyệt tự, chết đường chết chợ! Về với chị nó ư? Giá như anh nó còn mà tha tội. Hội đã muốn chết trăm lần mà chưa chết được. Bom đạn tránh nó, sự sống hành hạ từng đêm không tha.

Buổi ấy tôi chả biết khuyên nó thế nào. Tôi nắm bàn tay nó trong đêm tối. Nghe nó khóc. Rồi, đêm sau tiến vào Sài Gòn như cơn bão. Trận ấy mấy lần Hội toàn nhận những nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Chẳng chết được. Sống nhăn răng. Xong, trung đoàn lấy hai ba tổ quay lại mấy vùng đóng quân cũ đi thu gom liệt sĩ. Chả ai muốn làm việc gợi đau ấy! Nó xung phong đi. Nghe tin công việc kết thúc là nó mất tiêu trong rừng. Người ta tìm thấy võng, ba-lô của nó treo gần con suối. Hổ, thú dữ, bom mìn, sốt rét… Ai biết điều gì đã xảy ra với Hội? Nó đi đúng gần cái vùng vàng xưa. Thôi, nó đi là phải. Sống mà thế thì chết là về, yên, được tha thứ.

Thằng Phương thì tiêu trong lần đánh đèo Tuy Hoà. Lúc quàn nó, thấy hai thỏi vàng trong túi cóc. Anh em cho cả vào ni-lon gói chôn. Tôi cắn cỏ lạy nó phù hộ và hứa không lộ chuyện vì sao có hai thỏi vàng. Có thể nó là thằng xuống âm phủ xông xênh!

Bao nhiêu năm trôi qua, thiên hạ nói đến tiền, vàng làm tôi chảy nước dãi. Thì mình cũng từng có ngần ấy vàng. Ba bốn năm tôi đi tìm thằng Bảo giữ cái bản đồ. Sau hoà bình, đứa chết đứa sống. Chả ai biết cái đống vàng ấy. Mỗi lúc bí tiền, con ốm vợ đau. Lại thấy lúc người ta xe ngựa, võng rạp, trong khi, quay đi quay lại, nơi tôi làm việc toàn cát. Cát day dứt tôi. Mù mịt. Lại nhớ vàng xưa. Nhớ thời bom đạn, đồng đội sống chết bên nhau, chiến thắng, thất bại, no, đói sẻ chia. Mấy lần có ý tìm Bảo. Nó mất tiêu như thú mùa khô, rừng khộp…

Đã chán tìm thì gặp nó ở chân cầu Long Biên. Mồ hôi nhễ nhại, cha con đủn xe thồ, hai cái sọt ăm ắp su hào, cà chua leo dốc. Nắng hanh chiếu chếch. Lệch lạng hai bóng in trên trời xanh, hằn rõ bóng thằng cụt đẩy xe làm tôi chạnh lòng, vịn tay đẩy giúp. Không ngờ lại là thằng mình tìm suốt mấy năm.

Bỏ gánh su hào cho thằng con đem bán. Hai đứa vào uống rượu lòng lợn gầm cầu. Xơi hết cả hai sọt bự rau chợ tết. Sọ nó có miếng nhựa phập phồng theo nhịp thở, mềm mềm thay cho miếng xương bị đạn chọc vỡ. Nó chả nhớ gì cả. Nhưng tôi nhớ. Sự mơ giầu làm tôi nhớ. Trí nhớ của tôi giúp nó trở về với dĩ vãng. Thôi, bỏ mẹ! Chúng mình giầu to rồi. Nó hét lên khi tôi nhắc chuyện cũ. Thiên hạ đánh mắt nhìn, tưởng hai thằng điên mới trúng mánh. May quá, nó vẫn giữ tấm bản đồ quân sự ghi dấu chốn ấy làm kỷ niệm. Vâng, chúng tôi là lũ mạt hạng, đói đường của thành phố này. Thế nhưng lũ chúng tôi sắp giầu to!

Để rủ rê, thuyết phục cái thằng dở khùng ấy cũng chẳng dễ. Chủ nhật tìm tới nhà, nó lại hỏi: Bản đồ nào nhỉ? Đến tên tôi nó còn nhầm lẫn lung tung. Lúc thì bảo Sinh, lúc thì Minh ơi. Lại, mày có gặp thằng Tam không? Tôi quát:Tao là Sinh. Mày nhầm thằng Minh nào? Tam nó chết ở bãi Cam rồi mà! Ư`, ừ. Bảo gãi cái đầu có đám tóc lởm chởm, đám mông mốc trơ da như trảng rừng bị giội bom B52. Cái lứa chúng tôi ra đi suốt hơn mười năm thuở ấy, bây giờ còn mấy ai? Lo sống chưa xong thì lo nhớ làm gì nhiều?

Bố cháu dở hơi ấy mà. Chú chấp làm gì! Thằng con gã, cao tới mét bảy. Chân tay xương xẩu, cơ bắp.

Vợ Bảo đi ra, đi vào hóng chuyện. Thoắt một cái, thấy mâm thịt gà bưng lên giữa chiếu rách trải giữa nền đất. Gà ở đâu ra? Gà nhà mình, chứ gà nhà ai! Người đàn bà, vai so dúm dó, một bên đít to như nửa cái lồng bàn, bên kia hóp teo, trơ cả xương chậu, lăng xăng ấn vào tay chồng chai rượu, cười xoe xoét. Bác xơi với nhà em bữa cơm rau! Vợ tớ đấy! Nó cũng ở Trường Sơn, lính VT.471. Gặp nhau ở trại an dưỡng, nó rủ tớ về đây. Người đàn bà lườm chồng một cái. Trông chả tới nỗi nào! Người ta, khi có động thái, sinh động hẳn lên. Con gái mà đứng yên giống như manơcanh. Thời xưa mày ấy, mắt này hẳn đỏm gái. Dân sốt rét nhiều, tóc rụng, tiêm ký-ninh lắm, mông làm mủ, teo hết cơ.

Tôi cười: Cơm rau?” “ấy cái giống đàn bà nó thế đấy! Chả giấu. Dịch toi hết rồi, chắc nó lại mượn gà của mẹ nó. Năm ngoái giỗ bố, bảo nó làm con gà cúng, nó giãy như đỉa phải vôi. Kêu, ông có thích ăn thịt gà đâu! Ông thích ăn bánh đúc! Gà béo mướt lông, chùn đít, đéo thịt! Dành cuối năm bán mua trăm ngói chống dột thì cứ nói mẹ nó ra cho nhanh, lại bảo ông không thích thịt, chỉ thích bánh đúc! Chống dột phải chống từ cái bụng trước. Bụng không dột mới lo chống nhà dột. Đằng này bụng ông dột, bố dột, con dột. Giờ thấy hơi vàng bày biện nhanh thế. Hì hì. Mọi bữa nó cấm cả rượu nữa. Không cay cay thì gặp nhau cũng nhạt thếch! Tôi dàn hòa, ai chả tham, chả ham. Có điều chúng mình là loại hết cửa, chả có chỗ để tham mà ham… .

** *

Đoàn đi tìm vàng của chúng tôi gồm bốn đứa. Tôi được suy tôn làm đoàn trưởng.

Thành viên thứ hai của đoàn là Trọng, con trai Bảo. Nó gối đầu lên cái ba – lô đầy ắp thức ăn và ngáy vô tư như thổi bễ.

Cho nó đi cho biết thế nào là Trường Sơn! Bảo hua cái chân cụt: Nhất nhất theo chú ấy! Tôi hỏi Trọng: Tìm được vàng cháu làm gì?” “Mua một cái chân gỗ cho ông già! Suy tính một tị, nó tiếp: Mua cái xe bò và làm cái lò gạchThế thôi! Đơn giản thế ư? Nó im lặng.

Ước mơ của thằng nông dân như những giọt nước. Thằng em tôi ở quê lên Hà Nội, ra phố ngó đăm đăm mấy cái lốp xe. Nó chỉ ước mua được cái xe kéo bánh ô – tô. Cái máy xát chạy dầu. Thấy nó phong phanh, tặng cái áo bông cũ. Cười xỉ xả: Về chữa lại cho bu cháu! Người ta mơ giản dị, ăn no, mặc ấm và làm ăn!

Thằng Bảo cụt không đi được, nó muốn đi lắm, đưa con ra bến tầu. Ngày xưa bố nó đưa nó đi. Bây giờ Bảo đưa con đi. Bảo hôm nào khác gì Trọng bây giờ. Trẻ. Khuôn mặt đầy. Tóc dày xanh. Má lơ thơ tơ măng. Bàn tay chai vì đào hào và bắn súng. Thế mà sốt trận, đói ăn… rồi thời gian và cái chân cụt, cái đầu vá nhựa. Nó sắp xuống lỗ rồi.

Có người kiểm soát vé tới. Thằng Viên làu nhàu nhổm dậy trên võng dù Mỹ. Đây là người thứ ba trong đoàn. Viên kín đáo. Dáng nho nhã, nhẹ nhàng. Mắt sắc, tai dày, ép nhẹm vào sát sọ. Sách tướng viết, giấu tai là cách của kẻ làm được chính trị. Thế mà gã lại là dân làm ăn? Nghe nói, gã từng tốt nghiệp tổng hợp văn. Đi dạy học, sau bỏ nghề, chạy chợ. Bôn ba lắm. Bảo khoe: “Thằng này cái gì cũng tường. Nó tới đây mua đất trong làng. Thương mình lắm. Có lần thiếu tiền, nó rút ngay hai trăm ngàn biếu, nhưng mình đếch nhận”. Viên chưa vợ, ghét đàn bà, nhưng lại biết kĩ càng về gái điếm. Đấy là Bảo nghe hơi nồi chõ kể lại. Đêm, Viên trầm ngâm uống rượu. Ngày thì không. Khói thuốc xanh bay thơm phưng phức, hắn hay hỏi mọi người. Lo cho từng miếng cơm ngụm nước.

Mạo hiểm phiêu lưu lắm! Nếu không tìm thấy nơi ấy là cậu mất toi năm chỉ đấy Tôi bảo gã. Gã cười, chém tay vào không khí: Một sấp, một ngửa. Tiếng reo này là ù! Trên đời, nhất liều, nhị liều. Được, thua, giặc hay vua như nhau cả!

Tàu vào tới Thanh Hóa rồi. Quân thợ ảnh đang ngủ bỗng bật dậy.

– Em vừa mơ, anh ạ!- Hắn dụi mắt. Quân là người thứ tư.

Quân không ở đơn vị tôi, nhưng rất thân tôi từ hồi giải phóng thành phố Sài Gòn. Nó trẻ hơn tụi lính cũ cả chục tuổi. Khi tôi về nhà, nó còn sang Campot, sau lên biên giới phía Bắc choảng nhau nữa. Quân tháo vát. Nhà nó ở Khương Hạ. Làng ấy quanh năm muối cà bát. Giỗ Tết, ma chay khi nào cũng có món đậu rán nhồi thịt. Nó về nhà thì cha mẹ chết sạch. Năm anh chị em giành nhau mảnh vườn bằng cái chỗ chó ỉa làm em chán ngán chạy ra, vừa học nghề ảnh vừa làm thuê cho ông cậu họ ở Bát Đàn. Tôi tưởng Quân cũng khá. Ai dè nó nhăn như bị: Chẳng bõ bèn gì đâu, ông ơi! Chụp một cuốn, có thêm tí tiền đấy, song cô dâu chú rể nó sai như sai chó. Thôi, trắng mặt ăn tiền, nghệ thuật nghệ thẽo gì! Em chưa có một ngày nghỉ”. Khi ấy, Viên chua: Nghệ thuật nhất là nghệ thuật làm vua. Bắt cả thiên hạ theo, tất đầy nghệ thuật. Nghệ thuật các anh là đẹp. Thiên hạ thấy đẹp, lạ thì xem, ngó một tí, mấy ai theo.

Đúng. Thợ đám cưới mong chủ nhật, thứ bảy như mong giỗ.

Quân hơn ba chục tuổi. Da dẻ hồng hào. Là lính trận mà nó chưa dính sốt rét. Nó là lính đồng bằng. Quân chưa vợ. Nó bảo, lấy vợ mà không có tiền ư? Vợ nó khinh, con cái khổ lây. Thứ rách như tổ đỉa, có vợ đẹp con ngoan nhan nhản ra đấy! Tôi cãi. Vâng, nhưng có thằng nào tổ đỉa mà vợ con mát mặt không? Người ta quen sống vì cái tiếng, cái vỏ, cái nhìn thấy, sờ thấy. Nó nghiêm túc nói. Nó đúng! Tự nhiên tôi nhớ khuôn mặt luôn khó đăm đăm, buồn rười rượi của vợ tôi.

Thế là, chỉ có tôi có gánh nặng ở Hà Nội khi đi. Vợ, con gái còn dại. Tôi ôm con vào lòng, trước khi ra ga vào miền Trung. Từ Quảng Bình sẽ thuê xe ô tô vào Chooc. Viên bảo, năm 87 nó đánh hàng dép lê Lào, đã ở vùng ấy. Thung thổ ở bàn tay! Nó chỉ vào bàn tay mềm, mát như mỡ đông, dày dặn, cười. Tại đó, chúng ta sẽ nhờ cánh buôn lậu dắt qua biên giới và vào đường Trường Sơn. Từ đó, có Quân sẽ tiện lắm, nó là bạn lính cũ, tin được, lại thạo bản đồ, xác định hướng nhanh. Lính thiện chiến trinh sát sư 320 cũ ngửi gió, tuỳ mùa, nhắm mắt cũng biết hướng nào!.

Kế hoạch đi được vạch ra chi tiết. Thằng Bảo cụt phải ở nhà, nhưng bài binh bố trận không trật một khấc. Đúng là một cán bộ tham mưu cỡ trung đoàn. Cũng lạ! Một thằng khùng thế, mà khi vạch đường đi nước bước trở nên tỉnh táo lạ thường. “Hừ, mày là tổ trưởng nhé!”. “Rắn phải có đầu!” Viên đế theo!

Chúng tôi lục trang bị cũ ra dùng cho đỡ tốn tiền. Chỉ có Viên là phải mua sắm. Nó khoác nguyên bộ quần áo Mỹ. áo Nato, quần túi đắp, ghệt Camel, dao găm Phần Lan bén cạo được cả ria cứng. Tăng võng toàn loại ni-lon nhẹ bấc của Nam Triều Tiên. Ba lô của nhà giàu ra trận bao giờ chả khác. Mùi hồ thơm, khác hẳn cái thứ nùng nục mốc, mùi cá khô của tôi và con Bảo, của Quân.

Vợ Bảo làm cơm tiễn cả bọn. Trong khi rượu ngà ngà, tôi hỏi Quân, mày có vàng rồi, làm gì? Quân muốn một cái Studio với biển hiệu ảnh viện Nguyễn Quân thật lớn màu da cam. Em sẽ thuê người. Sẽ cho bọn “thầu giàu” làng ảnh biết lễ độ. Mình không có tiền, mãi mãi làm thuê. Nhục lắm. Thằng Viên tủm tỉm: “Thế là biết! Đã nhục, cố mà thành chủ. Bé cũng là chủ, lớn cũng là chủ. Chủ lớn mới tránh được đời o ép. Muốn làm gì cũng có tự do. Muốn tự do phải có nhiều, thực nhiều tiền!”

Được. Một trăm cây vàng lo được chứ gì? Tôi bảo. Quân cười: “Nhiều quá!” Cậu sẽ có 100 cây vàng! Hai đứa cười hoang hoác, tưởng rung cả trời.

Quay sang Viên, tôi hỏi, còn cậu? Tôi ấy à! Chơi. Chơi cho hết kiểu chơi. Hắn cười hào sảng. Tôi không tin lời Viên khi ấy. Nó có phải thiếu tiền như cánh tôi đâu! Bỏ ra một cây cho chuyến đi, dễ như trở bàn tay. Thế mà còn tham vọng giàu nữa. Dường như biết tôi nghĩ gì, hắn nói: “Ông anh tưởng chơi cũng dễ hả. Ngõ ngách lắm. Mỗi thời một kiểu. Chơi tiền là khó nhất. Siêu nhất!”

Tôi thì rõ rồi. Tôi sẽ thoát khỏi cái nghèo đay nghiến. Sửa nhà, nuôi con ăn học tới nơi tới chốn, chứ không học vớ học vẩn, dang dở đời tôi. Tôi sẽ mua xe máy tàng tàng, khỏi phải hàng ngày sang tận bãi bên Gia Lâm, lọc cọc đạp cái xe khung Sài Gòn mang từ hồi giải phóng, lắp phụ tùng nội, nặng như cùm.

Tàu tới ga xép nữa, rồi lại vùn vụt chạy. Tiếng rao đêm bơ vơ của đám trẻ ở lại sân ga. Tôi hỏi Quân: “Mơ gì?” Quân súc miệng òng ọc, rồi nhổ phóng ra ngoài cửa sổ. Bụi nước li ti bay ngược lại. “Em mơ thấy chúng nó bắn vào toa tàu.”

Những đụn khói hình nấm tung lên sau tiếng nổ trầm. Mảnh bom xoe xoé réo. Bọn F4, F105, F8H thay nhau bay chéo cắt xuống đoàn tàu nhiều đợt bom dây.

– Em chạy ngược. Anh chạy xuôi.

Chùm lửa sáng trắng khạc ra từ họng súng sáu nòng bên hai cánh bay bắn dọc con tàu. Đạn trên dưới bắn nhau rát tai. Mấy trăm người dân, lính chạy toé ra hai bên đường như đám ong bị chọc tổ. Người ngã xuống mặt đất như đốn chuối.

– Em bảo, về thôi. Vàng đâu mà tìm. Lại thấy những bụi cây lúp xúp bên Campot.

Mỗi bụi có một họng súng bắn lén. Mìn ba râu, lá lúa, mìn nhảy rình rập từng bước đi trên đường mòn, trên mặt đất, dưới gốc cây thốt nốt đang ứ đường mật từng thớ gỗ, mạch cây.

Quân kể tiếp : ‘‘Sợ quá, chồm dậy. Đã tới Thanh Hóa rồi à? Nhanh thế? Ngày xưa vào tới Vinh, phải hết năm ngày đêm!”

Tôi đứng ở cửa sổ. Ngoài đồng kia, trong đêm tối, hình như có bọn trẻ đã nghịch lửa, tro bụi giờ sót lại leo leo cháy trong đêm. Mấy đám đỏ lốm đốm, thỉnh thoảng gió thốc lên, bùng lửa từ tro tàn!

Toa đen bịt kín, đám lính trẻ nằm như xếp cá. Ho khục khặc. Tiếng đánh diêm hút thuốc lào xoèn xoẹt. Trong đêm, lính thức và yên lặng. Chỉ có tiếng sắt thép đều đều, chan chát va đập như tiếng đóng đinh dồn dập vào quan tài trong hẻm núi. Và, những khung cửa cứ vùn vụt trôi mãi về phía Nam. Hình ảnh trong cửa sổ trôi ngược về phía Bắc. Bầu trời lỗ chỗ qua mấy chục lỗ thủng trên nóc toa bị đạn xuyên qua từ ngày nào. Thi thoảng lại có tia chớp nhằng nhằng từ xa lắm và lát sau dội về tiếng ì ì ầm ầm làm rung nhẹ miếng kính vỡ. Mơ hồ, xa xăm. Ven cái ga sắp vào Vinh, lố nhố bóng người dọn dẹp. Mùi cỏ, nhựa cháy, khăm khẳm mảnh thịt sót… Tiếng gọi. Những cáng thương hối hả nối theo nhau dằng dập, thình thịch. Đất dội tiếng chân người.

Tàu hỏa hôm nay ban ngày nghễu nghện chạy. Ban đêm thung dung đèn sáng, hỉ hả kéo còi. Mùi nước hoa của đôi trai gái vừa đi qua bay dọc toa. Tiếng khúc khích. Tiếng nựng trẻ êm êm. Mùi cà-phê thơm ngào ngạt từ toa nằm bọc da mới bay lại. Những bao hàng đủ màu trong các toa tàu. Chúng tôi lẫn vào đám buôn chuyến. Chả ai thèm hỏi một lời.

** *

Trọng cứ đặt lưng là ngủ. Mới đi bộ hai ngày mà nó đã nhức vai đau chân. Tôi luôn đi cuối cùng. Mùa khô. Chẳng phải hành quân dưới mưa. Vả lại cuộc sống lầm than bấy nay làm tôi, tuổi chẳng còn trẻ, vẫn quen đi bộ. Cái kinh nghiệm đắc dụng nhất, có lý nhất cho thằng lính trở về là thuật đi bộ! Vừa đi vừa nghỉ ngơi bàn chân, thư giãn trong giày. Giữ hơi, khí lực khi vượt dốc. Đái vào chân, ngâm chân nước muối mỗi tối… Tôi trở về với mùi rừng. Mùi suối. Mùi ngai ngái của cỏ tranh khô nỏ… Tự nhiên, trăm thứ xa xưa dội về, thơi thới quên cả khó nhọc.

Tôi đưa ra bản đồ. Khi nào bắt tới gần Mường Phìn là rẽ ngược, chếch đông nam tám độ. Quân xác định. Từ đấy phải hơn một tuần sẽ tới thung lũng giấu vàng. Viên suốt mấy ngày không nói gì. Nó đi lầm lũi, lầm lũi ăn, lầm lũi hút và uống thứ rượu màu ngà thơm lạ đựng trong bình-tông Mỹ. Nhưng quả thực tôi không chê ở Viên điểm gì trong mấy ngày hành trình. Nó chẳng một ngày ở lính, thế mà nó chịu nắng, chịu rét, chịu đi không than một câu. Có thể cuộc sống nó giang hồ, rèn nên bản lĩnh như người lính chăng? Thậm chí thằng Quân còn lười, Viên không vậy. Nó dậy trước mọi người, hỏi tôi tỉ mỉ, cách cắm cây làm kiềng sao cho vững vàng, không cháy đổ nửa chừng. Cây nào tươi, tước ngay có thể nấu dưới mưa. Nó tự tay pha chế, nấu nướng làm ai cũng ăn ngon miệng. Khen, nó cười,hay ăn thì lăn vào bếp thôi! Sao dân chơi, dân làm ăn mà chịu khó thế? Biết nhiều, chả bù cho tụi tôi hồi nào bằng tuổi nó. Sự để mắt tới nó của tôi chuyển hướng sang Quân, vì vừa về nhà, chưa hết mùi lính mà nó đã cứ lánh việc cho người khác. Bực nhất là đi được hai ngày tôi phát hiện ra thằng Quân không phải Quân thời ở với tôi giải phóng Sài Gòn. Nó luôn lấm la lấm lét khi dù chỉ một bụi cây bên đường có con thỏ chạy qua, con chim cút vừa thấy động vụt bay lên. Tôi bảo, mày thế nào vậy? Quân mặt dại như đi táo, cười chóm chém chữa ngượng, dạo này em bị thiếu máu, nên hay giật mình. Thiếu máu cái mẹ gì! Ngày tôi với nó vào Đồng Dù, ở bên cạnh nhau, hồng cầu của tôi có hai triệu. Còn nó bây giờ hồng hào như lửa thế kia. Biết thế! Tôi chợt nghĩ. Nghĩ mà ngượng thay cho nó với thằng Viên. Thế mà Viên chả coi thường Quân tí nào. Hôm leo dốc đỉnh 364, khi biếu không chúng tôi kẹo sâm Nam Hàn để ngậm, Viên cười tươi nói: “Quân ốm nhất đoàn nhưng tinh tai, tinh mắt, tao cho hai viên.” Ngượng quá. Thế mà từng lính chiến!

Lúc trước ở biên giới, Viên đi một lát mang về người dẫn đường. Một thanh niên gầy, khô đen như cục than cháy, hai hốc mắt thâm sâu như vừa từ dưới mộ chui lên. Họ lạnh lùng trao đổi ngắn gọn. Trả tiền ngay sau buổi vượt qua biên giới. Tôi nhận ra đường ra trận ngày nào.

Ngầm chữ A. Con suối cạn. Hang đá chôn mấy cô gái Quảng Bình. Tiếng khóc rấm rứt không nguôi mãi ba bốn ngày mới đứt. Mặt đất đầy mảnh bom, mảnh rốc-ket trộn lẫn trong bụi. Con đường 20, tuyến sinh tử, bụi mát lạnh ngập tới bắp chân. Cái xe Zil 130 chềnh ềnh giữa ngầm trọng điểm. Mở cửa, đổ nghiêng ra người chiến sĩ lái. áo giáp nhôm máu đen. Mắt trừng trừng. Bàn tay trái giữ chặt vô-lăng. Phải bẻ gãy ngón cái mới lôi được xác anh ra…

Núi đá vùng này xưa lắm vượn đen! Bây giờ đâu hết? Cỏ, lau, sậy, rừng non vươn xanh lại, ngút ngàn, che lấp đường ô-tô cũ, cố vươn lên khỏi những thân cây cháy, cành không lá, đen đúa chĩa lên trời, thi thoảng sót lại. Nhiều khi vạch lối, phát đường mà đi. Có tiếng ô-tô xa lắm, ì ầm bên trái.

Tôi nghe như ong ong tiếng máy bay OV10 lượn suốt đêm ngày trên đầuĐêm, máy bay C130 ì ì nặng tiếng săm soi.

Tôi chỉ núi, chỉ đồi, chỉ rừng, kể cho con của Bảo. Thằng bé ngây mắt nhìn. Bố cháu ngày xưa như thế ư? Nó hỏi. Tôi bâng khuâng: “Bố cháu nhanh như cắt. Tinh như cú”.

Khuongsedon, đi gùi gạo. Sẩm tối lọt vào ổ phục kích. Sương từ thung lũng trào ra dày đặc bưng mắt. Thằng địch bất ngờ nhao ra chĩa súng vào ngực. Bảo né người, nháy cò ba viên, tiêu diệt ngay hai tên bên trái. Tôi thoắt tay, lật báng khẩu cối cá nhân đánh bay lên trúng hàm của thằng lính chĩa súng. Cú đánh quá gần. Máu, xương vỡ vụn phọt đầy mắt, miệng, nóng, mằn mặn. Bảo hô: Chạy! Hai đứa dong hai con lợn. Bỏ! Lợn cũng chạy mất tiêu. Ba-lô gạo nếp nương vừa mua của dân dính đạn chảy hết không còn một hạt… .Đi toi hai ngàn năm trăm Kíp(3)! Năm ấy cả đại đội mất cả ăn Tết chửi hoắng mấy thằng đi lấy thực phẩm!

Viên bên tôi cười. Dường như nó biết tôi nghĩ gì. Nó xoa bàn tay mềm vào lưng tôi, nhồn nhột, như ý bảo: “Ông bạn già rồi mà nhớ dai!”

Quân bắt đầu có vẻ sốt ruột. Nó hay hỏi, sắp tới chưa? Mới đi có năm ngày. Sắp tới rồi! Nhìn bản đồ mày biết cả còn gì. Tôi xẵng!

Việc này, thú thực tôi đã bàn kỹ với Bảo cụt khi ở nhà. Tất cả chỉ biết hướng đi thôi. Còn vị trí chính xác nơi giấu vàng thì riêng có người chỉ huy nắm. ấy là ngày xưa ở mặt trận vẫn bí mật như vậy.

Đêm rừng. Khí núi túa ra rất lạnh. Buổi tối, phải đốt lửa sưởi. Mùi săng lẻ bắt lửa, mùi thơm lá rừng, hoa cỏ nỏ, tiếng tanh tách cháy nổ bắn ra. Quân mang theo ít rượu nếp. Chúng tôi lùa được con khỉ già, lông lá nham nhở, cụt một chân khi nó dạn người nhón nhén ra nhặt cơm vãi. Trọng nhìn thấy. La lên. Bốn người đuổi nó mãi, dồn vào góc suối cạn. Tôi vồ trượt. Viên chém một nhát, nó giơ tay đỡ. Ngọn dao bén đứt lìa bàn tay, theo đà băm giữa mặt. Con khỉ già gục xuống ngáp ngáp.

Thui, bóp mắm tôm, nướng. Trọng bưng mặt.

Thịt dai ngoách như chão. Có lẽ nó là thương binh từ hồi bom đạn? “Trường Sơn chả tới nỗi nào/ đã chơi khỉ lại lạc vào giữa mâm”. Viên ứng khẩu một câu lục bát. Nhân bữa ấy, tôi kể chuyện săn thú của Bảo cho Trọng. Chuyện đánh nhau. Trọng luôn hỏi, thật thế hả chú? Tôi chân thật: “Đấy là một thời, muôn người như một’’. Viên cười, chả như một đâu. Tôi bảo, không như một sao thằng Mỹ bỏ chạy. Đâm đầu vào bụi! Viên cười.

Tôi không muốn căng thẳng, im lặng. Bây giờ cuộc sống làm cho khó hiểu những điều đã từng có thực xảy ra trong chiến tranh. Viên không muốn tin hay chẳng hiểu mà không tin? Mà sao con người nó nhiều mặt thế? Tốt thì như một vị thánh, mà ngang thì đúng là cua. Trọng vẫn ham nghe, lại hỏi, đi mãi như thế, lâu như thế mà chú và bố cháu chịu được? Chịu được! “Không chỉ riêng chú và bố cháu. Nhiều người lắm.” Sau chúng tôi khi ấy là cả dân tộc. Tôi nghĩ như vậy, nhưng im lặng.

Suốt tám ngày đi không có gì xảy ra. Thi thoảng gặp vết chân voi. Bãi phân voi to bè còn nghi ngút khói, chua hăng. Mùi cây bị voi chà ngái hắc. Tôi dặn Trọng: thấy voi chớ chạy. Nó khôn lắm, biết ai hiền, ai ác, ai định hại nó, ai không. Cứ thủng thẳng mà đi!

Mùa mưa 72 đói rã họng. Lệnh tiểu đoàn cho bắn một con voi. Thằng Sáu thiện xạ, người Nùng Cao Bằng nhằm bắn con lớn nhất. Con voi bị đạn gầm lên. Sáu chạy. Voi bước nhanh hơn người. Sáu tụt xuống cái hố củ mài mưa rừng đã xói rộng, lọt thủm hết người. Voi thò vòi vào. Sáu bắn. Thò voi ra. Bắn! Mười ba phát cả thảy. Không thò vòi nữa. Nó đi vòng quanh Sáu. Giậm! Nghe tiếng súng, người ở nhà đinh ninh có cái khênh, tìm tới. Con voi một ngà đã đổ ềnh, giấu mặt vào bụi lồ ô rậm rạp. Tìm mãi không thấy Sáu. Thấy khoảng đất rừng voi chà nát. Đất lèn đầy vết chân voi. Con chó đại đội cứ cắn nhặng trên mảnh đất ấy. Đào lên, thấy Sáu chết ngồi. Mắt trợn ngược, nước dãi, sắn, rau rừng từ dạ dày ọc ngược ra lẫn máu ướt chua áo Tô Châu. Tay ôm súng. Mắt không nhắm, trợn ngược lên không thấy lòng đen. Còn hai viên đạn. Một lên nòng, một trong ổ. Nó bị lèn sống về với ông bà.

Sắp tới vị trí cần tìm, tới ngày thứ chín thì có chuyện. Thằng Quân đi ngoài, hoảng hốt la có người rình nó, ôm quần chạy, thụt chân xuống hố mối. Có quái gì đâu, nó đi trúng dưới cây gắm, chỗ con cầy hôi ăn quả gắm vừa thấy động nhao xuống chạy. Tôi nhìn thấy rõ ở cái gốc cây trong bụi rậm những hạt gắm lẫn phân cầy hôi còn bốc khói. Mãi sau này tôi tự hiểu, thời nó ở Căm pot thoát chết bốn năm lần bị phục kích, bắn trộm, nên  như vậy.

Một cành cây chọc qua lớp vải, đâm xiên vào đùi Quân. Máu tươi chảy đỏ xuống gót chân. Băng bó xong, tôi hỏi có đi được không. Quân gật đầu. Tôi biết, nó phải cố. Nó chống cái gậy le, khập khiễng đi theo đoàn. Tốc độ chậm hẳn lại. Nhưng khi ấy nhìn sự chịu đựng phi thường của nó cho kịp đoàn, tôi lại tìm thấy thằng Quân của ngày ở Đồng Dù.

Buổi tối, tôi ngồi bên đống lửa xem lại bản đồ, kiểm tra những điểm cao, chỉ cho Quân và Viên. Nếu bình thường thì ba ngày nữa tới nơi. Chúng ta cố gắng đi năm ngày! Quân gật đầu. Nó nghiến răng theo cho kịp đoàn. Viên nheo mắt nhìn Quân. Thực phẩm đủ cho hơn mười ngày nữa. Tôi rất nghiêm khắc chia ra từng bữa như hồi ở lính. Nhưng nếu cứ đi chậm thế này, phải giảm khẩu phần ăn là cái chắc. Còn lượt về nữa.

Ngày hôm sau chân Quân sưng tướng lên. Sáng dậy, nó cà nhắc ra khỏi võng. Nhìn vết sưng của nó, tôi thương quá. Biết làm sao bây giờ. Tôi bảo, hay là để bọn anh võng. Quân nói, không ! Mặt nó đanh lại.

Lại đi. Nhưng thực ra là thằng Quân lê. Bắt qua ngọn núi nửa mưa, nửa nắng. Được hai tiếng, mù sương bắt đầu thoang thoáng bay lởn vởn, rồi lên càng cao càng đặc dần. Sương, mù, hơi nuớc đọng thành từng hạt nước lớn từ lá rừng trút xuống lộp bộp. Con đường lởm chởm đá tai mèo ẩm ướt, bắt đầu đoạn trơn nhầy rêu. Quân thực sự không thể bước được. Tôi mang ba-lô cho nó. Cố lên, mày! Ba tiếng nữa qua đỉnh. Bên kia là nắng. Gần thung lũng ấy rồi! Tôi phải đủn đít nó mỗi khi bước qua một tảng đá.

Ba tiếng hành quân kéo ra chín tiếng. Trời tối sẫm mới lên tới đỉnh. Quân ngã vật xuống triền cỏ bên này núi.

Thằng con Bảo tới bên tôi, hay là để cháu cõng chú ấy? Không được. Nếu mai cứ thế này sẽ làm võng khiêng Quân. Khiêng thế nào? Viên hỏi. Tôi chặt sẵn cái đòn, buộc võng vào, nói cho Viên việc võng thương, bệnh binh của chúng tôi ngày xưa. Viên bĩu môi: “Có cái bản nào gần đây không?” Không – Tôi chỉ bản đồ – phải một ngày đường.

Ngày nào bị thương ở trận Boloven. Bốn đứa ốm võng tôi dưới trời mưa lụt sụt. Tôi luôn mê sảng. Tỉnh, nhìn lên chỉ thấy cái lưng đẫm mồ hôi và tiếng thở như chó chạy của thằng Long Hàng Chai. Nó chết hồi đánh trận cuối cùng ở Đồng Dù, cửa ngõ Sài Gòn. Một đại đội rằn ri địch bọc hậu của Lý Tòng Bá đã xơi tái hai nhăm chiến sĩ, trong đó có Long. Nhẽ ra Long không chết, nhưng nó nhẩy khỏi chiến hào, bắn vào toán địch định khử tôi. Đạn chả kiêng người bạn xả thân vì đồng đội. Nó dính trọn cả quả cối cá nhân bắn thẳng. Đầu bay mất tiêu. Vết cắt gọn như chặt củ chuối. Bọt máu phun ra sủi phì phì, đùn thành bọng máu đỏ tươi từ cái cổ họng đã mất thủ cấp.

Thằng cáng đi sau là thằng Chiến Dùng. Gọi tên huý là Chiến Dùng vì với nó, bất kì cái gì cũng đút vào miệng được. Tất cả dùng được! Đấy là câu cửa miệng của nó. Một thằng cao gần mét bảy. Hồi an dưỡng nặng bảy chục cân. Khi ấy, vài năm ở rừng còn độc bộ xương lênh khênh thì chóng đói hơn thằng bốn chục cân. Thế là nó phải nhét tất cả cái gì có thể nhét vào bụng. Khốn nạn! Nó vớ phải mỗi cái nấm sót mà tái tím, co giật. Cậy miệng, nhét cái ống nứa, đổ òng ọc cả nửa lạng đường và nước đậu vào họng. Lại móc họng, lấy lông công ngoáy cũng không cứu được. Hôm chôn, mùa mưa lấy đâu ra ô-tô chở quan. Lồ ô ghép làm quan. Ni-lon trải làm chiếu, ba lô làm gối, võng làm chăn. Tôi đút vào túi quần cho nó nửa thanh lương khô BA 70, quỳ thả một nhúm đất khấn thầm: Mày sống khôn chết thiêng, cứu anh mấy lần, phù hộ nốt cho anh sống cho tới ngày mai.

Làm thằng lính biết điều chỉ cần biết ngày mai. Ngày mai tức không phải ngày hôm nay, không phải hiện tại, một tích tắc sau là ngày mai, là tương lai. Ngày mai thì bao giờ chả có. Tôi chỉ dám xin khiêm tốn thế, cho nên trời muốn tôi sống suốt cả hơn mười năm bom đạn?

Mặt trời sớm ra trên đỉnh núi no tròn bằng cái chảo vô tuyến lớn, đỏ sậm. Chim hót vang lừng. Gió lồng lộng thổi những đám mây tơ lững lờ bay ngang. Thằng Quân kéo tôi ra chỗ quang, chỉ về bên trái. Giữa màu xanh ngút ngàn có làn khói mỏng bốc lên. Một mái nhà trắng bạc hắt nắng. Bản! Bản mới! Quân thận trọng đo la bàn. Khoảng ba ngàn mét! Chệch hướng mình đi. Từ đây tới đó phải một giờ. Anh ạ, đưa thằng Quân gửi lại đó. Viên giọng nhẹ như gió. Tôi ngần ngừ. Viên kéo cái chân Quân lên. Bắp chuối đỏ tím. Khéo hoại thư! Tôi lo lắng. Đêm qua, tôi đã chọc cho nó một phát kháng sinh liều cao. Viên lấy ra viên thuốc màu hồng, đưa miệng, cắn răng đánh cắc. Đưa cho Quân một góc và bảo: ‘‘Nuốt!” Quân nuốt. Một lát, khuôn mặt Quân bớt tái. Viên lại lục mấy cái vòng bạc từ túi cóc ra. Từng này đủ nuôi ba thằng Quân cả năm. “Để nó vận động, nguy hiểm”. Viên nói đúng. Tôi hiểu. “Cả tụi quay xuống đó vậy!” “Không! Mình tôi đưa Quân là đủ. Anh chuẩn bị cơm nước. Tôi về ngay. Xuống dốc mà”. “Thế nào Quân?” Tôi do dự. Quân nhăn mặt. Sự đau đớn thể xác buộc người ta chọn thái độ. Bây giờ vàng có ý nghĩa gì? Nó gật đầu. Nó nhìn tôi: “Em khỏi là theo dấu đuổi theo ngay”. Tôi chân thành, không sợ à? Nó cười, lại không sợ rồi! Tôi nắm tay Quân.

Tôi và Trọng nổi lửa. Hơn một tiếng sau Viên quay lại. Nó hổn hển kể: “Dân bản rất tốt. Họ bảo tôi, để nó đấy cả mùa trăng không sợ. Cái cán bộ đi tìm người thân cũng như chúng tao thôi”. Thế là yên tâm rồi. Sẽ quay lại đón Quân sau! Viên xoa tay, tu một ngụm rượu. Cậu nói với họ ra sao? Tôi hỏi Viên. “Bọn tôi đi tìm hài cốt liệt sĩ”. “Bản có mấy nhà?” “Năm nhà. Từ đường Chín mới lên đốt rẫy mới”. “Sao không mua lấy con gà, hở chú?” Viên mắng Trọng: “Gà qué gì nữa! Mày khi nào cũng nghĩ tới gà!”

Từ đây tới đích cũng chẳng xa lắm. Thế mà hay. Khi quay về sẽ vào đó mua thêm gạo và thịt. Tôi thầm tính.

Chúng tôi lại đi. Xuống dốc, cả bọn gần như chạy. Tôi phải nói hai đứa từ từ. Máu dộng nhiều xuống bắp là đêm đau đấy! Thoắt, mọi khung cảnh xưa cũ hiện dần ra. Cũng phải ba ngày sau mới tìm thấy ngã ba suối. Nhiều dấu vết bị thời gian xoá nhoà. Viên bám sát tôi. Khi quẩn quanh tìm vật chuẩn, Viên sáng dạ, trách nhiệm. Rồi cũng tìm thấy ngọn núi thấp và con suối.

Viên nhao xuống ngã ba suối đầu tiên. Nó lặng lẽ sục tay vào từng hốc đá. Bụi vàng còn sót lại, bám lấm tấm mấy đầu ngón của hắn. Viên nheo mắt, ngắm. Nó liếm bụi vàng. Nó xoa vào mặt.

Trọng hét lên nhảy múa như trẻ nhỏ. Tiếng lanh lảnh âm vang cả núi. Lại nhặt được cái mũ sắt đã mục quai gỉ hoét. Tôi bảo, của bố mày ngày xưa đãi vàng. Trọng chụp cái mũ lên đầu có vẻ khoái trá. Con suối êm đềm chảy. Rừng cây và ngọn núi cũ vẫn thế. Trầm tư, bình yên. Tôi đứng lặng.

Tôi mang mấy thẻ hương ra thắp vái tứ phương trên bờ cỏ. Tôi gọi. Chúng mày ơi. Tôi khấn hồn bọn bạn cũ. Khấn thằng Vượng, Chiến Dùng, Long Hàng Chai và Hội. Những kẻ một thời trẻ trai chưa hưởng xái gì. Những kẻ trót dang dở mùi đời, đầy đau khổ mà dám quên đi để cùng nhau chia sẻ nơi mặt trận…

Từ đó tới hang giấu vàng nào có xa. Tối rồi. Tôi dẫn cả bọn vào kho súng đạn cũ. Còn dăm cái thùng đạn vẫn yên trong kho. Màu xanh quân dụng bền, vẫn tươi, mặc thời gian. Dăm gói bộc phá. Kíp nổ, dây cháy chậm. Cái hốc chúng tôi nấu ăn còn dấu tro than nguội lạnh. Đây là chỗ tôi ngủ. Đây là chỗ thằng Long, thằng Bảo, thằng Hội… Tôi sờ soạng từng mặt đá lạnh. Tôi cảm giác như tìm lại được điều gì rất khó dùng ngôn từ nói được. Tôi nhặt được cuốn Tạp chí Văn nghệ quân đội trên hộc đá. Đứa nào quên nhỉ? Tấm ảnh bìa, cô gái áo nâu, ngực căng đẹp tươi choàng súng trường! Hồi ấy chúng tôi đều như thế. Cô gái này bây giờ chắc đã lên bà. Gáy cuốn sách lâu năm khô hồ. Tấm ảnh la đà chao xuống nền hang. Một tờ giấy viết rơi theo. Giấy ố vàng, lờ mờ dòng chữ ghi bài hát: “Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào”.

Trọng tìm thấy hai khẩu súng trường Hung bắn tỉa đầy mỡ trong cùng hang. Mấy khẩu súng ấy thằng Long khuân về từ kho nát bên kia núi. Cái kho thời chiến tranh mới nhen nhóm. Thời bọn tôi, ai còn bắn tỉa? Tiểu liên AK 47 liên thanh thay súng phát một. Thùng đạn K44 vỏ thiếc vẩy cá trắng. Đạn vẫn vàng ươm. Tôi lau mỡ đã ô-xi hóa, đen két trên khẩu súng, chỉ cho Trọng từ khóa nòng tới kính ngắm quang học đã mờ mốc. Phát đạn bắn thử giòn tan bay đi phá vỡ một chỏm đá. “Chúng ta sẽ lấy hai khẩu này cho chuyến về để săn thú!” Viên cầm ngay một khẩu, nạp đạn choanh choách. Nó học bắn ở đâu mà bắn xuya ra trò.

Đêm ngủ lại hang. Lạnh buốt. Phải đốt bộc phá mồi cho gộc củi cháy mới ngủ được. Mùi thuốc. Khét. Thối. Hăng. Gần sáng tôi choàng tỉnh. Hình như có tiếng tru của chó. Tiếng tru miết lên thảm rừng, xa xôi vọng lên. Hay là mê ngủ? Hay là hương hồn đồng đội cũ gọi về? Ngày xưa bọn tôi hay gọi nhau trong rừng bằng tiếng tru chó sói. Tôi lay Trọng, mày có nghe thấy gì không? Trọng ngơ ngác. Viên bật dậy. Lắng tai. Không! Lại yên tĩnh.

Qua vạt rừng cháy xưa là tới hang giấu vàng. Hai tiếng đồng hồ. Tôi đi đầu. Có tiếng chó sói tru thật. Rất gần. Quen lắm. Viên giật mình, bắn một phát về hướng động. Đạn đi cao. Tiếng rít căng.

Yên lặng.

Chỉ còn tiếng thông reo. Tiếng liếu tiếu rộ lên. Có người? Hay thú? Hay chó sói? Thây kệ! Nhanh! Tôi giục.

Cái cửa hang rộng thế mà bây giờ bị cỏ lác, cây che gần kín. Rất lạ, vệt đường mòn trên con dốc, màn màn cỏ tơ, ngược lên vẫn rõ. Ai đã vào đây? Vàng còn hay mất? Tôi nhặt một que thuốc đạn pháo(4) dưới đất, đốt, dò dẫm đi vào.

Cái hang này nông. Không sâu như hang để súng. Cao hơn-mắt tôi rướn tìm. Đây rồi!

Năm túi đựng vàng bằng bao cát Mỹ dựng nguyên ở góc cũ. Còn một túi nữa đâu? Hay mình lú lẫn mất rồi. Những viên đá xếp quanh đã bị dỡ ra từ khi nào? Ai dựng ở đây nhiều thuốc nổ Tonit thế này? Lại dây cháy chậm từng cuộn và hơn chục hộp kíp. Ai? Hay lâu ngày lú lấp!

Trọng nhao tới. Hai chú cháu run lên khi thọc tay vào đám vàng lấp loáng trong ánh sáng trắng, khói đặc của que thuốc đạn xèo xèo cháy. Tôi quay lại: “Viên ơi. Đây!”

Tôi giật thột.

Không thể tin ở mắt mình. Họng súng của Viên chĩa thẳng vào tôi. Mặt lạnh. Mắt lạnh. Rõ ràng hắn không đùa.

– Không được động đậy!

Khẩu súng của tôi để cách hơn mét. Tại sao ngu tới vậy! Ngày xưa vũ khí bất ly thân.

– Chú Viên ơi. Chú đừng đùa! Súng có đạn.

– Đùa hả? Tao bắn nát sọ mày bây giờ. Đá khẩu súng ra bên trái!

Thằng bé mặt tái sạm. Nó từ từ giơ tay quá đầu. Men men vỉa đá lấy chân hất khẩu súng ra xa tôi hơn. “Cháu xin chú!”

– Xin cái nõ c..! Mày ấn túi vàng vào các ba-lô! Viên sấn tới thằng nhỏ đập cái báng súng vào lưng nó. Cú đánh dường như để rung doạ tôi. Trọng sấp mặt xuống nền đá lạnh. Máu ứa đầm đìa mũi, mồm.

Tôi yên lặng. Mũi súng vẫn lăm lăm chĩa vào tôi. Tôi hiểu, cò súng bắn tỉa Hung rất nhạy: “Anh Viên, hãy cẩn thận !”. “Tất nhiên là tao rất cẩn thận”. Viên cười. Tiếng cười trong hang âm âm như tiếng ma. Tôi điên lắm, nhưng vẫn dịu giọng: “Anh Viên. Tôi hiểu. Nhưng chúng ta chỉ có bốn người. Số vàng chia ra đủ cho anh, cho tôi, cho tất cả giàu có”.

Viên có lần nói với tôi nó phải là ông chủ lớn. Tôi không hiểu gì về chủ lớn. Viên bảo làm chủ phải biết điều khiển tiền mẹ đẻ tiền con, tiêu chuẩn đầu tiên là phải có cái đầu lạnh. Phải biết tiền không có họ hàng, anh em, bè bạn. Nhưng cũng phải biết làm như thương người ta, mến người ta, để người ta tận tụy với mình. Gặp vận phải nhập cuộc ngay. -Viên than thở- Gặp vận tôi sẽ nhất định giầu. Không ngơ ngơ như bọn cò con, hơi tí thì run sợ.

– Giầu có! -Viên cười rất nhạt. -Biết bao nhiêu là giàu? Chúng mày chỉ cần một phân là đủ, là sướng run lên rồi. Tao thì một cân chưa là gì. Thiên hạ có cả tỉ đô. Tao cần cả tạ, hai tạ.

– Rồi anh sẽ từ từ mà làm ông chủ mà! -Tôi cắt giọng Viên, thuyết phục.

– Im đi. Ông biết gì. Các người đa cảm, thực thà, cả tin lắm và lúc nào cũng từ từ. Đấy chỉ là tư cách, là xưa lắm rồi. Bây giờ cần tốc lực, ông anh ạ. Làm tốc lực, kiếm tốc lực và chơi tốc lực. Ông anh không nhìn thấy, mấy thằng hôm qua còn kiết lõ ra đấy, sớm hôm sau đã nghễu nghện ô-tô êm ru bóng nhẫy phóng ào ào à?

– Mày nỡ chiếm tất cả công sức của bao người chăng? Tôi sẵng giọng.

– Không nhiều lời. Nói chuyện với anh chán bỏ mẹ. Làm giàu thì thằng nào chả dính máu. Không dính máu thì phải tưới mồ hôi của người khác lên tiền! Dỡ nhà người ta làm chuồng xí nhà mình. Hiểu chưa? Nào, thằng kia, nhanh tay lên!

– Viên. Hãy nghe tôi. Hãy để đức cho con cái. Chúng ta có bốn người. Quân sẽ biết tất cả nếu bọn tôi không trở về. Anh làm sao có thể một mình vượt qua hơn bốn trăm cây với số vàng này?

– Đức độ! Ông anh hay nghĩ tới tâm hồn, đạo đức. Đạo đức để mình chết mục xương là đạo đức ma. Đạo đức để cha mình ốm không thuốc là đạo đức quỷ. Không có tiền thì lấy gì để thương ai? Thằng Quân, nên xuống âm phủ mà tìm.

Thế là rõ cả rồi. Thảo nào nó đưa Quân đi nhanh quá. Tôi không ngờ tới cơ sự này. Họng súng vẫn hướng về tôi.

Viên hạ lệnh cho Trọng lấy cái dây dù của nó vất ra định trói hai tay tôi. Tôi bảo không cần, khoác nặng thế này tôi làm sao đánh lại anh. Nó cười, thế thì biết điều. Viên ngồi xuống bên tảng đá. Chỗ Bảo vẫn ngồi chơi cờ năm nào. Nó lấy bình-tông tu một ngụm rượu. “Chú Viên ơi. Chú cần gì lắm vàng thế?” Trọng vừa ấn vàng vào ba lô vừa van vỉ.

– Mày thì còn ngọng lắm, con ạ. Mày sống đủ như tao sẽ biết tiền để làm gì.

Quay lại tôi, Viên gằn giọng:

– Anh nên biết điều. Tôi sẽ suy nghĩ nên để anh sống hay chết. Nhưng nhớ rằng tôi bắn cũng xuya.

Tôi tính. Thế là còn cơ hội sống. Tôi giẫm nhẹ vào chân thằng Trọng. Nó chắc hiểu tôi. Và, chú cháu sẻ vàng thành các túi nhỏ cho vào ba lô.

** *

Nhiều người thường tin vào số phận, không đặt cược tất cả vào ngày mai, bởi cuộc đời của họ có quá nhiều bất ngờ mà chưa khi nào có sự bảo đảm chắc chắn cho họ hôm sau cuộc sống thế nào. Có lẽ tôi nằm trong số người ấy. May và rủi. Đen và trắng. Sự đối nghịch luôn đan trộn, xen kẽ.

Tôi cứ đinh ninh, rằng có hai phương án sẽ xảy ra. Viên sẽ buộc hai đứa chúng tôi mang số vàng tới một nơi gần đường bọn buôn thuốc phiện lậu qua biên giới, rồi sau đó bắn chúng tôi, một mình làm chủ số vàng ấy. Hai là nó sẽ thí cho mỗi đứa ít vàng và lặn tiêu. Nhưng khả năng thứ hai rất ít, bởi nó đã đang tâm giết chết Quân để nhẹ gánh thì chả tử tế tới vậy.

Nhưng có lẽ số phận chưa muốn tôi bi đát như thế.

Hang núi bỗng yên tĩnh tới mức tôi nghe thấy tiếng tim thằng Trọng đập thình thịch. Chính khi ấy vang lên tiếng hô sắc nhọn như mũi lao bật khỏi dàn bắn nai của đồng bào dân tộc:

– Bỏ súng xuống!

Viên quay người lại. Trước cửa hang, sau mô đá có nòng súng động đậy hướng về Viên. Lấp ló áo màu sặc sỡ. Tình huống quá đỗi bất ngờ cho tất cả. Lại một bóng phụ nữ hiện ra bên trái hang. Cánh nỏ đã giương sẵn.

Tiếng tru chó sói thảng thốt rúc lên rất dài từ sau tảng đá, nơi có mũi súng thấp thoáng.

Tôi bừng tỉnh.

– Không nhận ra à? Đồng đội đây! -Giọng ai đó sao mà quen thế, vang lên.

Viên hoảng hốt vứt cây súng trong tay.

Ngược sáng. Chỉ thấy một bóng người hiện ra lừng lững, râu tóc tung bay trong gió sớm hằn trên màu xanh của trời. Khẩu súng bắn tỉa chĩa thẳng vào Viên. Người Rừng tiến lên gần. Tôi nhặt vội khẩu súng của Viên. Tôi nhao ra. Chính khi lộn xộn ấy, rất nhanh Viên nhào vào. Đẩy sấp thằng Trọng. Một phát đạn dường chỉ bắn cảnh cáo. Tiếng đạn cao. Trần hang bay lả tả bụi. Tôi nhìn Người Rừng. Trọng khi đó cũng đã vọt đứng dậy chạy về phía chúng tôi. Chỉ còn Viên trong bóng tối. Nghe tiếng lạch cạch của nòng súng rê trên đá.

Khi bên cạnh cứu tinh của chúng tôi, tôi chợt giật mình.

Hội! Đúng mày là Hội! Phải không? -Tôi thét lên.

Này nhé! Nụ cười ấy, khuôn mặt ấy, già nhiều rồi nhưng đôi mắt và đôi lông mày rậm ấy. Làm sao quên được!

Người Rừng cười. Cười rung bộ tóc muối tiêu ngang vai, bộ râu cước ngang ngực, tiếng cười vang trong hẻm núi và trên triền rừng âm âm nổi lên, ran ran lan nhanh như có nguời cùng phụ hoạ. Ông ta ấn nhẹ vai tôi và cả hai nằm xuống.

Không nên bao giờ tìm cách lý giải cặn kẽ những sự trớ trêu, kì cục của tạo hoá. Về sau tôi luôn nghĩ như vậy, kể cả khi ngẫm về cái điều nhầm lẫn một cách hết sức như mơ sảng ấy của tôi.

Không! Tôi là Nhơn. Cẩn thận! Khuôn mặt ông trở nên rất nghiêm túc: “Nó nhìn thấy chúng ta rất rõ đấy”.

Tôi xoay súng áp má mà vẫn liếc mắt quan sát kĩ cứu tinh. Đúng hơn là ngắm ông, một lần nữa thật kỹ.

-Hội, cậu lại đùa mình. Thế mà nghe tin cậu mất tích! -Tôi nói trong xúc động.

Chúng tôi tìm thấy bạn anh trôi trên suối. Đêm qua cứ tru mãi để anh biết sự nguy hiểm. Thấy các ông vào hang có vũ khí, tôi không dám lộ diện vì chưa biết ai đã định giết Quân bạn anh. – Người Rừng giải thích vắn tắt – Lại hỏi, anh là Sinh?

– Vâng, tôi là Sinh.

Khi ấy tôi rất mừng, hiểu ngay Quân chưa chết. Sau này tôi mới rõ, rằng trời chưa muốn để Quân chết. Nó bị Viên dọng cho một đòn vào đầu và hất xác xuống thác. Quân trôi vào đúng bến nước của gia đình Người Rừng và họ đã tới đúng lúc.

Người phụ nữ thiểu số từ đầu im như thóc, khi này thi thoảng nhìn tôi và Trọng. Khuôn mặt bà dịu dàng, thản nhiên, nhưng tay luôn lăm lăm chĩa nỏ vào hướng hang.

Tôi nắm chắc súng lăn sang trái: “Cẩn thận nhé! Nó rất nguy hiểm và liều lĩnh”. Người xưng tên là Nhơn gật đầu.
Trong hang bắn một phát. ổ đạn có năm viên. Một trên nòng là sáu. Tối tính, hắn còn 5 viên. Viên đã vớ được khẩu súng của tôi khi nãy. Viên nhìn chúng tôi chắc rõ hơn chúng tôi tìm hắn. Hắn trong bóng tối. Lại bắn. Hai phát, tôi đếm. Tôi không bắn. Trong hang tối quá. Tôi nói to: “Anh chỉ có bốn viên nữa. Chúng tôi có bốn người. Đạn nhiều. Đầu hàng đi.” Trọng bò lại bên tôi. Mặt nó còn đầy máu. Nó vẫn chưa hết bàng hoàng. “Chú ơi, bắn chết hắn đi!” Giọng Trọng căm hờn. Tôi ấn đầu Trọng xuống. Yên lặng tới ba bốn phút. Tôi bắn ước chừng về phía Viên núp. Một phát, hai phát, ba phát rồi phát thứ tư. Có tiếng kêu thất thanh. “ối! Xin các bác đừng bắn. Em xin hàng!”

Bóng Viên hiện rõ dần. Tay phải ôm vai. Tay trái hắn giơ cao ngang đầu. Hắn đã buông súng. Chúng tôi cảnh giác đứng dậy. Tôi chuyển súng cầm sang tay trái, tiến lên, định tạt cho Viên một cái bạt tai cho bõ ức.

Sự việc thực bất ngờ. Trọng, thằng bé liều lĩnh giật lấy súng từ tay tôi: “Để cháu!” Nó bắn rất nhanh phát đạn cuối cùng trong ổ đạn. Đấy là phát đạn của định mệnh.

Viên đạn bay vót sạt tai Viên. Đạn bay sâu vào cuối hang và cắm ngập vào ổ kíp mìn . Đấy là về sau chúng tôi phán đoán như vậy. Một tiếng nổ tức thì, rất mạnh đã thành một áp lực khủng khiếp quét đi tất cả mọi cái gì cản đường nó. Toàn bộ hơn ba chục cân Tonit âm thầm bao nhiêu năm, giờ đây được kích thích phát nổ. Tôi bị lật người ra sau, đầu đập xuống đất và thấy mình bay trong một lỗ hổng đen ngòm xoáy mãi, xoáy mãi.

* *
Xoay quay câu chuyện này, sẽ có nhiều câu hỏi “lẽ ra” cho bao cảnh huống hoàn toàn có thể không theo chiều huống đã xảy ra. Nhưng cũng “lẽ ra” sẽ có nhiều điều còn xấu xa thảm hại hơn mà thực tế cuộc đời tôi đã nhìn thấy. Vậy hãy để nguyên lịch sử của câu chuyện đã xảy ra như thế. Những điều thiếu sót, ấu trĩ, lầm lẫn… nhưng vẫn là chuyện đã xảy ra, cái không thể khác đi trong hoàn cảnh. Và biết đâu, có bàn tay của đấng sáng láng đã đùa giỡn tất cả mà tạo dựng.

Cũng như khi tỉnh dậy, là lúc tôi thấy Nhơn tóc tai bê bết bụi khói bò lên từ con dốc. Người phụ nữ dân tộc mặt mũi nhom nhem cũng liêu xiêu đi tới. Cây cối bên cửa hang xơ xác. Khói bụi tan ra. Tôi đau xót nhận ra cửa hang trống hoác. ánh sáng chan chứa chiếu trên nền hang trơ trụi. Khói từ các kẽ đá vẫn lơ thơ bốc lên. Không một dấu vết cũ. Vàng Xưa?

Chúng tôi tìm thấy Trọng bị ngất, văng ra cách đấy hơn năm mét. Không thấy xác thằng Viên, dẫu rằng Trọng căm thù tới xương tủy, nó muốn “băm xác Viên thành trăm mảnh!”

Hơn bảy chục cân vàng của ngày xưa biến mất. Trở thành cát bụi bay về rừng. Có lẽ với thời gian, nó sẽ theo mưa, theo suối, theo sông về tụ hội ở một nơi nào đó, dẫu là lâu lắm.

Chúng tôi xuống núi trở về nơi Quân đang chờ đợi.

Tôi ôm chầm lấy Quân. Bên cạnh nó một cô gái rất trẻ, đẹp như đóa hoa mai đầu xuân rực rỡ. “Đây là con gái mình. Cháu vừa mười tám tuổi.” Nhơn giới thiệu.

Câu chuyện của Người Rừng phải viết riêng một cuốn tiểu thuyết. Dẫu cho là ông ta chính là Hội, hay không phải thế cũng là điều không quan trọng khi ấy. Điều quan trọng là chúng tôi, tất cả sống sót. Quân đã đỡ, dù chưa đi lại được. Vết thương trên đầu được cô gái tươi trẻ hàng ngày đắp lá rừng, úp thêm một cái mũ mây, đan rất khéo màu ngà sáng.

Đã lâu lắm tôi lại ngồi nhậu trên nhà sàn khá chắc chắn và bếp lửa, rượu đế và thịt rừng nướng. Chúng tôi kể cho gia đình Nhơn nghe chuyện phiêu lưu. Người Rừng cũng bằng tuổi Hội. Ông nói rành rọt chậm rãi, tôi là Phan Thành Nhơn, lính cũ sư đoàn 320 B. Tôi “à” lên, bởi chúng tôi thuộc 320A.

Câu chuyện của ông như một trong trăm ngàn huyền thoại nhiều vẻ của đời sống lính tráng chúng tôi sau chiến tranh đã được các nhà văn miêu tả. Thôi, không bàn chi tiết. Đại để, Nhơn tương tự như hoàn cảnh của anh Hội. Đi biền biệt không tin tức. Thông tin thế nào về quê, rằng Nhơn đã hy sinh. Vậy là người vợ yêu dấu bao nhiêu năm hy vọng kia đi lấy chồng. Lấy ngay em họ Nhơn. Thế là quay lại đơn vị, Nhơn rất hận và buồn. Anh thường xuống thị xã gần nơi đóng quân chơi bời nhậu nhẹt. Một tối, Nhơn uống rượu rất say đã không kiềm chế điên khùng doạ đốt doanh trại. Doạ hóa thật, đơn vị ra tro và cháy lây hai chục nóc nhà của dân. Kỉ luật trả về địa phương. Tỉnh ra, Nhơn thấy cuộc sống thực vô vị, anh lang thang khắp các bản và khi suy kiệt, gần như mất trí, anh ngược rừng đi mãi. Tôi lạc hơn tuần trong rừng không biết lối ra, nằm ven suối đợi chết, anh nói. Một người đi rừng cứu sống anh. Đưa anh về ngôi nhà sàn chơ vơ trên miền này. Bản cũ đã cháy hết trong cuộc chiến. Vợ người đàn ông cứu Nhơn là một người đàn bà tật nguyền. Họ cùng đứa con gái nhỏ, chăm sóc anh hết lòng. “Phải tới hơn ba tháng ốm kiệt quỵ vì bao nhiêu đau đớn và suy nghĩ!” Chính con người tật nguyền – bà, bị cụt cả hai chân khi vấp phải mìn cài trong rừng- nhưng lại rất yêu cuộc sống, đã hồi sinh anh. Bà suốt ngày cháo thuốc và véo von hát những bài hát lạ. Rất lạ! Tới giờ Nhơn vẫn không biết. Lời hát anh hoàn toàn không hiểu. Êm, tha thiết, luôn luôn vang lên cả trong mơ như liều thuốc kì diệu nâng đỡ anh. Nó như tiếng mưa, tiếng gió, tiếng muông, tiếng thú và tiếng của muôn loài ở nơi xa xăm từ kiếp nào đã thấm. Đó là một điệu hát bây giờ thất truyền! Nhạc điệu ấy làm con người yên tĩnh, lắng gạn hết buồn đau. Anh khoẻ ra và quyết định trở lại quê hương. Như số phận định sẵn, ngày anh định xuống núi, xảy ra chuyện người đàn ông cứu anh bị cảm nặng. Tuổi già ra đi bất ngờ. Thế là anh không thể nhẫn tâm để người đàn bà tật nguyền và cô gái trong khu rừng với sự đau đớn mới, chờ thời gian xoa dịu. Tiếp tục sống. Và, anh tìm thấy hoàn toàn bình tĩnh trong đời sống chính tại khu rừng này. Rồi người đàn bà kia gả con gái cho anh, vì anh và con gái bà quấn quýt bên nhau đã lâu. Ông trời cho họ ngay một mụn gái. Để tới mười tám năm sau chính con họ, cô gái tìm thấy Quân bị Viên đập vào sọ ẩy xuống thác nước.

Thay cho đoạn kết:

Người đàn ông kể câu chuyện trên đã gần sáu chục tuổi. Tóc bạc, phong trần, khắc khổ. Nhưng đôi mắt sáng, chân thực và nhân ái. Gã nói, tin thì tin, không tin thì thôi(5)! Gã rời ghế đá quay ra dắt cái xe máy tàng tàng thong thả nổ máy, biến ngay vào dòng người cuồn cuộn, trong lớp sương mù vừa bay ra bồng bềnh trên đường phố, quanh Hồ Gươm. Câu chuyện gã kể dài hai giờ đồng hồ. Trong tay tôi còn cả địa chỉ của gia đình gã và gia đình người có tên là Bảo. Cũng theo lời gã thì gã bằng lòng sống đạm bạc trong ngôi nhà một tầng “không tới nỗi nào và đầy đủ dụng cụ sinh hoạt giải trí cho vợ con”. Nhưng một chi tiết tôi băn khoăn nhất là gã bảo Viên còn sống.” Đã ba lần tôi nhìn thấy Viên sau khi trở về. Một lần trên dòng xe cuồn cuộn ở ngã tư Cầu Giấy. Cách đây hai năm, nhìn thoáng thấy Viên trên ti vi ở một chương trình giới thiệu những người thành đạt tại thành phố X. Lần thứ ba, tôi nắm lấy vai Viên trước cửa một khách sạn lớn ngay tại Hà Nội. Chuyến ấy tí nữa lôi thôi. Viên làm ra vẻ ngạc nhiên, lịch sự gỡ tay tôi, không nói câu nào, còn bảo vệ khách sạn tí nữa làm to chuyện, vì Ông Ta ấy là một thành viên đoàn doanh nghiệp Việt kiều vừa về nước làm việc với thành phố trên kế hoạch đầu tư mới. ”

Chuyện bịa! Thằng Viên còn sống? Mà biết đâu nó sống dai như thế và lẩn quất ở đâu đây?

Tôi, người chép lại câu chuyện này như bị ma ám vì câu chuyện của gã. Khi ấy, chao chác nhìn quanh…

Nước Đức, 18/12/2002

(3) Kíp: Đơn vị tiền Lào bấy giờ.

(4) Thuốc phóng đạn. Màu vàng như chiếc đũa rỗng. Đốt cháy sáng trắng. Khói nhiều, rất khét.

(Theo Vanvn.net)