Cầu trên sông Kwai được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vinh danh trong 100 bộ phim Mỹ hay nhất của mọi thời đại.
.Bộ phim cùng tên, hợp tác Anh – Mỹ, xuất xưởng năm 1957, do đạo diễn Anh quốc David Lean (1908-1981) dàn dựng, là một hiện tượng chấn động không chỉ thế giới điện ảnh bấy giờ. Phim ra mắt trước tiên ở Vương quốc Anh tháng mười năm 1957, tháng mười hai năm đó, mới được chiếu ở Mỹ, Pháp và Bỉ. Nó lập tức được một số ấn phẩm báo chí lớn nhất bấy giờ bình chọn là phim hay nhất năm 1957. Đầu năm 1958, trong mùa giải thưởng điện ảnh hành tinh, nó liên tục chiếm nhiều BAFTA, giải của Xứ sở sương mù, Quả cầu vàng và Oscar của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Trong ba loại giải đó, thế nào cũng có những hạng mục quan trọng nhất, như phim xuất sắc nhất, đạo diễn cừ khôi nhất, nam diễn viên chính gạo cội nhất. Riêng Oscar, nó được tặng tới 7 giải, mà cho tới giờ vẫn tỏ ra xác đáng và giữ nguyên giá trị. Cầu trên sông Kwai mau chóng trở thành một tác phẩm điện ảnh kinh điển. David Lean chủ yếu nhờ nó và Bác sĩ Jivago, 1965, một tác phẩm kinh điển khác của ông, mà lọt vào nhóm những nhà điện ảnh hàng đầu trong lịch sử nhân loại. Năm 2002, ông được xếp thứ 9 trong các đạo diễn lẫy lừng nhất của Lịch sử Nghệ thuật thứ bảy toàn cầu. Năm 1997, Cầu trên sông Kwaiđược Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vinh danh là phim giàu ý nghĩa thời sự bậc nhất. Năm 1998, nó đứng thứ 16 trong 100 bộ phim Mỹ hay nhất của mọi thời đại. Chín năm sau, vào 2007, khi một số kiệt tác mới được đưa vào nhóm 100 viên ngọc của Nghệ thuật thứ bảy Hoa Kỳ, nó vẫn còn ở vị trí 36. Bình chọn dưới góc độ nào, Cầu trên sông Kwai cũng nằm trong “Bảng vàng danh dự”. Ví dụ, năm 2001, nó đứng thứ 58 trong các phim đặc biệt hãi hùng của Điện ảnh hành tinh. Rồi năm 2006, nó chiếm vị trí 14 trong các phim vĩnh viễn gây phấn chấn nhất trong lòng khán giả…
Chuyện của Cầu trên sông Kwai của Pierre Boulle chỉ là một phần nghìn hoặc một phần triệu của bi kịch lịch sử của “Đường sắt tử thần”, tuyến đường dài 450 km, nối Rangoun, thủ đô của Myanmar và Bangkok, thủ đô Thái Lan, xuyên qua rừng rậm hầu như bao giờ cũng mưa to gió lớn. Năm 1941, quân Anh đã định làm con đường này, song bỏ cuộc vì khó khăn quá nhiều. Đầu năm 1942, chiếm được Singapoor rồi, phát xít Nhật nhất quyết làm bằng được con đường sắt ấy, để chống lại quân Anh và quân Trung quốc. Chừng 262.000 người được huy động cho việc xây dựng, gồm quân Nhật, tù binh Anh và dân châu á, trong đó có 62.000 tù binh, mà không dưới 13.000 người, trong tổng số 90.000 người, đã bỏ mạng vì kiệt sức, bom đạn, đói khát và bệnh tật. Hai năm lao động quá sức và máu xương đổ ra oan uổng của bấy nhiêu con người thực tế là vô bổ, vì, hiểu được tầm quan trọng của “Con đường máu rùng rợn”, ngay từ đầu, quân đồng minh Anh Mỹ đã liên tục dội bom xuống, vô hiệu hoá hoàn toàn tuyến đường. Gọi là khánh thành năm 1945, Đường sắt tử thần chỉ là chứng tích của một nỗi nhục nhã ê chề của phát xít Nhật. Cây cầu trên sông Kwai, “Yết hầu của Đường sắt tử thần”, đúng là đã được xây dựng, song năm 1945, đã bị bom đạn quân đồng minh phá huỷ. Sau khi Nhật đầu hàng, quân đồng minh buộc Nhật xây dựng lại, như một khoản bồi thường chiến tranh. Song một người Nhật trong số những hàng binh làm cầu đã cho nó nổ sập đúng vào ngày khánh thành. Pierre Boulle chưa bao giờ trả lời rằng ông có nắm được toàn bộ sự thật đó không? Chỉ biết, để thai nghén cuốn tiểu thuyết, ông từng bỏ công gặp gỡ nhiều người, tìm hiểu nhiều nguồn tư liệu. Hẳn ông tự lượng sức mình, không dám liều mạng cho một Những người khốn khổ, Chiến tranh và hoà bình, hoặc Sông Đông êm đềm mới? Vả chăng, thời đại cho những “ông khổng lồ” vừa nêu đã qua rồi…
Pierre Boulle đã “nghĩ ra” một câu chuyện thoạt tiên gây sửng sốt. Câu chuyện như sau: Quân Anh ở Myanmar đầu hàng quân Nhật. Đại tá Anh Nicholson tuân lệnh quy hàng của cấp trên ngay tức khắc. Quân Nhật buộc đạo quân đầu hàng xây dựng cầu Kwai, cả lính thường lẫn sĩ quan, không trừ ai cả. Nicholson dám chống lệnh quân Nhật, yêu cầu Saito, viên chỉ huy đạo quân chiến thắng, tôn trọng quy chế tù binh đã được ấn định trong Công ước Geneve, theo đó, sĩ quan được miễn. Bất chấp mọi nguy cơ đòn thù vì mình là tù binh, Nicholson không chịu nhượng bộ. Ông được quân lính ủng hộ. Saito không thể hãm hại ông, đành “thương lượng” và giao cho đội quân của Nicholson xây dựng cây cầu. Nicholson đã huy động mọi chiến sĩ dưới quyền, kể cả người ốm đau bệnh tật dốc sức thực hiện thật tốt và đúng hạn “nhiệm vụ mới”. ấy là vì danh dự quân nhân và danh dự con người. ấy còn để chứng minh người da trắng tài giỏi hơn người da vàng. Biết tin về cây cầu, quân Anh vẫn đang chiến đấu chống Nhật ở Calcutta, ấn Độ, tìm cách đưa người tới phá hoại nó. Tình cờ biết được âm mưu, Nicholson đã báo cho Saito hay!… Chiến tranh mà như vậy à? Không ai là kẻ thù của ai cả. Ngay người Anh với nhau, ai cũng muốn tỏ ra xứng đáng với vị trí của họ: Người thì hết mình xây dựng cây cầu thật vững thật hữu dụng; người thì phải làm sao phá nó kỳ được. Kẻ chiến thắng và người chiến bại dường như đều không đáng ghét. Cả hai đều đáng trọng. Đều đáng là bạn bè của nhau. Ngột thở sao nghịch lý chiến tranh, nghịch lý cõi đời ! Sự thật cơ bản của cõi người là vậy đấy: “Phó thường dân” nào suy cho cùng cũng muốn sống đúng là con người, cũng muốn tôn trọng nhân phẩm. “Phó thường dân” nào cũng muốn biết điều với đồng loại. Thế tại sao, họ cứ phải xung đột với nhau, chém giết nhau, coi nhau như những con vật tranh ăn chí tử…?
Phi lý trần gian này có lẽ là một phát hiện của Pierre Boulle. Nó đã được thừa nhận công khai ít nhất bởi một nhà biên kịch Hoa Kỳ. Người ấy là Carl Foreman. Được đạo diễn Mỹ Alexander Korda đề nghị cung cấp một kịch bản về Thế chiến II, ông bèn dựa vào cuốn Cầu trên sông Kwai của Pierre Boulle mà ông vừa đọc. Do bị liệt vào “danh sách đen những người thân Cộng”, ông phải rời Mỹ sang Xứ sở sương mù. Kịch bản Cầu trên sông Kwaiđược viết ở đây. Nhưng A.Korda không chấp nhận, vì cho rằng nhân vật chính Nicholson quá phức tạp. Carl Foreman đem kịch bản ấy tới Sam Spiegel (1901-1985), một trong những nhà sản xuất phim sâu sắc nhất không chỉ của Hoa Kỳ. Sam Spiegel rất thích nó, và một mặt gửi cho David Lean một bản sách Cầu trên sông Kwai, mặt khác sang Paris ngay để xin phép được đưa lên màn bạc câu chuyện “Đường sắt tử thần”, một góc khuất rùng rợn của Đại chiến II ở châu á. Pierre Boulle và nhà xuất bản Julliard đều ngỡ ngàng! Trong lịch sử Nghệ thuật thứ bảy, có lẽ không có trường hợp nào, như Cầu trên sông Kwai, hình thành và phát huy hiệu quả cao nhất một sự “hiệp đồng tác chiến” vô tiền khoáng hậu. David Lean thấy kịch bản của Carl Foreman hãi hùng quá, nên buộc Sam Spiegel cho ông được chỉnh sửa nó. Nhà sản xuất thực tâm không muốn ai chia sẻ công việc của mình, nhưng cũng phải chấp nhận. Người của David Lean do thế, chỉ còn là một phụ tá riêng của nhà đạo diễn! Trong thời gian David Lean sang Sri Lanca chuẩn bị trường quay, Sam Spiegel mời một nhà viết kịch bản quen thuộc của ông vào nhóm biên kịch Cầu trên sông Kwai để nâng cao bản thảo chuyện phim đã có. David Lean không thích nhà biên kịch mới, nên ông ta đành tự rút lui. Sam Spiegel bèn mời Michael Wilson thế chỗ. Michael Wilson, dù thuộc nhóm thân Cộng bị kỳ thị, vẫn toàn tâm toàn ý cho kịch bản được hoàn chỉnh nhất có thể.
Điểm nút của khâu kịch bản Cầu trên sông Kwai là đòi hỏi của Columbia, hãng phát hành bộ phim, rằng phim nhất thiết phải có một nhân vật người Mỹ. Thế là dù tiểu thuyết của Pierre Boulle và kịch bản đầu tiên không có người Mỹ nào, Carl Foreman đã mau chóng sáng tạo đội biệt động Hoa Kỳ và nhân vật Shears, một lính Mỹ trốn thoát trại tù binh, và bị quân đồng minh phái trở lại để phá cầu Kwai. ý tưởng của Columbia vô tình khiến cho tầm vóc của phim Cầu trên sông Kwai được nhân lên rất nhiều. Xin ghi nhận, một, Pierre Boulle cứ tiếc mãi rằng mình không suy ngẫm được ý tưởng của Columbia, hai, sự nhạy bén và độ sâu cảm nhận của Carl Foreman đối với khám phá về chiến tranh nói riêng và về xã hội loài người nói chung của Pierre Boulle, người đứng lại trong văn học Pháp như một cây bút đáng trân trọng, với chỉ hai tác phẩm được ghi nhận, Cầu trên sông Kwai, 1952 và Hành tinh khỉ, 1965. Trong quá trình hợp tác để nâng cao tính tư tưởng và hiệu ứng cảm xúc của kịch bản, Carl Foreman và David Lean thường không ai chịu ai về một số điểm. Song hai người biết giữ cho công việc không già néo đứt giây, Sam Spiegel biết hoà dịu, cho nên về sau nhà sản xuất thường tự hào mà rằng “Lạ thay, chính những bất hoà hay lục đục đó đã làm cho kịch bản đạt tới độ chín thuyết phục nhất”. Cả đoàn làm phim Cầu trên sông Kwai không ai bảo ai đều không coi cái tôi mà coi chất lượng tác phẩm là cốt tử. Tư tưởng của Pierre Boulle được cả đoàn thực thi mỹ mãn. Tư tưởng này điều hành, cố kết mọi thành viên của Đoàn trong suốt quá trình làm việc. Giá trị “vàng mười” của phim Cầu trên sông Kwai là kết quả viên mãn của sự chung sức chung lòng đầy nhân bản của một tập thể biết lấy lợi ích của lao động chung, của khán giả làm mục tiêu tối thượng. Chưa có phim nào mà tác giả kịch bản gồm tới năm người! Với thời gian, giới chuyên môn và khán giả sành điệu khắp nơi trên thế giới, mỗi khi xem hay nhớ về Cầu trên sông Kwai, đều cảm động một cánh kiêu hãnh và lạc quan về ý chí chung, dù không ai nói ra, của năm con người đó. ý chí ấy là làm sao chuyển tải cho được tiếng lòng sâu thẳm nhất của hàng vạn dân thường vô danh bị cuốn vào cuộc chiến tranh đẫm máu phi lý, bị cuốn đến rồi bỏ mạng trong phẫn uất, khiếp sợ, và đau đớn ở con “Đường sắt tử thần” ghê rợn và hung tàn!…
Có thể dẫn ra rất nhiều chuyện về sự hợp tác tối ưu vì mục tiêu chung. Bên cạnh những chuyện vừa kể, người ta thường nhắc tới sự ăn ý giữa đạo diễn và nhà sản xuất, và chỉ đạo quyết đoán của David Lean. Ví dụ, một người gợi ý rằng nên có một nhân vật nữ, để không khí phim bớt ngột ngạt. Nhà sản xuất vui vẻ chấp thuận ngay rồi đưa vào phim những nữ cứu thương người bản địa. Để tăng tính chân thực cho phim, mọi người bàn bạc, và, không quản tốn kém, Sam Spiegel để David Lean mời vào vai binh lính và quần chúng công dân của 37 nước. Nhà sản xuất cử người thăm dò, định quay phim ở Tiệp Khắc, rồi ở các trường quay Hollyood, cuối cùng ở Sri Lanka, vì cảnh vật ở đây mới gợi lên cảnh vật thật. Cây cầu đóng vai trò cực kỳ quan trọng, dù nó chỉ là bài trí. Cây cầu được xây dựng đúng kích cỡ cầu thật. Lại phải xây mấy đập chắn nước bên trên để có thể quay những cảnh tối cần. Rồi dùng 40 con voi chuyên chở 1.500 cây đến trồng hai bên bờ sông gần cây cầu bất hạnh. Chi phí dựng cầu Kwai, một trong những cảnh trí điện ảnh hoành tráng nhất trong lịch sử nghệ thuật, lên tới nửa triệu USD, con số đáng nể thời bấy giờ. Bộ quốc phòng Anh thường tài trợ những phim nói về quân đội Anh trong Đại chiến II, song với Cầu trên sông Kwai, thì từ chối. Thế nhưng, nguyên mẫu của nhân vật Nicholson, không hề hợp tác với quân Nhật, nhất định không khởi kiện Đoàn làm phim, dù được thúc ép khá nhiều. Một viên tướng Xứ sở sương mù, đồng ý làm cố vấn quân sự cho phim, đã cho nhiều chỉ dẫn mà đoàn làm phim rất cần, dù thường khúc mắc với nhà sản xuất và đạo diễn. Đoàn làm phim gặp nhiều tai nạn dưới nước và trên cạn, nhiều người bị thương, một trợ lý đạo diễn mất mạng. Cầu Kwai cũng suýt bị thiêu rụi. Số là một đêm khuya, một xe chở xăng bất ngờ bốc cháy, và chạy thẳng về phía cây cầu. May nhóm lính bảo vệ cầu liều mạng, xông ra dùng sào dài, đổi hướng được chiếc xe đang ngùn ngụt lửa. Nhân cách của đạo diễn David Lean quả là đáng nể. Ông ngự xe con, chạy loanh quanh 250 cây số đường xấu ở Sri Lanka, để chộp cho được một cảnh mặt trời lặn mà ông mong muốn. Cảnh giác cao độ, khi chuyển phim về làm hậu kỳ ở Anh, ông cho sao thành bốn bản, mỗi bản đi theo một đường. Lúc biết có thể gặp rắc rối, ảnh hưởng tới số phận một kiệt tác, ông không về Anh nữa, mà làm hậu kỳ ở Paris. Buối chiếu ra mắt báo giới, dù khách mới lèo tèo, ông vẫn cho đóng cửa rạp, và cho phát phim đúng giờ quy định…
(Theo nhiều tài liệu nước ngoài)-Nguồn: Văn Nghệ