NGÔ THẢO
Câu thơ của Bùi Giáng: Có khi lỡ hẹn một giờ/ Lần sau muốn gặp phải chờ trăm năm, ùa vào trí nhớ đã sa sút của tôi khi cầm trên tay cuốn tự truyện Đường Trần – Ngọn lửa không bao giờ tắt vừa ra mắt tại Thư viện Hà Nội sáng 7.9.2017 của chị Trần Tố Nga, do NXB Trẻ ấn hành.
Nói vậy, vì từ mùa thu năm 1960, chúng tôi đã cùng vào năm thứ nhất Trường ĐH Tổng hợp ở 27 Lê Thành Tông- Hà Nội, giữa chúng tôi có khá nhiều bạn chung, những Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân, Trần Tiến – Chu Cẩm Phong, Ngô Ngọc Bích Tiên, Hồ Hoa,… nhưng phải 50 năm sau, khi chúng tôi gồm Nguyễn Hồ, Nguyễn Duy, Đào Anh Dũng, Nguyễn Hữu Tuấn qua Pháp làm bộ phim ký sự nhiều kỳ Đi tìm dấu tích ba vua, về ba vị vua vì chống Pháp mà bị lưu đày là Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân mới lần đầu được gặp, khi chị cùng vợ chồng anh Nguyễn Ngọc Giao – Chị Thiện ra sân bay đón và tình nguyện làm người dẫn đường trong gần một tháng đi nhiều địa điểm trên đất Pháp, tiếp xúc để phỏng vấn nhiều nhân vật đã trở thành lịch sử, rồi bay sang đảo La Réunion của châu Phi để tìm tư liệu của ba vị vua yêu nước.
Sự am hiểu của chị Trần Tố Nga về lịch sử hai nước, quan hệ gần gũi của chị với các nhân vật trí thức và chính khách Pháp làm tụi nhà quê chúng tôi khâm phục. Nhưng ngạc nhiên hơn, khi chị đưa cả đoàn về ăn ở tại nhà riêng ở làng Palezeau, ngoại ô Paris. Và câu chuyện mà chị kể , lại là những năm tháng làm học sinh miền Nam ở Hải Phòng, về Trường cấp 3 Nguyễn Trãi – Hà Nội, rồi vào Khoa Hóa của Trường ĐH Tổng hợp. Con đường vượt Trường Sơn, với dự kiến vào mở trường ĐH ở vùng Giải phóng, tình hình không thuận lợi, khi Mỹ trực tiếp đưa quân vào miền Nam, họ phải làm tất cả những công việc có thể phục vụ cho cuộc chiến đấu. Rồi vào nội thành làm giao vận, bị bắt và bị tù, sinh con trong tù, mình nhiễm chất độc da cam, với nhiều bệnh tật không thể gọi tên, và được giải phóng vào ngày 30.4.1975.
Công việc làm phim bận rộn, chuyện riêng tư nghe kể cũng chỉ gọi là, lại còn trực tiếp chứng kiến những công năng có phần dị biệt của một cao nhân, những ngày gần gũi, nhìn người phụ nữ không thật khỏe mạnh mà có sức làm việc phi thường, tôi nhắc mình câu thơ ngày nào của nhà thơ Tố Hữu viết về bạn tù: Gần nhau đây, mà xa biết bao nhiêu/ Giữa hai đứa, mênh mông là biển rộng/ Thuyền anh (đây là chị) đã bao lần leo ngọn sóng/ Trôi điêu linh trên vực mạn khôn cùng/ Cánh buồm xưa kiêu hãnh gạt cuồng phong…
Mười năm qua, gặp chị trong nhiều dịp đi về, nhưng là người như có phép màu, nhiều điều thuộc về cuộc đời của chị như vẫn đầy bí ẩn, ngay cả với những người quen thân đã nhiều năm. Mấy tuần trước, ở Sài Gòn, cùng nhà văn Nguyễn Hồ, người từng nhiều năm ở R, gặp nhau, nghe nói đến tự truyện chị vừa hoàn thành. Vậy mà đầu tháng 9 sách đã kịp ra mắt ở Sài Gòn rồi Hà Nội. Sự tận tâm và nhiệt tình của các bạn ở Nhà xuất bản Trẻ thật đáng trân trọng. Mà vội vàng là phải, vì ngay sau khi ra mắt sách ở Hà Nội, chị phải trở về Pháp để chuẩn bị cho phiên Tòa pháp lý quốc tế về di hại chất độc da cam sẽ mở phiên thứ 9 ở Paris vào cuối tháng này. Cũng như cuốn Mảnh đất bị nhiễm độc của tôi chị viết bằng tiếng Pháp, năm trước đã bán được 800 bản để gây Quỹ chi phí cho vụ kiện, cuốn tự truyện lần này cũng dùng toàn bộ số tiền bán sách góp cho Quỹ. Đáng mừng là 1.000 bản đầu tiên đã được bán hết, và NXB đang tái bản.
Trong vụ kiện về chất độc da cam này, chỉ một mình chị là nguyên đơn, vì chị là người trực tiếp bị nhiễm độc, lại là Công dân Pháp, nên theo Luật của nước Pháp, chị được bảo vệ để khởi kiện. Công việc nhọc nhằn, tốn kém sức lực và cả tiền của này đã được bắt đầu từ gần mười năm trước, khi chị được mời làm nhân chứng trong phiên tòa của Tòa án Lương tâm quốc tế vì Nạn nhân Da cam VN mở tại Paris. Năm 2004, Hội Nạn nhân Chất độc Da cam VN đã chính thức khởi kiện 37 Công ty Hóa chất Mỹ với những bằng chứng không thể phủ nhận. Vụ kiện được sự đồng tình của dư luận quốc tế, kéo dài cả năm trời, nhưng cuối cùng vẫn bị Tòa án Mỹ bác bỏ, khi viện dẫn những điều luật rắc rối của họ. Những hy vọng cuối cùng của nạn nhân Da cam VN bị dập tắt một cách tàn nhẫn. Và đó là khi, tận dụng những lợi thế của một công dân Pháp, bị nhiễm chất độc Da cam, chị bắt đầu khởi kiện. Hành trình cũng chẳng dễ dàng gì. Được các Luật sư Pháp nổi tiếng kiên trì giúp chuẩn bị tài liệu và tham gia tranh tụng miễn phí, nhưng khi thì chính trường Pháp có những thay đổi về nhân sự, rồi phía VN không phải đã ủng hộ ngay, khi chưa nhận thức ra rằng, Trần Tố Nga không kiện cho cá nhân, mà muốn tạo một án lệ, vì quyền lợi của 4 triệu nạn nhân chất độc Da cam của cả nước, mà không chỉ của VN. Kinh phí theo kiện cũng là vấn đề lớn, dù có ba luật sư tình nguyện. Có 26 Công ty bị kiện, nhưng cho đến nay, chỉ có 19 Công ty – mỗi Công ty cử 2 Luật sư đại diện tranh tụng, nghĩa là 3 sẽ chọi lại 38 trong phiên tòa tranh tụng đầu tiên sắp mở. Càng đi vào vụ kiện, chắc chắn rằng họ sẽ huy động tất cả sức mạnh vật chất, tri thức, kinh nghiệm và quan hệ cuả họ để tránh thế thất bại. Dù phải đối mặt với những thủ đoạn của bên bị có tiềm lực vật chất mạnh hơn hẳn, chúng tôi vẫn quyết tâm đi tới cùng. Chúng tôi có chính nghĩa, chúng tôi có mục tiêu nhân đạo, được cả thế giới ủng hộ. Cùng với đó là những chứng cứ, tài liệu, các bằng chứng sống, những nổi đau đớn về thể xác và tinh thần của nạn nhân chất độc Da cam ở VN (tr 435).
Một bi kịch đau lòng, là bản thân chị, nhiều năm bị nhiều bệnh tật không thể gọi tên, cuối cùng cũng đã phát hiện ra bệnh ung thư, vậy là chị mang 4 trong số 17 chứng bệnh mà chính quyền Mỹ đã chính thức thừa nhận là có thể có liên hệ đến chất độc da cam. Nguyên đơn sẽ đem chính mình làm nhân chứng.
Khi phát hiện mình bị K, trong thời gian chuẩn bị sức khỏe để chịu đựng ca phẫu thuật, mà kết quả không ai dám bảo đảm thành công,sợ trí nhớ sẽ suy tàn, sợ bao điều mình chiêm nghiệm và từng trãi, con cháu, bạn bè và hậu thế không biết, chị bắt tay vào viết Đương Trần, với bản tính cẩn trọng về câu chữ của một nhà báo, lại có nhiều năm làm nhà giáo, chị đặt thêm Ngọn lửa không bao giờ tắt. Trước khi lên bàn mổ vào tháng 5, chị đã cơ bản hoàn thành tự truyện. Vừa xong mấy đợt hóa trị, xạ trị cần thiết, chị bay ngay về nước để mong cuốn sách được ra mắt trước khi phiên tòa bắt đấu.
Tự truyện Đường trần-Ngọn lửa không bao giờ tắt
Trong những trang đầu, tác giả viết: Ôm đứa cháu mới sanh vào lòng, Bà ngoại chép miệng: Tội nghiệp cháu tôi, đã mang tuổi Ngọ (1942), còn sanh đúng vào giờ ngựa kéo xe (sáng sớm), số của con rồi cũng sẽ phải gánh nặng chuyện đời, chuyện thiên hạ thôi, con à. Lời tiên tri của Bà về số phận của tôi thật đúng. Con đường trần tôi đã đi qua thật lắm gian nan, đầy chông gai, cạm bẫy, định kiến, có tốt, có xấu, hay và dở, với những hạnh phúc ngắn ngủi chen lẫn nhiều cay đắng. Tôi đã đi gần hết con đường đó như một con người, một chiến sĩ, đã làm được những việc có ích cho cuộc đời,đã gắng sống đúng theo những giá trị được nuôi dạy và được thừa hưởng từ ông bà cha mẹ tôi. (tr.15)
Để đạt được sự bình tĩnh và tự tin ấy khi kể chuyện cuộc đời hơn 70 năm, với bao biến động và nếm trãi không giống ai, tác giả gặp suy nghĩ của Nazim Hickmet: “Cái chết là cuốn sách thấu lý nhất tôi đọc được ở đời. Mỗi khi nghĩ rằng, chúng ta, ai rồi cũng sẽ chết, tôi lại tự hỏi: Sao lại ganh nhau, ghét nhau, sao lại đố kỵ nhau?” Trong mấy chục năm chiến tranh, cái chết dĩ nhiên là luôn rình rập, bất ngờ. Nhưng phải khi phát hiện bị ung thư, chuẩn bị lên bàn mổ, mới thực sự đối diện với cái chết. Lòng nhân ái, bao dung, niềm đau được nén lại, lòng biết ơn thường trực và sâu nặng và một chút tự hào không che dấu làm cho những trang viết có sức hấp dẫn của một sự thật lịch sử trung thực, vì trung thực nên luôn đa nghĩa. Có một niềm đau, như định mệnh, đi theo suốt cuộc đời tác giả, đó là , không chỉ bản thân, mà tất cả những người thân yêu, gần gũi, dù tham gia cách mạng với tất cả tâm huyết và cuộc đời, nhưng luôn nằm trong tầm ngắm của những nghi ngờ,ngay cả khi có bằng, có chứng, vẫn không dễ đã được tin. Xuất thân, thành phần tiểu tư sản, chỉ là một lý do.
Ông bà ngoại, người mà tác giả và những người thân trân trọng, yêu thương, và được nhờ cậy nhiều nhất. Ông bà chỉ có một người con gái duy nhất. Sống với mấy cơ sở kinh tế ở Sài Gòn và dưới quê. Mấy mươi năm, chiến tranh, chia cắt, những nơi đó luôn là nơi tá túc, nuôi dấu các con cháu và đồng đội của con cháu hoạt động, làm nguồn kinh phí tiếp tế cho cách mạng. Thời nào cũng có người thân đi tù hết Côn Đảo, Phú Quốc, các trung tâm cải huấn với nhà lao, là bà ngoại lại có mặt để thăm nuôi, tiếp tế. Các cháu lớn lên, đi kháng chiến, sinh con để cái, lại gửi về để bà ngoại nuôi. Vậy mà ngày giải phóng về, tin tức con gái, con rễ mù mịt, vì mất tích. Mấy cơ sở kinh tế bị trưng dụng, đóng cửa. Cho đến lúc mất, ông bà ngoại vẫn ôm nỗi đau không nói được thành lời. Các cháu, toàn đi kháng chiến, trở về, nhìn mà bất lực, còn đau hơn.
Cha mẹ Trần Tố Nga là một đôi trai tài gái sắc nổi tiếng. Cuộc tình duyên của họ không dễ dàng , vì gặp sự phản đối của hai gia đình. Nhưng tình yêu đã thắng. Cả hai đã tới với cách mạng theo những con đường khác nhau. Đầu kháng chiến chống Pháp, ở Nam Bộ, tình hình các lực lượng, phe phái kháng chiến khá phức tạp. Cha chị được tổ chức bố trí vào làm lính trong quân đội Liên hiệp Pháp, trước khi mất là Quận trưởng nhưng là tay trong cho ta đánh đồn. Ông về nhà thì bị sốt phát ban rồi mất sớm (1947). Phải 50 năm sau, mới có một vị tướng, người từng tổ chức cho ông vào hoạt động trong hàng ngũ quân đội Pháp, xác minh. Lúc ông mất, mẹ chị, bà Nguyễn Thị Tú mới 24 tuổi với một nách 4 đứa con thơ. Vừa lo nuôi con, vừa tham gia hoạt động. Năm 1954, Tổ chức phân công bà ở lại, trong khi ông Tạ Bá Tòng, người chồng sau của bà đi tập kết. Do nhiều hoạt động yêu nước, bà bị tù, bị giam giữ ở nhiều nơi, cuối cùng bị đưa ra Côn Đảo. Tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của bà trong các nhà tù luôn là tấm gương cho đồng đội giử vững ý chí chiến đấu. Năm 1960, trong cao trào Đồng khởi, kẻ địch buộc phải thả 3.000 tù chính trị, trong đó có nhiều trí thức. Vừa ra tù, bà vượt thoát vào Chiến khu. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, bà được cử làm Ủy viên Trung ương, sau đó là Chủ tịch Hội Phụ nữ Giải phóng, rồi Chủ tịch Hội Phụ nữ Giải phóng Sài Gòn – Gia Định. Dù bị theo dõi gắt gao, và dễ bị nhận diện, nhiều lần bà đi vào nội đô ,xây dựng và tổ chức các hoạt động đấu tranh. Năm 1967, bà mất tích trong trận càn Cedar Fall của liên quân Việt – Mỹ vào căn cứ Mặt trận. Mãi 40 năm sau, gia đình mới tìm được di hài bà bị trói trong tư thế ngồi. Chính sợi dây vô tri chưa kịp phân hủy và tư thế bị chôn ngồi đã là chứng tích hùng hồn nói với hậu thế về cuộc chiến đấu kiên cường của người Chủ tịch đầu tiên của Hội Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhưng giữa 40 năm im lặng ấy, có biết bao nghi ngờ và đồn đại ác ý được thêu dệt, đổ bóng vào cuộc sống của lớp con cháu, cũng toàn những người đã tham gia công tác cách mạng từ rất sớm.
Cũng do hoàn cảnh ấy, mà những ngày Trần Tố Nga được sống với gia đình là không nhiều. Trong nhiều hoàn cảnh, hình bóng lý lịch gia đình đã làm đổi hướng đường đi, nước bước, lẽ ra đã khác của chị. Nhưng với khí chất cứng rắn, giàu lý tưởng, khi được đưa ra Băc, đi học các trường học sinh miền Nam, cấp 3 Nguyễn Trãi, do không được đi học nước ngoài, nên chọn vào Khoa Hóa ĐH Tổng hợp HN, khi ra trường, đáng lẽ đi làm nghiên cứu sinh, chị lại chọn con đường về Nam chiến đấu. Những trải nghiệm cuộc đời được ghi lại một cách khách quan, với lối diễn đạt nhẹ nhàng nhất có thể , nhưng nhiều chỗ cũng làm người đọc dừng lại trên trang sách mà suy ngẫm về tình người và thời thế một thưở: Nỗi thất vọng trẻ con khi lần đầu từ chối một sự tỏ tình mà bị bôi bẩn cả nhân cách và lý lịch nên không được đi học nước ngoài đến nỗi định đâm vào ô tô ở Bờ Hồ, rồi dầm mình xuống dòng sông Đuống đang chảy xiết. (Nhiều năm sau ngày giải phóng, đau đớn và tuyệt vọng, ý nghĩ tự sát đã hơn một lần trở lại). Sự kiện ấy đã làm thay đổi tính cách một cô gái con nhà khá giả, được nuông chiều, chọn con đường lý tưởng, với quyết tâm, lội ngược dòng, từ nay, biết nuốt nước mắt vào trong, phải cắn răng mà sống. Những ngày vượt Trường Sơn, chị đã làm được điều đó. Là thân gái, nhưng luôn tự chủ, không làm phiền ai. Khi vào chiến trường, công việc không như ý, vẫn luôn làm thật tốt những gì có thể. Trước bao ngang trái, thị phi, có khi nhìn nhau một cách cay nghiệt, chị vẫn chịu đựng để tin tưởng vaò ngày mai, như lời mẹ dặn: Ngày hòa bình về, mẹ con mình sẽ… Trong một nghĩa nào đó, tác giả thấy, hình như cũng là may, khi Bà không phải chứng kiến nhiều điều không như ý mà cuộc sống thời hậu chiến đã diễn ra. Với bao người đã bằng cách này, cách khác, ủng hộ, tham gia vào cuộc chiến đấu, để có ngày chiến thắng thật trọn vẹn, tiếp quản một thành phố lớn không bị tàn phá, hình như những người chiến thắng đã vội quên. Tâm trạng này là có thật ở những người có gốc gác ở miền Nam, với bao sợi dây huyết thống chằng chịt, một nhà mà con cháu ở cả hai phía. Rồi nữa, nội bộ nhìn nhận nhau, nhất là những người đã vướng vào tù tội. Chưa kể, là cán binh phía Việt Nam Cộng hòa. Có nhiều điều đáng ra không nên có đã xảy ra, nên cuộc chiến kết thúc gần một nữa thế kỷ, với mọi quốc gia thù địch, ta đã hòa giải được, mà nội bộ người Việt, vẫn chưa có dấu hiệu hòa giải, hòa hợp.
Trần Tố Nga cũng là người lãnh đủ những hệ lụy của một thời đó. Làm tốt mọi việc trong chiến tranh, kiên cường và vững vàng trong lao tù, mang bầu, rồi sinh con trong thời gian bị giam giữ. Nhưng công việc sau giải phóng không thể hòa nhập. Tự bật ra khỏi hệ thống cán bộ, xin về làm công tác giáo dục. Xây dựng được ba cơ sở giáo dục khá thành công: Hiệu trưởng trường Lê Thị Hồng Gấm, Hiệu trưởng trường Marie Curie, rồi Sư phạm Kỹ thuật, nhưng ở đâu như cũng sống trên chông gai của nghi ngờ và dư luận. Mới tuổi 50, chị xin về hưu non. Và hình như đây mới là lý do để cuốn sách có phụ đề: Ngọn lửa không bao giờ tắt.
Bởi ra khỏi hệ thống, bắt đầu lập nghiệp, khi sức khỏe sa sút, nhiều bệnh tật từ thời chiến tái phát, con cái đứa mất, đứa còn thì bệnh tật. Phải tự xoay xỏa để tồn tại,có lợi thế về ngôn ngữ, bước đầu chi lập một Công ty Du lịch quốc tế, lấy tên các con làm tên công ty. Chị tự nhận, việc này chỉ là tiếp tục sứ mệnh một đời của người luôn làm cầu nối cho những mối quan hệ giữa những con người mà mình quý trọng dù họ khác nhau về nhiều mặt, một chiếc cầu nối tử tế, chắc chắn, đáng tin cậy. Trong cương vị này, từ rất sớm, dù giữa nhiều thị phi, chị đã đưa nhiều binh sĩ Pháp từng tham chiến ở VN trở lại thăm chiến trường xưa. Đoàn đông nhất là hơn 300 binh sĩ Pháp trở lại thăm Điện Biên Phủ, và trong nhiều năm họ đã góp những đồng lương hưu của mình để giúp đỡ nhiều trường học và làng quê VN. Từng giúp tìm gia đình nhận nuôi cho 40 trẻ mồ côi. Giờ đây, các cháu đều đã trưỡng thành và có cuộc sống tốt đẹp trên đất Pháp. Chị cũng đã đưa nhiều nhà từ thiện về giúp đỡ thuốc men, trường học cho nhiều tĩnh Miền Tây, đào tạo nghề cho trẻ khuyết tật. Đã mang sự giúp đỡ xây 200 ngôi nhà cho những nạn nhân chất độc da cam ở Thái Bình. Ghi nhận công lao của chị trong việc kết nối quan hệ nhân dân Việt – Pháp, chị được Tổng thống Pháp tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh.
Là người của lịch sử, từng quan hệ công tác và gần gũi nhiều nhân vật lịch sử quan trọng, nhưng cũng như trong cuộc sống, trong tự truyện, chủ yếu chị chỉ viết về những con người bình thường, đa số là những người thân gần Và còn khá nhiều những điều mà tác giả thấy không nên, không nỡ, không muốn, không cần phải kể lại. Trong sáng và chừng mực, nhưng cũng đủ làm cho cuốn sách hấp dẫn, bởi đó là sự thật đất nước những năm có chiến tranh và số phận những con người cụ thể đã góp sứcmình giữ cho ngọn lửa của lý tưởng cách mạng và lòng yêu nước không bao giờ tắt.
14.9.2017
Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài