Lê Tiên Long
Học giả Nguyễn Hiến Lê ngại giao tiếp và rất ít bạn, nhưng có mấy người bạn thân là Đông Hồ, Giản Chi, Hư Chu. Cả bốn ông ngoài là nhà văn nổi tiếng, đều gắn bó với nghề giáo.
Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), có biệt hiệu và bút danh là Lộc Đình, nguyên quán tại Quảng Oai, Sơn Tây (nay là Ba Vì, Hà Nội), là một nhà văn, học giả uyên thâm, uy tín.
Trong cuộc đời trên 40 năm cầm bút, ông đã cho ra đời khối lượng tác phẩm đồ sộ với trên 100 đầu sách, về rất nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du ký, dịch tiểu thuyết, học làm người…
Nhà thơ Đông Hồ (Lâm Tấn Phác, 1906-1969) lớn hơn ông Lê 6 tuổi, học giả Giản Chi (Nguyễn Hữu Văn, 1904-2005) hơn ông Lê 8 tuổi, còn nhà văn Hư Chu (Nguyễn Kỳ Thụy, 1922-1972) nhỏ hơn ông Lê 10 tuổi.
Tuy Đông Hồ là người miền Nam (ông sinh trưởng ở Hà Tiên) nhưng từ gia phong đến giáo dục, bút pháp đều giống nhà Nho đất Bắc, nên ông Lê cảm thấy gần gũi, còn hai bạn người còn lại đều giống ông Lê, là người gốc miền Bắc vào sinh sống tại miền Nam.
Theo Nguyễn Hiến Lê, ba người bạn thân của ông có điểm chung là: “Cả ba bạn đó đều biết chữ Hán, đều giữ được ít nhiều phong cách nhà Nho. Bốn anh em tôi giao du với nhau, tình ‘đạm nhược thuỷ’ (đạm bạc như nước) tuy thân mà không vồn vã, ồn ào”.
Tuy nhiên, Nguyễn Hiến Lê lại có điểm khác biệt với ba người bạn của mình: “Tôi xét không phải là một nghệ sĩ, không có chút nghệ sĩ tính nào mà ba bạn thân của tôi đều là nghệ sĩ”.
Sách Hồi ký Nguyễn Hiến Lê tiết lộ quãng thời gian dạy học của tác giả
Nghề giáo của bốn nhà văn
Nếu ai đã đọc Hồi ký Nguyễn Hiến Lê sẽ biết, dù tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính và có hơn 10 năm hành nghề khảo sát thủy lợi khắp miền Tây Nam Bộ, nhưng sau Cách mạng tháng Tám, do hoàn cảnh đi tản cư sống một mình, ông đã có một thời gian dạy học tại Long Xuyên, An Giang.
Nguyễn Hiến Lê bắt đầu dạy học tại nhà, theo đề nghị của ông quận trưởng Nguyễn Ngọc Thơ (người sau này là Phó Tổng thống, rồi Thủ tướng chính quyền VNCH) dạy kèm hai môn Toán và Pháp văn cho con và cháu của ông ta, sau đó nhiều công chức chính quyền biết tiếng cũng đưa con lại nhờ dạy.
“Tôi nổi tiếng dạy giỏi và đầu niên học sau số học sinh xin học rất đông, tôi chỉ nhận hai chục em thôi”, ông Lê viết trong hồi ký.
Khi ông Thơ lên làm tỉnh trưởng Long Xuyên, ông mở trường Thoại Ngọc Hầu và mời Nguyễn Hiến Lê dạy thay một thầy giáo khác được điều chuyển. Vì tình bạn với cả hai người, nên ông Lê đã tham gia dạy các môn Pháp văn, Việt văn, Đức dục, sau dạy thêm cả Hán văn cho nhiều lớp từ năm thứ Tư đến năm thứ Nhì (tương đương lớp 7-9 chương trình hiện nay). Ông dạy học tại đây trong 3 năm, từ 1950-1953.
Quan điểm giáo dục của Nguyễn Hiến Lê được ông thể hiện rõ rệt: “Năm nào tôi cũng đề nghị với hiệu trưởng cho mỗi lớp năm bảy học sinh ở lại vì sức non quá, nhưng hiệu trưởng không nghe, có lẽ vì không muốn làm mất lòng phụ huynh. Tôi bất mãn vì điểm đó lắm, bảo như vậy trái với quy tắc sư phạm, trái với cả cái lợi của học sinh vì học mà không hiểu thì đã mất thì giờ mà lại chán”.
Thi sĩ Đông Hồ là một nhà thơ có tiếng trên văn đàn từ cuối những năm 1920. Ông có cuộc đời hoạt động văn hóa sôi động, từ cộng tác với Nam Phong tạp chí, xuất bản báo Sống ở Sài Gòn… Năm 1950, ông lên Sài Gòn lập nhà xuất bản Bốn Phương và nhà sách Yiễm Yiễm thư trang.
Đông Hồ tham gia dạy học từ năm 1965, khi được mời phụ trách môn Văn học tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và gắn bó với bục giảng cho đến tận phút cuối cuộc đời.
Nguyễn Hiến Lê ca ngợi: “Cái chết của ông thật đẹp: Đương ngâm thơ về Trưng Vương của Ngân Giang ở giảng đường Văn khoa thì đứt gân máu, té xỉu trong cánh tay sinh viên, hôn mê, đưa lại dưỡng đường rồi về nhà, bảy giờ tối tắt thở”.
“Ông có truyền thống nhà Nho, chỉ thích dạy học, truyền lòng yêu tiếng Việt cho những thanh niên tuấn tú”, ông Lê viết về thi sĩ, tác giả thi phẩm Cô gái xuân.
Thầy Giản Chi (giữa) cùng sinh viên Đại học Văn khoa Huế.
Tuy nhiên, từ năm 1965, ông gắn bó với nghề dạy học, khi tham gia giảng dạy triết học cổ Trung Hoa và văn học Hán Nôm Việt Nam tại các trường Đại học Văn khoa, Đại học Sư phạm, Đại học Vạn Hạnh (Sài Gòn), Đại học Huế. Mãi đến năm 1977, khi đã 74 tuổi, ông mới nghỉ hưu.Giải Chi – Nguyễn Hữu Văn có nhiều điểm chung với Nguyễn Hiến Lê hơn. Ông quê gốc ở làng Hạ Yên Quyết (làng Cót, Cầu Giấy, Hà Nội hiện nay) cũng tốt nghiệp Cao đẳng Công chính Hà Nội và sống cuộc đời công chức ngành bưu điện rong ruổi khắp nhiều địa phương như Sơn La, Lai Châu, Hải Dương, sau đó là miền Nam.
Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê là tác giả chung của một số cuốn sách nghiên cứu giá trị như Đại cương triết học Trung Quốc, Hàn Phi Tử, Tuân Tử và cùng dịch Chiến quốc sách.
Năm 1953 lên Sài Gòn Nguyến Hiến Lê mới gặp mặt nhà văn Hư Chu. Hư Chu sinh năm 1923 ở làng Hành Thiện (Nam Định), một làng nổi tiếng về học hành, đỗ đạt. Là con một cụ cử, Hư Chu sớm thôi học chữ Pháp, về quê học thêm chữ Hán rồi phiêu bạt, làm khá nhiều nghề: buôn bán, nuôi gà, thư ký, thầu rừng, dạy học, chế trà, nghề nào cũng thất bại. Năm 1950, ông mới vào Sài Gòn thử nghề cầm bút, viết truyện “feuilleton” cho tờ Việt Thanh và dần nổi danh.
Khi tờ Việt Thanh đình bản, ông túng bấn mà vẫn vui. Từ năm 1955, ông dạy Sử Địa cho vài trường trung học tư ở Sài Gòn, đời sống ông từ đó mới bắt đầu ung dung hơn.
Nguyễn Hiến Lê nhận xét: “Ông thích dạy học, được học trò và bạn bè mến vì tính tình hiền, nhã, thành thực”.
Tình tri kỷ của các nhà văn hóa
Với Đông Hồ, mỗi khi viết được bài nào đắc ý thì thi sĩ lựa hai bản in riêng, đích thân ông sửa lỗi in rồi đóng lại thành tập mỏng, đóng dấu son “Đông Thuỷ cổ nguyệt” (tức Đông Hồ: chữ Hồ gồm ba chữ thuỷ, cổ và nguyệt), rồi gửi cho Nguyễn Hiến Lê hai bản, một bản để vào tủ sách của ông ở Long Xuyên, một vào tủ sách Sài Gòn.
Đọc văn Nguyễn Hiến Lê, thấy cuốn nào, bài nào vừa ý thì ông lại thăm hoặc viết thư khen vài lời chân thành.
Khi nghe tin Đông Hồ qua đời (25/3/1969), Nguyễn Hiến Lê về nhà viết ngay bài Khóc bác Đông Hồ. Bài đó đăng kịp trên báo Bách Khoa số 1/4/69. Sau đó, Nguyễn Hiến Lê còn viết tất cả 4 bài nữa về người bạn mình. Tất cả những bài đó đều nhắc tới sự nghiệp văn thơ của ông.
Thi sỹ Đông Hồ
Hư Chu chơi thân với Nguyễn Hiến Lê ngay sau khi ông Lê lên Sài Gòn, năm 1954 khi ông Lê mở nhà xuất bản, Hư Chu là người lái chiếc xe máy dầu Peugeot đưa ông Lê đến các nhà in, cùng giao sách, thu tiền, sửa ấn cảo… “Có lời, chúng tôi chia nhau để sống”, Nguyễn Hiến Lê nhớ lại.Dù Đông Hồ yêu thích dạy học, nhưng ông lại khuyên Nguyễn Hiến Lê chỉ nên tập trung vào viết lách, không quay lại với nghề giáo. Trong một cuốn Đời viết văn của tôi, Nguyễn Hiến Lê viết về Đông Hồ: “Tôi cũng nhận ông là tri kỷ của tôi khi ông nghe tin người ta mời dạy đại học Văn khoa Sài Gòn, ông vội vàng sáng sớm từ trong Gia Định lại nhà tôi để khuyên tôi đừng nhận dạy vì mất thì giờ lắm”.
Tuy hai người rất quý mến nhau, nhưng từ khi Hư Chu bắt đầu dạy học, ông và ông Lê mỗi năm chỉ gặp nhau vài lần.
Khi Hư Chu mất lúc mới 50 tuổi, Nguyễn Hiến Lê cũng có bài viết đã ghi lại sự nghiệp của ông mang tựa đề Hư Chu đăng trên tạp chí Bách Khoa số 392, tháng 6/1973. Bài viết “ngắn mà đầy đủ, các bạn văn cho là cảm động”.
Với học giả Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê đánh giá về đề nghị cùng viết bộ Đại cương triết học Trung Quốc như sau: “Nhờ có ông tôi mới mạnh bạo bước vào lĩnh vực cổ học Trung Quốc, và nhờ tôi có thúc đẩy từ đó ông mới sáng tác mạnh. Thực là một duyên tiền định có lẽ chưa hề thấy trong văn học sử nước nhà từ đầu thế kỉ đến nay”. Cuốn Thượng bộ Đại cương triết học Trung Quốccủa hai ông được chính quyền Sài Gòn dự kiến trao giải thưởng quốc gia, nhưng các ông từ chối nhận giải.
Nguyễn Hiến Lê cũng coi Giản Chi là bạn tương tri. Khi có người bàn với Giản Chi về việc giới thiệu ông Lê nhận giải Tuyên dương sự nghiệp Văn học năm 1973 của chính quyền VNCH, hiểu bạn, Giản Chi gạt đi, khẳng định: “Bác ấy không chịu đâu, đừng giới thiệu”.
Nguyễn Hiến Lê đúc kết về tình bạn của bốn người trong Đời viết văn của tôi: “Mới quen thì chỉ kính nhau thôi, lần lần càng hiểu nhau thì càng quý mến nhau hơn, mặc dầu có khi vài tháng mới lại thăm nhau một lần. Gặp nhau chúng tôi nói chuyện về văn thơ nhiều nhất, rất ít khi tâm sự về chuyện riêng. Mỗi người có một lối sống riêng, những sở thích riêng, chúng tôi biết tôn trọng những cái đó của nhau. Nếu thấy thật cần phải khuyên nhau một lời thì chỉ nói phớt qua, mà nếu bạn không nghe thôi. Tôi nghĩ miễn thành thực với nhau và giữ được tư cách là đủ, ngoài ra không cần biết tới”.
Nguồn: Zing.vn
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài