VanVN.Net – “Tiểu thuyết “Nước mắt” của Đào Thắng nói về cuộc chiến đấu với Mỹ ngay trên mảnh đất miền Bắc XHCN – cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên đất khu Bốn – nơi cửa ngõ tiếp viện cho chiến trường miền Nam… Ngòi bút của Đào Thắng không ngại ngùng miêu tả cái sự thật trần trụi, gớm ghiếc mà chiến tranh dội lên đầu những người lính pháo. Và họ hy sinh, hy sinh hết lớp này đến lớp khác; có cả những tiểu đoàn, trung đoàn pháo bị xóa sổ… Giữa những ngày này – những ngày nhớ về cuộc chiến đấu giành lại độc lập cho Tổ quốc, đọc lại “Nước mắt” của nhà văn Đào Thắng, chúng ta càng cảm động, càng nhớ về những mất mát hy sinh và càng hiểu thêm ý nghĩa của ngày chiến thắng.”– Nhà thơ Phạm Hồ Thu viết. VanVN.Net xin trích giới thiệu 5 chương đầu trong tiểu thuyết “Nước mắt” của nhà văn Đào Thắng.

Nhà văn Đào Thắng

Chương một

Cách đây đã hai mươi năm. Chuyện xảy ra như đã cũ lắm rồi. Tôi đi tìm cái cũ để rao bán cho con người ư? Hay chỉ ghi lại cái gì tinh chất, được sàng lọc qua thời gian và trong trí nhớ, để độc giả cùng sống lại, một thời chiến tranh chúng tôi phải chịu đựng, thời chiến tranh mà ngoại bang muốn đưa dân tộc chúng tôi trở về thời kỳ đồ đá.

Tôi phải lục tìm những câu chuyện đã xảy ra, một công việc quá nặng nhọc, có thể trái ý mình, ngược lại với ý của một số người nhưng không thể khác được. Phải lục lọi, bới ra từ tro tàn, từ trong khói đen của dĩ vãng, từ sự ẩn giấu trong lòng người, mà con người đã rải lên lớp tro giấu kín nó đi, một sự lấp liếm đầy đau khổ và dằn vặt. Thế là, tôi đã tự bộc lộ nơi ẩn nấp, để lộ chân tướng của chính mình, và, các bạn ạ, câu chuyện bắt đầu rồi đấy…

Đoàn xe Gát 83 kéo pháo nối nhau thành hàng dài, đứng nép vào hàng phi lao cụt ngọn ven con đường ùn lên những lớp cát khô. Đôi giày vải cao cổ của người lính nào đó đập mạnh, phụt lên một lớp bụi cát trắng xác, bay mù mịt. Lưng áo bờ-lu-lông lính bạc phếch cúi xuống tấm bạt phủ pháo mầu xanh lá cây, nhìn xa như bức tượng bằng đất quét vôi. Khẩu pháo được vít vào giá an toàn, ở tư thế hành quân. Tốp lính trẻ đã khoác áo pháo làm cho lưng khẩu 37 ly ụ lên, vươn ra cái vòi vải rất dài.

Mặt trời đỏ ối trôi bập bềnh trên rặng cây khấp khểnh cằn cỗi, lá xù xòa, thân cành xơ cứng, trắng vết mảnh đạn, vết bom bi xoáy tròn ngọt sâu trong thớ gỗ và không ngừng tuôn nắng xuống mặt cát. Một con chim mái đang ấp trứng dưới gốc bụi cây xương rồng gai đâm tua tủa. Con chim có cái mỏ dài lập bập ,bộ lông dày , lốm đốm trắng, nó trễ hai cánh, chạm vào mặt cát, cái mỏ dài gục xuống ngậm một ngọn cỏ đã héo táp, cố hút lấy chút hơi ẩm còn sót lại. Con chim cũng đang thỉu đi vì nắng nóng ghê gớm.

Bỗng dưng biển quẫy cựa, trở mình lặng lẽ, tiếng sóng thoảng như hơi thở con trẻ, dào về phía bờ cát. Ông trời vừa qua một thoáng chóng mặt. Giống như có một bàn tay mát lành xoa nhẹ lên cái vòm xanh cao hun hút úp chụp lên đất và biển, khiến nó tươi hớn lên. Gió nồm hây hẩy. Con người vừa được chứng kiến một phép lạ của tạo hóa, cả vùng đất bị nung nóng hầm hập, gió tây nam thốc đến làm cây cối mềm oặt, lá gục rũ xuống. Bây giờ nhìn cây lá tươi non, hàng phi lao cất lên tiếng hát vi vút, đứng nơi giao hòa giữa biển và trời, tiếng gọi muôn thuở của sự sống thật duyên dáng, mềm mại, mát mẻ và tươi tắn lạ lùng.

Con chim mái bừng tỉnh, đạp đôi chân khô gầy xuống cát, rũ mạnh bộ lông xơ xác và nghiêng cái đầu nhỏ chớp chớp mắt nhìn mấy quả trứng vỏ lốm đốm xám, sắp đến kỳ tách vỏ. Trong đôi mắt đau đáu khô khao vì gió cát, bỗng bừng lên cái ánh vui mừng của kẻ sắp làm mẹ. Nó ngáp rộng miệng, yết hầu phập phồng, thở những hơi dài khoan khoái. Nó nhằn nhằn cỏ héo, hít mạnh cái bã cỏ, một chút nước chỉ nó mới cảm biết được, ngấm vào tấm thân gầy khô.

Đang xòe hết đôi cánh ủ kín ổ trứng, con chim bỗng nhiên nghển đầu, như có một tín hiệu lạ vừa nhập vào người, làm cho sức lực bừng dậy, nó đập cánh bay vút lên qua đám xương rồng cát. Một bên cánh bị gai cào, xước da chảy máu, con chim không hề hay biết. Một bên cánh xõa ra, nó vẫn vút lên cao, treo lơ lửng bên trên một khẩu pháo và kêu lên thảng thốt.

Nhìn con chim vỗ tít đôi cánh không biết mệt và kêu lên không ngớt, tốp lính biết có người lạ tới trận địa, hoặc có một sự gì lạ sắp xảy ra. Nó là một con chim nhạy cảm, người bạn quen thân của trận địa pháo 37 ly này. Tốp lính còn coi nó như một giàn ra-đa sống chứa đựng sự bí ẩn có màu sắc siêu nhiên.

Đúng là sự lạ như con chim mẹ mách bảo. Một cô gái đang hộc tốc đạp xe từ phía xa lao tới. Cô gái đầu không đội nón, tóc xổ tung bay lơ thơ hai bên vai. Cô mặc chiếc áo sơ mi màu xanh lá cây, hồi đó gọi là áo “Phòng không”, tà áo bị hất ngược lên, đôi chân cô guồng cuống cuồng, liều lĩnh. Chiếc xe lao sầm vào “thằng người gù” của khẩu đột một. Cậu Viên, pháo thủ số hai đang ngồi trực, giật mình kêu:

– Cô này, điên à? Định hy sinh cái xe đạp hay sao? Đi đâu mà húc bừa vào xe kéo pháo như thế?

Cô gái đứng sát vào bánh xe, chộp lấy bàn tay Viên đang nắm chặt tay tầm khẩu pháo. Bàn tay cô nóng rừng rực, nhớp nháp mồ hôi và bụi cát. Cô đứng thở, miệng cố không mở to, mồ hôi đọng thành giọt lớn trên mặt, ướt bết mớ tóc hai bên thái dương và ướt đẫm cả ngực áo. Cô đã định nói mấy lần mà chưa thể cất lời được.

Đại đội trưởng Lộc ngồi ở xe đầu ngó cổ ra ngoài quát xuống xe thứ hai, xe thứ hai truyền khẩu lệnh xuống xe thứ ba, rồi xe thứ ba truyền lệnh xuống xe sau ,cứ thế được truyền đi miệng lệnh hành quân của trung đoàn. Đoàn xe kéo pháo nổ máy. Tiếng động cơ rền rĩ. Cô gái vẫn không chịu buông tay Viên. Anh chàng cuống cuồng miệng ú ớ định gọi ai. Cô gái hít đầy hơi vào ngực, mặt tái xám, đầu ngặt ra sau, thu hết sức, thốt lên:

– Anh ơi!

Hai tiếng “anh ơi” phào ra miệng người con gái sắp ngất vụt xéo qua người Viên. Chiếc xe đang kéo khẩu pháo, lôi theo cô gái, bàn chân tuột mất dép, miết xềnh xệch trên mặt đường. Viên nhổm người quát lớn.

– Dừng lại! Thằng cha Mịch tử tiệt, dừng lại!

Chiếc Gát 63 phanh kít lại, khẩu pháo đẩy cần lái xô mạnh, nghiến vào móc kéo ken két. Viên nhảy phốc ra khỏi cái ghế sắt nóng bỏng, đập mạnh hai bàn chân không giày xuống mặt cát. Cậu ta nâng phốc chiếc xe đạp, đặt xuống vệ cỏ, trong khi đó cô gái vẫn lẵng nhẵng bám chặt lấy tay chàng pháo thủ to khỏe, đẹp trai có tiếng.

Đại đội trưởng Lộc đẩy cửa xe đánh sầm, lệnh khệnh bước xuống, lừ lừ đi đến chỗ chàng trai và cô gái. Anh hỏi gằn trong họng:

– Cô làm sao mà tru lên thế? Tôi lại phải gánh cái của nợ gì thế này, hở?

Lộc nhe răng, lộ ra cả chiếc răng bọc vàng ở khóe miệng. Anh vẫn có thói quen khi tức giận hai hàm răng nhe hết cả ra và một âm thanh lạ tai cứ gừ gừ ở trong cổ họng. Lộc giẫm đôi giày đen kêu to hơn mức nó phải kêu, đi quanh, gầm ghè. Vừa xuất phát đã có đàn bà chặn đường, thật xúi quẩy! Sao? Cái thằng tử tiệt này làm gì nó? Mà cái con chết rấp ấy làm sao lại níu lấy thằng cha như cái bị thịt thế kia?

Viên đứng đờ mặt như chính cậu ta chứ không phải cô gái gây ra lỗi lầm cho đoàn xe vừa lăn bánh đã phải dừng. Lộc nhìn chằm chằm vào mặt, xuống ngực, tới mông, rồi cặp đùi cô gái. Cô có bộ ngực cao rất đẹp tuy đã hơi căng ra không bình thường sau lần áo. Cái lưng dài, đẫy đà, hông nhìn nghiêng hơi xệ xuống. Ái chà, không phải con gái. Một mụ đàn bà! Một mụ đàn bà đã ăn sống, nuốt tươi một thằng hoặc nhiều thằng đàn ông. Lộc đi quanh, dáng thấp nhỏ choi choi, đôi mắt nhìn xói vào cô gái như cách đang đánh giá một con vật sắp mua. Anh vẫn khoe răng ông bố trước kia làm lái trâu bò nên đã truyền cho anh cái khả năng đặc biệt tinh ranh, lọc lõi khi phân loại, định giá con đực, con cái. Thường khi trực ban ở sở chỉ huy đứng giữa các cậu trinh sát, thông tin mặt non choẹt, má phinh phính lông tơ, anh, bằng cái giọng của một tay bợm gái lão luyện răn dạy rằng, cái tài của anh đàn ông là khi nhìn một cô gái trinh bạch phải nhận ra ngay, nhận ra bằng sự tinh nhậy, từng trải, tinh quái, thèm khát của giống đực. Phải nhớ rằng, ở người con gái còn trinh bạch cái gì trên người cũng được nâng niu và sửa sang luôn. Tuyệt nhiên không phải chỉ là hàm răng trắng muốt, mái tóc huyền giữ mượt óng, thơm tho, mà là tất cả. Tất cả là một khối ngọc quý còn nguyên vẹn, một sự tinh khiết tuyệt hảo luôn luôn bật ra cái sức phản kháng và giữ gìn. Một cô gái trinh bạch có thể run lên trước cơn gió thổi xấc xược, thô lỗ qua bộ ngực non trẻ và rụt phắt tay lại như bị bỏng khi chạm làn da mát rượi, nõn nà của mình vào tay một người đàn ông. Mỗi lần khoe như thế anh thường kể một câu chuyện trần tục với những động tác của con bò đực trông thấy một con bò cái đang gặm cỏ bên đường, khi anh riết mũi chú chàng kéo đi cho kịp ông cụ đang bước phăn phắt ra khỏi cái chợ mà ở đó ai cũng lọc lõi, tinh ma đến phát khiếp lên được.

Lộc vẫn đi quanh Viên và cô gái, cổ họng gầm gừ. Anh gườm gườm đôi mắt, xoạc mạnh cẳng cho chiếc giày cao cổ sát vào chân cô gái, đôi mắt cạu lại:

– Duyên cớ làm sao mà cô giữ cậu ấy? Sao? Cô thất thân với nó rồi à?

– Trời ơi! Sao anh ác thế?

Cô gắng gượng trút ra từng chữ rời rạc. Đôi mắt thoáng bừng lên giận dữ song sắc mặt lại nhợt nhạt, hơi thở đứt quãng, thều thào, cổ lả xuống tay Viên. Người pháo thủ trẻ hai tay lóng ngóng đỡ lưng cô gái. Nhiều pháo thủ ở các khẩu đội khác cùng nhảy ào qua thành xe, xúm lại nhìn cô ái ngại. Một cậu quát tướng lên:

– Thằng Viên, sao mày lớ ngớ thế? Đặt người ta ngồi xuống đường nhanh lên! Cô ấy ngất rồi kìa!

Cô gái vẫn gắng gượng nghển nhìn vào mặt Lộc. Đôi mắt anh vẫn lừ lừ rọi khắp người cô. Cô gái khẽ rên rỉ:

– Thủ trưởng ơi, có anh Thái nhà em ở đây không?

Tốp lính trẻ quay nhìn cả vào Lộc, không ai dám thay anh trả lời cô.

Viên đã tìm cách đặt cô xuống vệ đường. Cô gái cúi đầu, úp mặt vào hai đầu gối khóc rưng rức. Vẻ liều lĩnh, táo tợn đã biến mất, trông cô như một đứa trẻ lạc lõng, bơ vơ. Cô khóc vì bị xúc phạm, vì tủi hổ và thất vọng. Đôi vai ướt đẫm mồ hôi rung lên từng đợt. Thỉnh thoảng cô ngẩng nhìn tốp lính đang ái ngại nhìn cô, và càng khóc to hơn, răng cắn sâu vào môi cho nước mắt tràn qua miệng, thành dòng trên cổ. Lộc nháy đôi mắt dẹt có đuôi dài nhọn hoắt làm nó tụt sâu vào hai mí như có vành.

– Thái nào? Cô hỏi Thái nào? – Anh hỏi có phần mềm mỏng hơn, vì hiểu ra không phải cô đến để bắt vạ đơn vị.

– Dạ, em hỏi anh Thái ở “ xê tám” mới về cưới vợ lên ấy ạ!

– Thôi chết rồi – Chiến sĩ trinh sát Đăng gạt mạnh mấy phảo thủ đứng cạnh Lộc ra xa – Vợ anh Thái A trưởng chỉ huy của ta, chứ còn Thái nào ạ!

Nét mặt Lộc sa sầm, giọng lạnh tanh:

– Ờ, nếu quả đúng như vậy cũng phải hỏi rõ đầu đuôi, cho có ngọn ngành chứ. – Anh quay đi, gằn từng tiếng: – Gọi ngay cậu Thái đến gặp tôi.

Đại đội trưởng bước thẳng về xe đầu, hai gờ vai mỏng rung lên và hơi lệch sang một bên, bàn tay nắm chặt. Đăng biết Lộc đang rất giận giữ vì vợ Thái đường đột xuất hiện ngay lúc đơn vị hành quân nhận nhiệm vụ mới, mọi người vừa được nói công khai vừa thì thầm với nhau là đến một nơi rất khốc liệt. Chắc rằng “ông ấy” đang nghĩ ra những lời cay độc để “quạt” anh Thái một mẻ cho. Mặc dù xác ông ấy, Đăng gọi to:

– Anh Thái ơi, chị Hà đến!

Đăng chạy hớt hải về chiếc xe đầu vì không thấy tiếng Thái thưa. Có tiếng giữ chăn phùm phụp và tiếng các hòm đạn va vào nhau lịch kịch. Mấy người lính lôi ra một thân hình cao to, mềm nhũn, ngủ mê mệt. Một tiếng quát như lệnh vỡ:

– Sở vào mũi xem nó có còn thở không, hay hòm đạn đè nó chết rồi.

Hà lập cập chạy lại chiếc xe đầu. Chị vấp ngã nhưng thoắt cái chị đã sáp tới bên chiếc xe.

– Cấu vào chân nó xem nào!

– Nó co chân các cậu ạ. A, lại còn đạp tao hả? Vợ đến mà lão thần ngủ không chịu buông tha nó ra.

– Trời ơi, con giời ngủ gì mà khiếp thế không biết?

Hà nghển đầu lên thùng xe thở hổn hển, mếu máo:

– Anh…Thái…ơi!

Một cậu đứng dưới đường giục với lên:

– Nắm vào hạ bộ bóp mạnh một cái cho nó tỉnh. Bóp! Bóp nữa!!!

Thái bật người ngồi dậy, hai mắt vẫn nhắm tịt.

Cậu dưới đường lại giục:

– Đấm cho nó mấy quả. Đấm thật mạnh. Đấm nữa! Cầm cái của quý của nó vặn thật mạnh.

Hà đu hẳn người lên mếu máo:

– Các anh ơi, em lạy các anh trăm lạy. Các anh đừng đánh nhà em nữa!

* * *

Thái ngồi sát bên vợ trên vệ cỏ, hai bàn chân sục sâu vào lớp cát khô. Cát vẫn còn nóng rát, hai bàn chân anh lính dũi như hai cái dầm ngoáy sâu, giấu đi cả bàn chân, cả cổ chân cóc cáy, bẩn thỉu. Không những chân mà cả tay anh ta cũng dính đầy đất đỏ. Thái vừa mới đi tiền trạm về lại vội vàng lao ngay vào dỡ lán, bới hầm, rồi xếp tất cả cái đống ngổn ngang ấy lên xe cùng với anh em trong tiểu đội chỉ huy. Suốt nửa tháng nay Thái cùng tổ tiền trạm của đơn vị bứt ra khỏi anh em băng lên trước, vừa phải nhanh, vừa tỉ mỉ, khoa học, sục tìm nơi giấu pháo, nơi nấu ăn, trên đường đơn vị sẽ đi qua. Mỗi đêm tổ chỉ dừng lại nghỉ hai tiếng đồng hồ. Thời gian trong ngày còn lại đều ở trên xe, thậm chí đi tiểu cũng ở trên xe, đứng xạng cẳng, vạch quần tè ra hai bên đường. Con đường xuyên xen giữa miền rừng phía Tây ban đêm nườm nượp xe nhưng ban ngày vắng đến rợn người. Vắng đến nỗi há sẵn mồm xem có ai gọi một tiếng cho đỡ nhớ người mà há mỏi hàm cũng chẳng thấy bóng ai. Chiếc Gát 63 cứ lồng lên mà chạy như nó đã bị điên, quăng quật trên mặt đường đầy ổ gà. Chậm trễ một chút có khi phải ngồi đợi ở cái bến phà con ba bốn đêm. Khi tổ của Thái trở về trông ai cũng như tướng quân của Tề Thiên Đại Thánh vừa ở động ra, tóc đỏ, râu đỏ, mi mắt cũng nặng trĩu bụi đỏ. Quần áo thì bết lại cóc cáy, bụi đỏ trộn lẫn mồ hôi, bốc ra thứ mùi chua khăm khẳm. Họ chưa kịp hít thở hơi biển trong lành cho thư giãn lá phổi, đơn vị lại nhận được điện khẩn: bỏ hết các thứ cồng kềnh lại, hành quân gấp.

Xếp xe xong Thái chỉ định nằm mấy phút cho giãn xương cốt, chưa kịp dặn Đăng gọi dậy nếu anh ngủ quên, lưng chưa kịp cảm giác tấm bạt nóng rẫy, hai mắt đã nhắm tịt lại, không thể nào mở ra được nữa…

Hà tì ngực vào một bên đùi chồng, chị cảm thấy sự rắn chắc của cơ bắp đang truyền sức lực sang người mình. Mùi mồ hôi chua khẳm phả vào miệng, vào mũi ngàn ngạt. Tuy thế Hà không thấy thứ mùi chua này xa lạ hay ghê ghê cái sự bẩn, trái lại chị chấp nhận nó như một cái gì thật gần gũi, và chị cắn khẽ vào lớp vải dày cáu bẩn, hít lấy hơi chồng. Rồi chị ngả hẳn người, gần như nằm nghiêng trên đùi anh. Hà thì thào:

– Em sợ quá, sợ không gặp được anh. Sao anh ngủ say như chết ấy thế? Nghe các anh ấy đánh anh, em cứ bủn rủn cả người.

Thái cười nhẹ:

– Chúng nó phủi bụi, ăn thua gì. Đứa nào cũng vờ làm quá cho em sợ đấy thôi.

Anh vụng về đặt bàn tay dày cộm một lớp chai ráp sì lên ngực vợ. Chị lần sờ, ngạc nhiên thấy từng ngón tay anh xù xì, biến dạng vì cầm xẻng, cuốc chim, đào ngoáy suốt ngày này sang ngày khác như chuột chũi. Im lặng một lát, chị quờ một tay kia, rồi đặt cả hai ban tay chồng lên ngực mình.

Thái rút khẽ tay ra, luồn trong lần áo mỏng, thấy vợ không mặc áo nịt, hai đầu vú cương cứng, và cặp vú mới đây thôi nhỏ gọn, rắn đanh, giờ to lên khá nhiều. Thái vội hỏi:

– Em có chửa phải không?

Thấy Hà không trả lời, anh hỏi lại bằng giọng hấp tấp hơn:

– Em có mang sao không báo cho anh biết?

Chị ứa nước mắt:

– Anh cứ im như thóc thế, thư không thèm gửi không thèm nhắn ai lấy nửa câu , em biết đâu mà báo với chả cáo.

Chị lật người, ôm riết ngang lưng, cắn mạnh vào ngực áo anh. Thái kéo vạt áo xuống, ôm chặt vợ, rồi bế hẳn chị vào lòng. Anh luồn bàn tay, lần quanh lưng, thấy chị đã hơi đẫy ra.

Trời tối hẳn từ khi nào cả hai người đều không rõ nữa. Hàng phi lao réo lên u ú, cây nào cũng bị mảnh bom phạt cụt ngọn, cành con mọc túa ra um xùm. Sóng biển ầm ào, có con sóng lớn nào đó đổ xoài lên bờ cát nghe hút như một tiếng thở dài. Bầu trời nhạt nhòa muôn vì sao dạt trôi, tan tác, gió cuốn những đám mây xác xơ, ánh lân tinh sáng hắt lên trên đầu những con sóng bạc khi mờ khi rõ, một con còng gió chưa tìm thấy hang chạy cuống quýt trong cơn gió tạt. Tiếng biển thẳm sâu trĩu nặng. Hơi biển mặn mòi làm cả hai vợ chồng đều khó thở. Thái ôm ghì lấy vợ, lòng rờn rợn dõi theo ngọn gió lướt qua mặt đường, ném từng nắm cát vào chiếc xe đạp làm sắt thép bật kêu khe khẽ như tiếng người rên.

Anh cũng không nhớ rõ tốp pháo thủ vây quanh hai người tản về các xe từ lúc nào. Đoạn đường ồn ào, người đi, người chạy, lố nhố, bây giờ im phắc. Sự im lặng giống như có người chỉ huy làm Thái đâm nghi ngờ, anh ngoái nhìn đằng trước, đằng sau, nhìn ra hai bên, người thấy gai gai, sờ sợ. Một sự im lặng cố gắng nén lại và có phần giả tạo. Một lúc sau có anh lính già nào đó không nén nổi, buột ra tiếng thở dài não lòng, làm cả đoàn quân xao động, tuy vẫn là sự xao động của im lặng. Ở trên thùng chiếc xe Gát gần hai vợ chồng nhất, cậu Viên như vờ vui đập tay lên thùng xe làm nhịp bõng dưng ư ử hát bài gì không ai nghe rõ lời. Nhưng tiếng hát của cậu ta dừng đứ ngay lại. Chắc có tay nào véo cho cậu ta một cái, nên sau đó Thái nghe tiếng đấm nhau. Sau đó lại im lặng. Một cậu nào đó liều bật diêm hút thuốc lào. Có tiếng quát khẽ. Lửa tắt phụt. Tiếng điếu cày bật kêu lóc xóc. Tiếng điếu xa hút trong đêm sâu lặng tờ. Trong sự im lặng bất đắc dĩ, chỉ có biển ở ngoài bờ cát ầm ĩ sôi réo.

Thái ngồi lặng lẽ, đôi mắt mở to, nhìn đăm đắm vào mặt vợ. Qua ánh pháo sáng từ phía xa rọi tới, đôi mắt người phụ nữ như cháy loáng lên từng đợt, ánh lên như sóng những tia sáng bối rối, và hoảng sợ. Người chị cứ run bắn lên, không ghìm được và anh hôn lặng lẽ lên đôi môi ướt mọng, mấp máy, chỉ chực khóc. Chị không thấy ngượng, không còn xấu hổ nữa, ngón tay lần tìm cởi cúc áo chồng, hất tung hai tà áo ra, rúc mặt vào bộ ngực đầy, hít lấy mùi da thịt chồng, cái hơi mằn mặn và dịu ngọt nuốt vào làm người đàn bà ấy rạo rực, chị tận hưởng chưa được bao nhiêu. Đến khi Thái đậy vạt áo phủ kín mặt làm ngột thở thì chị bỗng nhiên thấy mình liều lĩnh đến ghê gớm. Chị quờ hai tay kéo đầu anh áp vào ngực nghe trái tim mình đang đập rối loạn. Rồi bàn tay mềm mại bỗng rắn chắc, bắt các ngón tay anh xòe ra, đặt lên cái bụng đã tròn lùm lùm lên trong lần vải “phíp” mỏng. Bàn tay như có ma thuật bắt Thái vuốt dọc cặp đùi dài chắc lẳn của chị. Thái ngạc nhiên hỏi vợ:

– Hà, nghe anh hỏi nhé: em không xấu hổ à?

– Em lặn lội đi đường hàng trăm cây số đến gặp anh. Xấu hổ là cái gì?

– Này, này, các anh ấy đang cười kia kìa!

– Ai cơ?

– Các anh lính pháo hay khịa chuyện, có một chúng nó tố lên gấp mười đấy…

– Có lẽ họ chưa hiểu thế nào là vợ lính, là đàn bà chăng?

– Ít người biết, còn nhiều người chưa biết chứ.

– Thảo nào cái anh bạn lúc nãy dìu đỡ em tay chân cứ lóng nga, lóng ngóng.

– Ôi dào, lóng ngóng gì nó, thằng ấy trẻ tuổi, đẹp trai, hát hay đến cỏ cây cũng phải mê, nhiều cô chết mệt vì nó đấy.

– Thế sao anh ấy run thế nhỉ, cứ như lần đầu chạm tay vào phụ nữ.

– Vì nó biết em là vợ anh. Vợ một người lính thì người lính khác phải biết trọng chứ.

– Anh thì chúa là hay đề cao các anh lính. Thế tại sao người ta nói văn mình vợ người.

– Ô hay, em hỏi như trẻ con ấy thế, anh cắn vào má vợ một cái rõ đau. – Đúng đấy, nhưng cổ nhân đúc kết điều ấy để dành cho kẻ sinh ra để tự thưởng thức cái đời sống của mình, sống dửng mỡ và phè phỡn. Những kẻ biết mình sống ba chục năm, hai chục năm hoặc mươi mười lăm năm nữa. Còn người lính thì bây giờ đang sống, lát nữa có thể chết. Lúc này nhìn thấy ánh mắt, nụ cười của nhau, ôm chầm lấy nhau, nhưng chốc nữa có thể nhìn thấy máu phun ra, cánh tay ấy đã nát bét, thân người bị mảnh bom chém lìa, nhìn thấy tim óc bạn phơi ra ngoài. Vì thế đối với đồng đội đang sống lại như đối với người có thể chết. đã chết một phần, hoặc có khi là nhất định sẽ chết. Thế nên, rốt cuộc những người lính quý nhau, thương nhau, cùng chịu đựng và chia sẻ mọi thứ trên đời. Có thể nói trên đời này không tình thương nào sâu nặng một cách đau đớn như tình thương giữa những người lính.

– Những người lính và vợ lính nữa chứ lị.

– Ừ, vợ lính nữa em ạ!

Trời tối mịt mùng. Gió bỗng mạnh lên và thổi hung hãn. Biển gầm gào, những con sóng lớn gầm thét đổ vào bờ cát. Biển sôi sục, ở sâu trong lòng nó, biển như cố ghìm lại sự phá hủy muôn đời. Biển giãy giụa.

Thái xoay hẳn người che cho cát khỏi bắn vào mặt và vào người vợ. Gió thốc tung lưng áo Hà làm tà áo kêu lên lật phật. Anh lần tay kéo tà áo xuống giữ chặt lấy, trong khi chị cứ níu như đu lấy cổ anh, tấm lưng to đẫy hơi cong lên, hai chân chị giãy ra khỏi tay anh, đạp mạnh xuống, cào cào trên cát. Và rồi, chị bỗng bật khóc nức nở.

Thái bỗng đứng lên, quên hết mọi sự gìn giữ, e sợ, lập cập bế vợ đến cái thùng nhà hầm gần đấy.

Những người con gái như Hà phải làm vợ trước khi được làm người yêu. Họ quen nhau chưa kịp yêu thì ngày cưới đã đến. Luật pháp và luật lệ ghép họ lại với nhau. Hai bên họ nhà trai, nhà gái vội vàng làm một cái lễ tác thành cho người đàn ông và người đàn bà. Họ sáp lại với nhau trong khi còn đang bỡ ngỡ về nhau một cách vội vàng vì trách nhiệm hoặc là một thứ nghĩa vụ gì đó, có khi từ sâu bên trong một đòi hỏi có tính chất bản năng chứ chưa phải là tình yêu. Tuy nhiên cái gốc gác của nó bao giờ cũng vì cuộc sống con người. Vì thế khi tách ra xa nhau tình yêu mới bật nở, một thứ nở chậm như hạt được ủ mới đem gieo, nên sâu đậm và khao khát đến cháy bỏng. Tình yêu cứ thế được nuôi dưỡng dần dần qua những lá thư và sự xa cách xen vào với nỗi thương nhau cùng nghĩa vợ chồng và rồi để trở thành một thứ tình vợ chồng ào ạt như giông bão, như lũ cuốn đối với đời người lính.

* * *

Đã qua giờ đơn vị hành quân từ lâu.

Tiếng còi ô tô “Toe!toe!” gắt gỏng phát ra từ xe Lộc ngồi khiến Thái giật bắn người. Nhận thức của anh bị lôi tuột ra khỏi thế giới êm dịu trở về với sự thật nghiệt ngã. Sự thật tàn nhẫn mà cái phần trữ tình đã bị lột bỏ, còn trơ lại cái cục lửa của chiến tranh, làm cho Thái cảm thấy nóng rát và đắng nghét trong cổ họng. Anh phủi cát ở lưng áo vợ, dùng ngón tay cào nhanh mấy cái cho mái tóc đỡ rối và đỡ nhanh chị đứng dậy. Qua màn đêm nhờ nhờ bởi ánh lân tinh từ những con sóng hất mình lên bãi cát, Thái vẫn thấy rõ đôi mắt Đại đội trưởng nhìn mình giận dữ và đấy cái ý trách móc. Hai người đi đến gần nhau, Lộc vấp chân làm cát bay tung. Họ vội vàng quay đi để tránh luồng mắt nhau. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc bốn con mắt lại quay phắt lại, ngó vào nhau, trân trân. Đôi mắt Lộc bừng bừng chiếu vào Thái khiến anh nóng bừng cả khoảng đầu, phía sau gáy tê đi, rờn rợn. Lộc rút phắt cây cờ chỉ huy vẫn giắt ở lựng, cầm chắc nơi tay, hầm hầm như sắp vụt vào người Tiểu đội trưởng chỉ huy dưới quyền anh.

Biết rằng giây phút này không thể kéo dài, Hà níu chặt lấy tay chồng. Người lính trẻ từ từ gỡ tay vợ. Chị nắm luôn lấy bàn tay anh, dùng cả hai tay nắm rất chắc. Thái làm một động tác mạnh, như một cái hất tay, bước vụt đi. Hà bước theo, rồi chạy lên kịp, đi song song với anh. Thái thở hổn hển.

– Về đi em! Đơn vị tới nơi ở mới, anh sẽ viết thư cho em.

Hà mếu máo:

– Anh Thái, anh đặt cho con một cái tên.

Không nghe tiếng vợ vừa nói gì, Thái bám cửa thùng xe đu người nhảy vọt lên, miệng thở hồng hộc. Chiếc xe Gát 63 rung rung sốt ruột vì chờ đợi. Từ góc bên kia thùng xe Đăng đứng chồm dậy, loạng choạng bước qua đống đồ đạc lổng cổng, gần như xô tới đẩy mạnh Thái trở xuống mặt đường. Người lính trẻ măng quát to, giọng rất dữ, như chính cậu ta là người chỉ huy cao nhất ở đây.

– Xe sau vượt lên, chạy trước đi!

Đăng cũng nhảy xuống mặt đường, sải những bước dài tới chỗ Hà và Thái đang nhấp nhổm, nôn nóng đứng dưới hang phi lao. Hà phải dựa hẳn vào một cây phi lao cụt ngọn, cành lá lòa xòa đang réo lên ú ú trong gió mạnh. Hà cắn chặt môi, mặt cúi gầm, tay ôm cái nón che trước bụng… Chiếc nón cậu Chư rỗ vừa ngó hắn người ra ngoài cửa xe đội lên đầu cho Hà. Chiếc nón cậu ấy mua làm quà miền Trung chờ mang về cho vợ.

Một chiếc máy bay phản lực xẹt qua thả pháo sáng. Chùm pháo sáng nổ lục bục, tỏa bung ra phía trên đầu đoàn quân. Đăng nói hấp tấp:

– Chị Hà về đi! Em và anh Thái phải đi ngay bây giờ.

Hà chậm chạp ngẩng đầu lên, khi đã nhìn rõ đôi mắt thương cảm của Đăng, đôi mắt của chị bỗng giương to, óng ánh nước. Giọng chị chìm trong gió.

– Thôi, em đừng giục nữa khiến chị thêm đau đớn. Chị về ngay bây giờ đây!

Từ đôi mắt sưng mọng, nước mắt trào thành dòng, chảy dọc hai cánh mũi và đọng lại ở đôi môi rớm máu. Chiếc nón úp trước bụng lỏng dần, tuột ra khỏi tay, rồi cứ thế trượt dần, nằm lăn ra đất. Cơn gió dữ dằn vỗ ngay lấy, hất nó lăn lộn loang loáng trên con đường ngập ngụa bụi cát. Thái đuổi theo, mãi mới lấy được chiếc nón đưa lại cho Hà. Anh chụp vai Đăng kéo rất mạnh, gần như lôi anh chiến sĩ về phía chiếc xe vẫn đang đợi. Hai người bám vào thành chiếc xe quân sự nhoài lên.

Hà bỗng chốm người về phía trước, chạy cuống cuồng:

– Anh Thái, anh Thái ơi!Cho em đi với các anh một đoạn, một đoạn thôi.

– Không thể được đâu Hà!

– Em giặt giũ, em nấu cơm cho các anh ăn mà đánh nhau!!!

Chiếc xe Gát lăn chầm chậm. Hà ngồi thụp xuống, lại đứng dậy chạy. Khẩu pháo vấp vào ổ gà nẩy lên bần bật. Viên nắm chặt tay tầm khẩu pháo, đầu cúi gầm xuống. Hình như cậu ấy khóc. Một chùm pháo sáng nữa lại bung xòe trên bầu trời. Ánh lửa đám cháy do chiếc máy bay ném bom ở phía xa chiếu loang loáng trên nền trời.Trong thứ ánh sáng gắt gao, quái gở, những đám khói kết lại với nhau thành vầng khói lớn đùn lên sừng sững như những trái núi khổng lồ, che khuất hẳn một khoảng trời.

Hà vẫn chạy theo xe, chị vấp vào cái gì đó, ngã lăn ra. Thái hộc lên, níu chặt lấy vai Đăng. Những tưởng người thiếu phụ không dậy được nữa, nhưng kìa, chị đã đứng lên, lảo đảo, chệnh choạng, chới với. Chiếc xe lăn bánh đã xa. Chị chỉ còn như một cái bóng vật vờ trong ánh pháo sáng ma quái, như chị bị đè sấp xuống dưới vùng khói bom khổng lồ, và biến đi trong màn đêm khi anh pháo sáng bị đẩy lùi, bóng đêm ken tới đen kịt, mịt mùng.

Thái từ từ khuỵu xuống đống đồ đạc ngổn ngang trên thùng xe. Đăng cũng ngồi xuống theo, ôm chặt lấy anh. Anh nhắm nghiền đôi mắt, mi mắt lặm nhặm vì cát bụi. Màn đêm tơi tả chụp xuống xung quanh. Như một giấc mơ vội vàng, Thái hốt hoảng vì ý nghĩ điên dại đây là lần cuối cùng hai người gặp nhau. Anh vùng ra khỏi tay Đăng, hỏi to:

– Các bộ phận đo xa, trinh sát, thông tin có ai để quên cái gì không? Đường hành quân xe rất xóc, cố gắng bảo vệ tốt khí tài. Anh quay sang Đăng – Đăng đeo ống nhòm lên người, vất vạ vật như thế nào đến A2 không có nó, đơn vị như mù mắt, nằm im chờ chết.

Chương hai

Một người lính ngồi dựa lưng vào bức tường đổ, ngả hẳn đầu lên đám rêu mọc lầy ngầy, mồm há hốc, hai bàn tay sần sùi chập lại làm máng hứng nước. Anh ta gí sát đôi môi khô khốc vào cái máng tay, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng. Gió đã dịu hẳn, về cuối cơn giông mưa chỉ còn lắc rắc từng hạt, thỉnh thoảng đôi hạt mưa bay lạc vào tận họng khiến cho vòm miệng cứ muốn mở to mãi ra. Một dòng nước mỏng nhỏ xíu, từ cái máng tay nhè nhẹ lăn qua làn môi, thấm vào kẽ chân răng; tia nước chạm vào đầu lưỡi làm dịu dần cơn khát và làm tan cơn đói ngủ đang rạ rình ở mi mắt, sẵn sàng kéo tuột anh vào một giấc ngủ mê mệt. Anh lính đưa bàn tay vuốt từ đỉnh đầu xuống trán, nước tràn qua mặt, lan da rân rân như giãn nở. Anh lại vuốt, lại miết, lặp lại động tác như một cái máy, tưởng như tư duy của anh đã bị lập chương trình điều khiển, bàn tay còn lại chặn nước cho chảy vào mồm, cặp môi cong lên, cái cổ rướn lên, toàn thân đê mê lặm chìm trong một khoái cảm dìu dịu.

Cách đó chừng mấy bước chân, sát cái bậc lên xuống căn nhà đổ, một thân người xám ngoét bọc trong bộ quân phục ướt sũng. Những hạt mưa to tướng ném vào cái trán hóp, đen sạm và đập vào đôi mắt hai mí chưa kịp khép kín, làm tròng mắt lồi ra, tím ngắt. Cái đầu ngoẹo hẳn sang một bên, được kê lên đôi giầy cao cổ ướt nhoét, đế giầy bê bết bùn đất đỏ; cái thân hình không hẳn là người không hẳn là xác nằm thẳng dẵng. Những hạt mưa lớn bắn vào đôi bàn chân cũng bê bết bùn quánh đỏ, làm lộ ra từng mảng da trắng nhợt nhạt, dăn deo.

Một dòng nước xanh mờ theo bức tường không mái chảy xuống. Dòng nước tràn qua bậc lên xuống căn nhà, tuồn vào lưng chiếc áo bờ-lu-dông vải dầy, ướt lũng nhũng, cái ngấn nước loang ra trên nền đất, ngấm sang chiếc quần bạc mầu cáu bẩn. Như được hẹn giờ, cứ vài phút người lính lại ngừng uống nước bằng máng tay, quay sang nâng cái thân người ấy lên vắt bớt nước ở lưng và ở đũng quần, sau đó anh cẩn thận đặt cái thân hình nửa người, nửa xác, đứng như tư thế cũ.

Trời mờ sáng, bầu trời xanh nhạt. Mảnh trăng già cong cong, nhợt dần, trôi bồng bềnh trên dãy đồi trọc lô xô. Tiếng nước chảy từ phía Ba da Đô Lương vọng lại nghe ồ ồ. Người lính cởi quần áo ngoài ném phịch xuống thềm căn nhà đứng giữa trời tắm khô. Thấy trong người bức bối, khó chịu, anh cởi nốt chiếc quần đùi cầm ở tay, đoạn áp vào đám rêu cho ướt, dùng làm khăn lau người. Anh để mình khỏa thân như thế đi ra đứng ở ngã ba đường ngóng ngược lên phía Phủ Quỳ đau đáu. Anh lính ngáp một cái thật dài, tưởng đến rách miệng rồi vội vàng quay về đứng trước căn nhà. Hoang vắng quá. Hoang vắng tới mức con người phải tự khỏa thân để thấy da thịt mình. Không một tiếng kẹt cửa ở dãy phố câm lặng, gẫy vụn, vài căn nhà còn sót lại tường nứt hoặc bay mất nóc. Không một sợi khói ấm áp nào run rẩy qua khe bếp. Tuyệt không có ánh đèn dầu le lói báo hiệu con người ta đang sống. Anh lính bỗng nảy ra một ý nghĩ rồ dại, để nguyên mình trần truồng như thế chạy quanh đây xem nếu gặp ai tất họ phải kêu lên cho bớt vắng lặng. Đôi mắt mở to hoang dã nhìn như bới tìm xung quanh. Qua ánh ngày mờ mờ anh lính thấy một đoạn hào nhỏ chắc rằng bỏ hoang đã lâu. Anh sải mấy bước dài, nhảy thử xuống con hào và bỗng giật mình hoảng hốt vì lũ cóc nhái nhảy loạn lên. Một con chim cũng đang trốn ở đầu kia đoạn hào thấy động chấp chới vỗ cánh bay lên, nó loạng choạng ở trên không, chưa tìm ra chỗ nào có thể trốn lại được. Anh lính ân hận vì làm kinh động, khiến con chim tội nghiệp vội vã bay đi. Và rồi, anh nhảy phắt lên mặt đất. Bằng đôi tai đặc biệt thính nhạy, anh đã nghe có tiếng động cơ máy bay ở rất xa. Gần như cùng một lúc anh ta nhìn thấy bằng mắt thường hai chiếc A7 bay sóng đôi về phía thị trấn. Sau mỗi chiếc máy bay, hai luồng khói tuôn phùn phụt, làm vẩn lên bầu trời xanh lơ trong sạch. Hai chiếc A7 xông bừa qua mảng hồng nhạt của bình minh còn rớt lại, rồi cứ thế lừ lừ diễu qua bầu trời.

Anh lính trinh sát đang chờ để đón chiếc xe hậu cần của đơn vị. Đại đội pháo cao xạ 37 ly đang chiếm lĩnh trận địa ở phà gần phà Sỏi. Anh phải “chốt” ở đây để chặn chiếc xe lại, chắc “thằng già khụ” chờ nhà bếp bị hỏng máy hoặc giở quẻ xịt lốp, gẫy cầu ở đâu đó. Lúc đơn vị hành quân rời vùng đất đỏ Phù Quỳ chiếc Gát đã đứng ì ra không chịu nổ máy. Quay ma-ni-ven chán tay đầu xe rung lên đùng đùng, nhưng nó vẫn đứng trơ thổ địa. Đến khi móc cáp cho xe kéo pháo lôi đi một đoạn, chiếc chuồng gà Gát 51 rách tã mới nổ máy phành phạch. Đến khi tăng ga lăn bánh, nó cứ rên ư ử. Đúng, nó dở chứng hỏng máy nằm ở đâu đó thôi. Có khi các bố hậu cần thấy trời sáng đánh bài lùi, nằm lại chờ tối. Các khẩu đội phòng xa đã quẳng lên thùng xe hai bao gạo, chục hộp thịt, thùng lương khô dự trữ chiến đấu. Người lính bị ru trong ý nghĩ đó, ngồi xuống, đầu ngửa hẳn ra, tựa vào vệt nước xỉn trên bức tường, đôi mắt đờ đẫn, dại hẳn đi và trong khi đôi mắt vẫn mở trừng trừng thì thần kinh đã tê dại, anh đã ngủ trong một giấc ngủ quái đản. Anh thấy mình đang chạy trên một vùng đất chết, bước nào cũng thụt xuống hố bom. Và khói, khói như một thứ bệnh dịch lan tràn, che mờ cả mặt đất. Anh chạy cuống cuồng trên mặt hoang mạc, bị săn đuổi bằng rốc két và đạn hai mươi ly sáu nòng. Rồi cả một trận mưa bi thép tuôn chảy ra từ những trái bom to bằng nắm tay trẻ con, quả nào cũng vàng mỡ, tươi bóng, mầu của quả chín, nhìn vào chúng ngỡ ngàng, như có thể vồ lấy ăn ngấu nghiến, nhưng chúng lại giấu bên trong sức mạnh giết người khủng khiếp. Giấc ngủ vật vã, không thể nào sâu, dồn đuổi người lính trong ý nghĩ thật và mơ ngột ngạt.

Đột nhiên trên bầu trời lóe hai tia chớp sáng. Đôi mắt trừng trừng đờ dại thoắt sống động và người lính choàng dậy. Cái giác quan thính nhạy ở anh ngay tức khắc được đẩy đến chỗ tinh nhạy nhất. Anh tự hỏi: “Tại sao sáng rồi mà hai chiếc A7 còn thả pháo sáng? Hay là chúng tóm được chiếc xe hậu cần chạy lạc đường?”. Chỉ mấy giây sau anh lính đã tự giải đáp được cho mình. Từ trên khoảng xa, xanh hút, bỗng dội lên tiếng rú rít chói buốt. Bom bi! Hàng triệu viên bi sắt từ những quả bom con vừa rời bom mẹ, bắn ra. Người lính nào từng trải như anh ta, từng chịu hàng trăm tấn bom tính theo đầu người, đều hiểu rằng cái chết đàn lũ sẽ xuyên vào khắp cơ thể và nằm ở đó, lặn sâu, gây nên các vết thương khó giải phẫu hơn gấp nhiều lần so với mảnh bom đạn thường.

Người lính bật dậy, nhảy vọt đến ôm ngang cái thân xác sũng sĩnh nước ,lăn bừa xuống đoạn hảo bỏ hoang mà anh đã xem thử khi hồi.

Loạt bom nổ ầm ập, những quả dứa, quả ổi giết người hết sức tinh vi và dã man từ cái bàn chụp khổng lồ túa ra đều đặn, rơi chụp xuống mặt đất, bật nổ, tiếng nổ nhỏ, khô ngái chọc vào làm buốt óc. Anh lính lắc mạnh người thấy mình đang sống liền giơ tay sờ khắp mặt, lần tay vào ngực, hai bên sườn và vùng rốn cái thân xác anh đã đặt xuống lòng hào. Không thấy máu, anh vẫn sờ, viên bi có thể chui vào đâu đó rất ngọt và người chiến binh chưa kịp cảm thấy đau. Anh lần sờ ở đùi, ở bẹn, không thấy vết xây xát nào đáng kể. Đến khi anh nâng hai đùi cái thân xác để sờ vào hạ bộ thì chân tay anh bủn rủn. Một cái khúc đen xám, nhẫy nhợt, thò dài từ mông về phía chân, đang ngọ nguậy, uốn lên, vật xuống. Trời ơi!Rắn!Anh lính gần như hét lên, nhảy thót lên bờ hào.

Con rắn bắt đầu bị ngạt, uốn cong hẳn thân lên, vật mạnh xuống đất rồi lại hất cả nửa mình đang được tự do sang hai bên, cái đuôi tù tù đen nhợt thọc ngoáy vào đùi cái thân người đang đè lên nó.

Anh lính luống cuống chạy quẩn bên trên đoạn hào. Mùi khói bom khét lẹt, ghê rợn xộc vào mồm, ộc vào tận trong họng làm anh ngạt thở.

Anh nhổ một miếng đờm lẫn đất bụi trong mồm ra, nhấp nhổm định nhảy xuống đoạn hào.

Cái khúc rắn quằn quại, duỗi thẳng ra phập phồng, rồi lại quằn quại, nhớt ở thân nó quệt vào hai ống quần dầy cộm lèo nhèo. Cái đầu bị đè dưới lưng người, có lẽ nó đã ngạt lắm, bây giờ nhấc lưng lên nó mổ cho một miếng thì đi tong. Do quá lo sợ và kinh tởm người lính muốn ói mửa.

Đám khói bom vẫn đặc sệt quanh chỗ anh lính cúi khom khom. Thứ khói bom vàng quẩn ở thấp rất lâu tan vì chúng là đám bụi hạt nặng nhỏ li ti, chúng cứ lắc lư, sền sệt, được ngọn gió Nam dâng lên rồi rơi thõng xuống lòng hào. Cái thân xác bỗng bật ho sặc sụa, ho thành cơn dài rung cả ngực và tay chân.

– Ngột thở quá! Tôi đang ở đâu đây anh Thái?

Thái nhẩy chồm chồm:

– Đăng! Cậu nằm im, không được nhúc nhích.

– Sao thế anh Thái? Sao không được nhúc nhích.

– Đã bảo nằm im, nguyên tư thế ấy. Cậu động đậy là chết tươi đấy.

– Có cái gì ngọ nguậy ở dưới lưng!Anh Thái?

Thái gắt:

– Nằm im!Có lẽ trên thế giới này không ai ngủ như cậu. Một thứ chết ngủ. Nhiều lúc tớ nghĩ cậu chết đột tử rồi.

– Trời ơi, nó ngó ngoáy buồn và lạnh quá anh Thái ạ.

– Đã bảo im cơ mà – Thái gắt. Anh lo sợ lỡ bạn lồm cồm bò dậy con rắn được gọi là chúa trong cái giống rắn này sẽ ngẩng phắt đầu dậy, cắn ngay.

Đăng quờ quờ tay:

– Tôi nắm được nó đây rồi. Thân con rắn chúa đang như một cánh cung lắc lắc.

Thái đang đứng xạng hai chân ra bên bờ hào, môi mím chặt lại. Phải một lát sau, Thái mới nghĩ ra cách cứu Đăng ra khỏi tình thế vừa đáng sợ vừa hài hước như một chuyện đùa nghịch. Anh với tay xuống lấy tấn và Đăng đưa hai tay nắm chặt tay Thái. Đăng làm động tác bật mạnh, tung người lên khỏi đoạn hào, ôn chầm lấy người A trưởng.

Con rắn hổ mang to bằng bắp tay ngáp miệng thở mấy hơi cho hồi sức, rồi nó quay nhìn hai anh lính, phè cái mang to bằng bàn tay phun phì phì. Chú ta oai vệ ngẩng cao đầu bò về đoạn cuối hào. Lũ cóc nhái líu vào nhau, nhảy loạn xị. Con hổ mang bành, vẻ rất hiền, bò qua lũ cóc nhái, lên góc hào bị lở tránh vũng khói vẫn còn đặc sệt,đầu nghếch cao,mồm há ra thở gấp.Con mắt bé tí sáng chói nghiêng nhìn những chú nhái mọi khi vẫn là mồi của nó, giờ đây cùng trong cảnh lánh nạn. Ở ngã ba thị trấn không sinh vật nào sống nổi trên mặt đất, do bản năng sinh tồn, chúng kéo cả xuống chung sống với nhau trong con hào.

* * *

Lộc cầm một chân Đăng lôi xênh xệch. Cậu lính trẻ giãy lên, giọng ồ ồ:

– Đứa nào kéo chân tao đấy? Để cho tao chợp mắt một tẹo, ờ ờ, cả chục đêm thức trắng. Này, này…để cho tao yên, không tao đào mả bố mày lên đấy.

Lộc nhe cái răng vàng ở khóe miệng, một tay cầm cờ chỉ huy đưa về phía sau, tay kia nắm chặt cái chân Đăng giật mạnh. Đăng đạp chân kia vào tay Lộc chửi:

– Thằng khỉ đột! Chợp mắt một lúc cũng không cho nằm yên. Ông lại đả cho một trận bây giờ.

Lộc buông chân Đăng, bước mấy bước, cổ họng gầm gừ, người gập xuống sát cậu lính trẻ.

Thái sợ tái mặt, nhổm người định chạy tới đánh thức người chiến sĩ dưới quyền mình song nghĩ thế nào anh lại ngồi im như phỗng đá, không nhúc nhích được. Lộc đã túm cổ áo, dựng người lính trẻ măng dậy, và không kìm mình nữa, tát cho Đăng mộ cái rất mạnh vào mang tai. Cái tát quá mạnh làm mắt Đăng nảy đom đóm, cậu ngớ mặt, sau chợt hiểu cú tát từ đâu tới, liền chồm dậy, nhảy bổ đến, mắt nhắm, mắt mở quai một quả đấm trời giáng. Lộc kịp giơ tay gạt nhưng vì quả đấm nặng đô làm đại đội trưởng chúi người, phải gắng gượng mới không bị ngã. Cậu lính trẻ chưa hết cơn khùng, lao tới định táng bồi một quả nữa thì nhận ra Đại đội trưởng của mình. Cậu ta trợn mắt, há hốc mồm ra vì sợ hãi, hai cánh tay to khỏe gân guốc vừa mới đây còn được chứng minh sức mạnh trong cú đấm, giờ đây buông thõng trước đùi, mất hết sinh lực. Đứng đờ ra một lát, không chịu nổi cái nhìn như có ánh thép xuyên vào người, Đăng lùi lại mấy bước rồi ngồi bệt xuống cái bậc nhà ướt nhầy nhụa. Lộc bỏ Đăng nhìn xoáy vào Thái:

– Các ông đón xe như thế đấy hả? Rũ đầu xuống ngủ như gà rù. Xe hậu cần vượt qua chỗ các ông về phía Truông Bồn rồi. Ông biết Truông Bồn rồi chứ? Cửa tử! Cái cửa tử đầu tiên và cũng nhiều máu lửa nhất vùng cán soong. Điều đó thì ông còn biết hơn tôi chứ, hả ông Thái?

Thái lúng túng, chân tay như bị thừa ra trước mặt Lộc. Vốn là một người lính dày dạn, trải qua hàng trăm trận đánh, anh hiểu thấu và lường hết mức độ nghiêm trọng trong tình huống vừa xảy ra. Anh và Đăng đã trải qua hơn mười đêm đưa đón đơn vị an toàn, các khẩu pháo được giấu tốt, khi cần có thể nổ súng đánh địch, anh nuôi ở ven suối, anh em đơn vị nghỉ ngơi, tắm giặt, còn tổ thì lại vội vã lên đường chuẩn bị một nơi đỗ mới. Họ làm công việc đó một cách thuần thục, có phần tài ba, khiến người khó tính như Lộc khi xét đoàn bất cứ việc gì cũng phải thốt lên “Khá, tổ các cậu khá, làm cho tớ cũng mát mặt với mấy tay hay hoạnh họe trên trung đoàn”. Tưởng rằng mọi việc trên đường trôi chảy một cách mĩ mãn, nào ngờ sáng nay cơn đói ngủ thắng cuộc đã vùi các anh xuống bùn và nước, xóa đi cái vinh quang ít tổ trinh sát tiền trạm nào có được, và đẩy các anh vào một tình thế trớ trêu. Trong chiến tranh sức chịu đựng ở con người dù có được huy động đến mức cao nhất vẫn chỉ đạt đến một giới hạn nhất định. Nhưng sự nghiệt ngã lại thường xảy ra ở chính chỗ này. Người lính không bao giờ được vin vào cái giới hạn đó, bấu víu lấy nó như một lý do. Anh ỷ vào cái giới hạn ác nghiệt đó, sự bi thảm ắt xảy ra. Bây giờ thì dù có hối hận, dù có khóc lóc thảm thiết cũng không thể kịp nữa, ai cho phép hối hận, dù sự hối hận sâu sắc nhất trước xương thịt và máu người. Suốt những tháng khốc liệt sau đó của cuộc ném bom hạn chế, anh càng thấm thía điều đó.

Thái lảng tránh ánh mắt dữ như bắn ra từ đôi mắt nặng nề. Đôi mắt Lộc cũng đói ngủ, sâu trũng, hai mí trĩu nặng, từ chiếc cằm nhỏ râu đâm tua tủa, những sợi râu cũng bắt bụi đỏ màu gạch non.

Anh không kìm được lòng mình, hỏi một câu hết sức ngơ ngẩn.

– Biết làm thế nào bây giờ, Đại đội trưởng? Xe không ngụy trang dông qua Truông Bồn ban ngày, máy bay nó làm thịt mất.

Đôi mắt dẹt của Lộc lóe lên một cách quái gở:

– Chạy đuổi theo chứ còn làm thế nào!- Anh vung ngọn cờ chỉ huy, hướng nó về phía mấy ngọn núi cao phía xa:

– Đồng chí Đăng đứng dậy!

Đăng vẫn ngồi, vẻ mặt thỗn ra vừa sợ hãi vừa hối hận buồn bã.

Lộc hét:

– Đứng dậy!

Đăng bật lên đứng ở tư thế nghiêm. Đôi mắt Lộc tối sầm, Lộc nhả ra từng tiếng một như ném ra từng cục chết.

– Chạy -đuổi – theo – xe ngay!

Lộc không ra lệnh thẳng cho Thái. Anh tránh né những điều phải nói ra một cách rõ ràng nhất. Ở một góc nào đó trong con người anh vẫn ẩn kín một nỗi niềm, ngờ vực đối với Thái, một chiến sĩ dưới quyền mình. Lộc ngầm không ưa Thái song anh không bao giờ chịu nhận điều đó với chính mình, lòng anh nặng những uẩn khúc.

Thái chạy không còn biết trời đất là đâu nữa, tất cả trở nên mù mờ. Chính Hà cũng đã phải chạy đuổi theo xe như thế này buổi tối đơn vị lên đường vào A2, chạy một cách vô vọng và đau khổ, lật đật trong nỗi vò xé thèm được sống bên chồng. Chiến tranh là vậy đấy, không điều gì là không thể xảy ra. Anh chấp nhận như một sự nhẫn tâm, sự tàn nhẫn để vợ đuổi theo chồng rồi một mình giữa vùng chết, thì bây giờ lại buộc phải chạy theo xe vào vùng chết. Chiến tranh làm sao có thể tươi hơn hớn được. Nếu có một cái gì tương tự thì ở tận phía sau phía xa kia. Còn bây giờ phải đối mặt với cái khốc liệt nhất thì cái gì sẽ xảy ra, ngay tức khắc, bi tráng, bi hùng, bi thương, bi thảm người lính chân chính dám chấp nhận chứ không phải và không thể phung phí mạng người một cách bừa bãi. Tiếng máy bay gầm gừ và những quầng khói bom vằn vện ở phía xa, chỉ cho rõ có một chiếc xe đang chạy vào vùng tử địa! Trên xe có đồng chí đại đội phó mà Thái đặt tất cả niềm tin và tình thương yêu chân thành của người lính, có tổ nuôi quân và lương thực, thực phẩm dự trữ để nuôi đơn vị trong cuộc hành quân dài ngày. Nó kia, chiếc xe ở tít tắp, mình đầy ngụy trang như một con cua khổng lồ nặng nề leo lên dốc, vừa leo vừa dò, có lúc nó dừng hẳn để tìm hướng đơn vị đương trú quân.

Hai người đã bỏ lại khá xa thị trấn Đô lương bị san bằng.

Chiếc xe như một kẻ u mê vẫn đi về phía Truông Bồn. Khi đã nhận ra con đèo lở lói, chiếc Gát 51 dừng lại, tìm cách quay đầu để chạy xuống dốc. Không kịp nữa, nó đã đứng tô hô ra trên một cái “cua”. Và điều làm tim Thái và Đăng cùng thắt lại vì lo lắng. thấp thỏm mong nó đừng tới, đã xảy ra.

Hai chiếc A7 bay tuần thám phía thị trấn Đô Lương phát hiện ra chiếc xe Gát đang cố lùi đít vào vạt bạch đàn thấp lè tè, chúng hạ thấp độ cao, vòng ngay lại.

Thái bám được vào buồng lái chiếc xe nhảy lên ấp hẳn ngực vào cửa sổ xe, né nghiêng người về phía chiếc máy bay đang lao xuống với tốc độ chóng mặt, tưởng làm như vậy có thể tránh bớt được luồng đạn sắp sửa vãi xuống. Khi hơi thở đã bớt ngột, anh nhoài hẳn người vào buồng lái, ghé sát tai cậu Mịch lái xe với hy vọng giúp cậu ta đưa được chiếc Gát thoát khỏi cuộc săn đuổi chết người.

Hai chiếc A7 sà xuống rất thấp và đều tăng lực xả những luồng lửa đỏ lòe trên hàng bạch đàn. Rõ ràng những tên phi công Mỹ không muốn con mồi ngu ngơ chúng bỗng vớ được, chạy thoát.

Một chiếc bất ngờ đổi hướng bay lượn sát ngọn cây, thận trọng khép nhỏ vòng lượn. Nó nghiêng cánh vờ như bay đi, rồi chỉ trong chớp mắt, lật mình vòng lại, hạ thấp hơn, vờn chiếc xe như mèo vờn chuột.

Cả tổ nuôi quân nằm dán mình trên thùng xe. Đến khi một chiếc A7 căn giữa lòng đường, chúc bắn xuống hai cánh xòa rộng, trùm lên chiếc xe như một con ác điểu tuôn ra một loạt rốc két với những đuôi lửa đỏ chói lòa, thì tất cả mọi người bật chồm dậy, nhảy té ra hai bên thành xe, lao xuống lòng đường. Cậu quản lý Chư Rỗ sợ quá cứ rúc đầu xuống cái hố đá nông choèn, Chư ta tọng được nửa người vào, còn cái mông đít to phềnh phệnh vẫn thòi ra ngoài.

Đột nhiên có tiếng đạn pháo 37 ly nổ lụp bụp trên đầu, Thái ghì hai tay vào cửa xe, anh thấy chóng mặt, máu như đông lại trong người. Đã mấy lần hai bàn tay cứng đơ như mảnh gỗ, không theo sự điều khiển của trí óc, tuột ra, để thả bịch khối máu thịt thèm khát sống xuống ta luy con đèo. Nhưng có cái gì vượt ra ngoài bản năng sợ hãi, có lẽ sự dũng cảm được rèn giũa, thử thách ở người lính từng trải đã giúp Thái bình tĩnh chỉ huy người lái xe tăng giảm tốc độ, tránh đạn. Nghe tiếng pháo nổ, Thái thấy vững tâm hơn. Chắc rằng Lộc cho đơn vị bắn mấy điểm xa, xua hai chiếc máy bay, đỡ đòn cho xe hậu cần.

Hai chiếc A7 không bỏ đi, chúng chỉ lách mình tránh đạn, gầm rít bốc lên cao, và rồi, chúng lại từ đầu kia con đèo sà xuống bắn như vãi đạn 20 ly xuống chiếc Gát tội nghiệp không có thứ vũ khí gì chống đỡ. Đạn 20 ly trúng vào những cái chậu nhôm, nổ tung, từng mảng nhôm trắng chói, bay tóe ra, rơi lả tả xuống mặt đường.

Thái nhìn thấy mặt Đăng nhợt nhạt. Cậu ấy vẫn đu lấy cửa xe lủng lẳng như một cái túi. Đôi mắt to lồi ra dưới đôi mày rậm, không ngước nhìn lên trời mà cứ nhìn chòng chọc vào Thái. Thái hiểu rằng bây giờ anh rời cửa xe tức khắc Đăng sẽ nhảy xuống ngay, như vậy chiếc xe hiện nguyên một con mồi rúm lại chờ chết.

Không biết có phải trong mấy giây anh quan sát Đăng và suy nghĩ, Thái đã để “sổng” một chiếc máy bay, chiếc A7 luồn sang bên kia đèo, khi Thái vụt ngẩng lên, luồng đạn 20 ly ác nghiệt từ chiếc máy bay bắn xuống đã chụp đúng đầu xe và vọt về phía trước làm phụt lên từng đám bụi đỏ dưới mặt đường.

Bàn tay đau nhói, thân người Thái bật ra khỏi cửa xe, rơi bịch xuống bờ ta luy đá ong.

Người lính lái xe bị một viên đạn 20 ly xuyên qua từ lưng sang ngực, gục xuống tay lái. Chiếc xe khựng lại, mặt người lái xe đập mạnh vào vô lăng, đầu ngoặt sang một bên.

Mặt Thái như vỡ tung ra, trời đất như tối sầm, đen đặc, anh có cảm giác máu không chỉ chảy ra ở bàn tay mà chảy tóa ở cả hai mắt mình.

Một loạt 20 ly nữa lại cắm thun thút xuống mặt đá nóng bỏng.

Chương ba

Viên đạn 20 ly xuyên qua ngực người lính lái xe, xoáy vào hộp số nổ tung, bắn một mảnh vào bắp tay và nhiều mảnh nhỏ vào mu bàn tay phải của Thái. Hình như trong lúc căng thẳng nhất anh đặt bàn tay lên vai cậu Mịch, cậu ấy liếc sang mỉm cười biết ơn, vậy mà cậu ấy chết rồi, đột ngột quá. Lòng Thái tê dại, cánh tay, bàn tay cũng tê dại. Tuy vết thương chỉ ở phần mềm, anh vẫn bị choáng nhẹ vì máu ra nhiều.

Cả Thái và Đăng đều không có băng cá nhân. Hai cuộn băng sợ bị ướt, gói cả trong bọc quần áo, phủ vải mưa để ở bậc thềm căn nhà đổ. Lúc Lộc bắt chạy đuổi theo xe hậu cần, cả hai chỉ bon có người không, chắc rằng đại đội trưởng đã mang hộ cái bọc ấy về trận địa giao cho anh em trong tiểu đội chỉ huy.

Đăng lúng túng cởi chiếc áo lót cổ vuông nặng mùi chua khẳn, rồi bằng một động tác mạnh cậu ta xé ra làm hai mảnh, một nửa băng cho Thái, một nửa cất đi dự phòng. Mặt anh lính tái xám, cặp môi run run vì thấy máy ra nhiều, cậu ấy vẫn sợ máu, chưa thể quen được với tâm lý tỉnh táo khi nhìn thấy máu người. Vạt bạch đàn mới trồng được dăm năm còn thấp bé. Thái phải lê người tìm một gốc cứng cát, dựa lưng vào đó. Đôi mắt nhắm lại hững hờ, da mặt nhợt nhạt, anh dường như không để ý đến vết thương ở bàn tay, máu vẫn thấm qua vải áo như thấm qua một cái màng mỏng. Đăng bỗng nhớ tới cách cầm máu của những người đàn ông vót nan rổ ở quê vẫn dùng khi bị đứt tay. Anh lính tụt trễ chiếc quần đùi, túm lấy đám lông lún phún bên dưới rốn vặt mạnh như người ta nhổ cỏ, rồi cậu lóng ngóng cởi miếng vải áo ra dịt nhúm thuốc quý hóa đó vào và băng lại. Thái nhăn mặt vì đau, bàn tay thõng thượt, và Đăng mặt mày đau đớn không kém gì Thái, nâng bàn tay anh đặt lên đùi, cậu ấy vuốt nhẹ dọc cánh tay, rồi tụt đôi giầy cao cổ, bẻ mấy cành bạch đàn phủ lên trên, lựa thế đặt Thái nằm gối đầu lên đó. Thấy tiểu đội trưởng vẫn nhắm mắt, Đăng gọi cuống quýt:

– Anh Thái ơi anh Thái, anh đừng ngất đấy nhé!

Thái khẽ nhếch miệng cười:

– Tớ không ngất đâu. Trầy da, tróc vảy, chưa mùi mẽ gì.

– Ôi chao ôi, anh cho rằng mảnh bom nó phạt luôn một cánh tay mới đáng kể chắc. Đăng nói mặt cứ thộn ra thơ ngây. Thái phì cười.

– Tất nhiên là tớ chẳng bao giờ nghĩ thế.

Thái mở to đôi mắt mệt mỏi nhìn Đăng âu yếm. Đăng bỗng hỏi như trẻ con:

– Bây giờ chị Hà đã về đến nhà chưa anh Thái nhỉ?

– Đến rồi…ừ…dù thế nào cũng phải đến rồi chứ!

Hai chiếc A7 vẫn quần bên trên chiếc xe cháy. Hơi lửa nóng rát phả vào tới vạt bạch đàn nơi Thái nằm. Một tốp nữ thanh niên xung phong láo nháo đổ ra, họ lạch bạch chạy trên con đường mòn gần chỗ hai người nằm. Đăng nhổm dậy định gọi họ đón thương binh nhưng Thái vội ngăn:

– Để các cô ấy ra ngoài đường dập lửa, kẻo đám cháy kéo dài máy bay sẽ bu thêm đến thì không còn cứu vớt được gì nữa. Mình với Đăng nghỉ thêm một lát rồi ta tự vào làng. Tối nay đơn vị vượt đèo, theo như hợp đồng trước với anh Lộc nhà bếp sẽ đặt trong làng Nam Thái.

Thái nhắm nghiền hai mắt, tự lấy làm ngạc nhiên là tại sao mình không bị ngất. Sự tỉnh táo là lạ, cổ họng ngây ngất buồn nôn, như anh đã uống cả bát nước chè xanh đặc sánh đang khi đói. Cảm giác rằng mình vừa thoát khỏi cái chết cầm chắc làm Thái như mê đi trong nỗi trống trải gai người. Anh nghĩ tới cái chết của người lính lái xe. Đó mới thật là một con người gan góc. Cậu ấy nghển người, ghì chặt vô lăng, phanh tay hoặc nhấn hết ga, mắt long lên và tai ghét sát vào miệng Thái. Nếu cậu ấy không tỉnh táo nghe lời Thái chỉ huy thì cả xe đã tiêu ngay sau loạt rốc két đầu tiên. Thái thấy xót đến tận đáy lòng, cậu ấy, cái cậu Mịch ấy trẻ quá, da trắng, mắt đen, giọng nói thỏ thẻ, con trai làm lính ba bốn năm mà khi bị ai giễu mặt cứ đỏ rực lên. Vậy mà cậu ấy đã chết. Cái chết chém ngang cuộc đời trai trẻ của cậu ấy vì đâu, một phần vì sự lơ là của mình chăng?

Thái chợt nghĩ đến Hà. Trước mắt anh Hà dắt chiếc xe đạp, bánh trước ngoặt bên này, lại ngoặt bên kia, khi rõ, khi mất. Anh chưa kịp hỏi và cũng không bao giờ được nghe nói lại chị đã đạp xe hai ngày đêm ròng rã chỉ để báo cho chồng biết họ đã có con với nhau. Thật ra ngay trong cái đêm hai người ngủ quên trong ngôi nhà thờ đổ nát Hà đã biết mình sẽ có mang. Có cái gì thần diệu và bí hiểm của sự sống vừa xảy ra và chị cảm biết được. Người đàn bà cũng được tạo hóa phú cho cái trực giác mang màu sắc siêu nhiên. Biết rõ ràng như vậy, chị nằm lặng đi trong cảm giác đau đớn thể xác và chị đã khóc. Nước mắt thấm ướt đẫm ngực anh. Hà siết chặt cổ Thái thoát ra khỏi cảm giác nặng nề về sự mất mát. Chị vừa chứng kiến mình tự vượt qua cái ranh giới phân chia giữa người con gái và người đàn bà, sự chông chênh, thất thường, bối rối và sự vững bền.

Thái mở mắt thấy đang gối đầu lên chiếc giầy cao cổ bám đầy bụi đá xám, anh ngửi thấy mùi thuốc nổ khét nhức nhối bốc ra từ chiếc giày đang gối đầu và lại mê hoảng trong cơn buồn ngủ, mệt mỏi bời bã.

Anh chợt thấy vầng trăng già bơi ra khỏi bức tường đổ. Lũ cóc nhái và cả con rắn chung sống với nhau dưới lòng đất để tránh mặt đất chết. Lũ cóc nhái giăng giăng cái tiếng nói không ngớt về sự sống và sự sinh sôi. Vầng trăng cong vắt giống một con thuyền cổ trôi đi, bập bềnh, bập bềnh, mờ ảo, thấp thoáng lặn rồi lại hiện giữa một vũ trụ chết mênh mông.

Thái mở choàng mắt nhìn lơ láo. Đăng đã tỉnh ngủ đang ngồi nhìn anh lo lắng. Cậu ta hỏi giọng run run lo sợ:

– Anh mơ cái gì mà ú ớ mãi thế?

– Thế à…tớ mơ…hốt quá.

– Mơ thấy chị Hà chứ gì?

– Mặt đất chết. Chẳng thấy con người đâu cả.

Đăng hất đám lá bạch đàn, xỏ đôi giày khú khắm vào chân:

– Thật rõ vớ vẩn. Anh nói như một kẻ gở miệng!!!

– Ừ nhỉ…

Mơ với mộng. Anh cứ mơ bế chị Hà xuống cái hầm nhà, rồi ngủ một giấc đẫy cho nó phổng phao con người.

Thái bỗng vui lây niềm vui hồn nhiên ở người lính trinh sát trẻ măng. Anh buột mồm khoe:

– Đăng này, chị Hà nói chúng tớ sắp có con đấy nhé!

– Khiếp. Lạy bố! Bắn trúng đích đến thế là cùng.

Đăng nhìn vào mặt Thái giọng tâng tâng:

– Bà chị đến đòi dưỡng thai chứ gì?

Thái cười vỗ vào cái bụng to phưỡn của Đăng:

– Nói thế tủi thân cô ấy. Tớ nghe nói khi có mang phụ nữ có nhu cầu ghê gớm muốn được thổ lộ với chồng – anh lấy ngón tay trỏ chọc sâu vào rốn Đăng trêu – cậu miệng còn hơi sữa mà bụng đã trễ ra thế này, sau làm to phải biết. Đăng này, có con thì đặt tên là gì nhỉ?

– Tên Vội. Vội vàng. Vội vội, vàng vàng. Hay đấy chứ anh Thái nhỉ?

Thái vỗ bộp bàn tay lành xuống đùi:

– Hay! Hay! Được đấy!

Đăng đứng dạng hai chân cho Thái bám chắc vào vai. Cậu chàng cười toe toét:

– Chị Hà liều thật.

– Ừ, phải liều chứ!

* * *

Đại đội trưởng Lộc mặt tái đi vì giận dữ, lập bập bước ra khỏi sở chỉ huy trung đoàn. Anh nghĩ sẵn trong đầu một câu thật độc để lần sau gặp lựa thời cơ nói đốp vào mặt Tham mưu trưởng Đoàn Cung. Đi đã khá xa, quay đầu lại vẫn thấy Đoàn Cung đứng oai vệ trên mặt hầm nhìn theo, Lộc cố nén lòng. cố xua đuổi câu nói gắt gao le ở đầu lưỡi. “Ông chỉ đáng làm một kẻ khuếch khoác. Người cầm quân kém nhạy bén, thích ứng với chiến trường chậm cũng là một thứ vô trách nhiệm. Lúc nào ông cũng to giọng hết lòng vì người lính ở đơn vị chiến đấu, để rồi xem, ông không tự biết mình đã bán máu chiến sĩ cho cái danh của mình đâu!”

Về tới trận địa đại đội tám, Lộc đứng lại giữa dốc quát khẩu đội một dịch quá vị trí anh tự đánh dấu. Tay toàn khẩu đội trưởng đã cho đào hầm pháo về mé đồi gần con khe nhỏ. Dễ thằng cha láu cá định ra đấy chiều xua lính xuống tắm cho tiện. Hắn không thèm để ý đến chiếc Zin 130 mới tinh vừa đổ kềnh sáng sớm hôm nay ở chân dốc. Lộc phát bẳn:

– Đ. mẹ, cậu định cắm khẩu đội ở đấy để khi máy bay đánh chiếc xe đổ, hay đánh cầu, nó xơi tái luôn khẩu đội hả? Hả???

Lộc quay về sở chỉ huy, Đại đội phó Xương đang trực ban chiến đấu. Anh bỗng hầm hầm tức giận khi nhìn thấy cái hầm chỉ huy Xương đứng chỉ tới ngang rốn. Mấy thằng tiểu đội chỉ huy làm ăn như mèo mửa, cái hầm dùng để đánh nhau mà cạn dạch, che đậy như buồng tắm đàn bà. Lộc gọi cậu Đỗ tổ trưởng thông tin mới thay Thái làm Tiểu đội trưởng đến gần. Đỗ ngước chiếc cằm lởm chởm râu nhìn đại đội trưởng chờ đợi. Lộc cố nén giận:

– Các cậu làm hầm cho tôi đứng thế này đấy à?

Anh khẽ nhếch miệng giục Xương:

– Anh đứng thẳng lên tôi xem nào?

Đỗ đứng im, mặt hơi đỏ. Đôi mắt ướt lặn trong cặp mi, nhìn như không hề động đậy. Bản tính Đỗ chậm chạp, tỉ mỉ, cậu ta có thể ngồi cả buổi lần sờ nhổ từng sợi râu nơi cái cằm lẹm như người ta dùng nhíp nhổ lông lợn ở miếng thịt cạo dối.

Xương gỡ thế bí cho Đỗ:

– Đồi đá ong rắn quá anh ạ. Anh em họ còn làm hầm thông tin, bốn hầm trinh sát, một hầm đo xa. Cứ để tạm, ta vừa đánh vừa củng cố.

Lộc nổi khùng:

– Tạm là tạm thế nào? Con gà mái nó bới giun cho con ăn còn sâu hơn.

Anh vẩy tay giục Đỗ:

– Mang cuốc chim lại đây, tôi với cậu cùng cuốc.

Anh bổ mấy nhát cuốc chim, nhát nào cũng bới được mấy hột đá ong. Nhát sau cùng Lộc choang phải hòn đá rắn, toé lửa, không khí bốc ra mùi khét. Anh quẳng toạch chiếc cuốc chim, để lại một mình anh chàng thông tin chổng mông đánh vật với cái hầm, lẳng lặng đi xuống con khe có chiếc xe Zin 130 đổ chổng sáu bánh lên trời. Mấy tay pháo thủ khẩu đội một làm xong công sự, kéo cả xuống đầm ở con khe, tắm sau họ sợ nước ngầu bẩn. Con khe có một vùng nước đỏ màu son, nước ngập chưa quá đầu gối, mấy người lính trẻ cởi truồng đứng nồng nỗng vớt nước lên người và té vào nhau. Thấy Lộc, đám lính trẻ nhăn răng ra cười, họ còn rủ anh tắm tiên. Lộc vờ mắng:

– Sao các cậu không giấu cái của khỉ kia đi. Trông thằng nào cũng tồng ngồng như ngựa, tao phát khiếp lên được.

Có tiếng cười khùng khục:

– Ở đây toàn đực cả, có giống cái đâu mà Đại đội trưởng dạy anh em phải kín đáo.

– Kín đáo là tư cách của con ngưòi văn minh chứ phải đâu chỉ để che mắt giống cái.

Cậu lính lại bắt chước tiếng khỉ cười khènh khẹc:

– Tôi nghĩ nếu không nhằm ngăn các anh đực lúc nào cũng muốn làm bậy thì các cụ ta không cần quần áo đến tận bây giờ.

Cả bọn cười toá ra, có tay vớ cái khăn mặt nhuộm màu xanh lá cây, che cái vật của giới tính đi, riêng cậu Viên pháo thủ số hai vẫn để tồng ngồng đứng nói chuyện với Lộc. Cậu ta có cặp đùi ếch dài và thon, rắn chắc, vòng bụng thắt nhỏ, mỗi lần cúi xuống với nước bộ mông giãn ra, rắn như đá. Tảng ngực nở, đầy lồ lộ, cái cổ dài và to đẫy, cằm bạnh, bắp thịt ở hai cánh tay nẩy ra cuồn cuộn. Nhìn Viên giống như một bức tượng khoả thân thời cổ. Lộc không kìm được tiếng thở dài. Bất giác anh giơ bàn tay sờ cái trán hói và nhận ra với một chút cay đắng mình đã bắt đầu già. Cuộc chiến tranh dữ dội kéo dài mấy chục năm để lại phía sau nó nhiều thế hệ không kịp dùng tới cái sức mạnh cường tráng của giới tính mình. Tất cả phải dồn nén lại, được huy động để mang ra đối đầu với sức mạnh huỷ diệt của vũ khí. Lộc đi đến gần cái xe đổ nằm tênh hênh ở đầu cầu, cánh lính trẻ đang tắm cười rộ lên. Có cái gì lục sục trong buồng lái chiếc xe Zin màu xanh cánh chả. A – thằng Kình có cái cổ ngẳng, tiểu đội trưởng tiểu đội lái xe của đơn vị. Lộc nạt nộ:

– Kình, sao cậu lại rúc vào đấy! Phá cái gì hả?

Tiếng Kình rè rè:

– Tôi lấy bộ chế hoà khí thay vào cái xe trung đoàn mới điều cho ta. Nó tã lắm rồi ạ.

Giọng Lộc vẫn dữ dằn:

– Cái xe còn mới tinh của người ta. Cậu là đồ phá hoại.

Tay Tiểu đội trưởng xe cười gỡ tội:

– Thằng cha lái nhanh chân và khôn ranh chuồn sang bên kia đèo từ đời tám hoánh nào thủ trưởng ơi. Hắn báo cáo xe vào chiến trường A2 ác liệt bị máy bay Mỹ đuổi theo bắn cháy, hắn lại nhận xe mới toanh. Có khi hắn còn khịa ra tích trò giúp các cô thanh niên xung phong vá đường gì đấy và được khen thưởng là dũng cảm cũng nên.

Lộc còn gầm gừ trong họng:

– Chiếc xe đưa vào tới đây tốn bao nhiêu công của. Có móp méo gì đâu, gọi xe cẩu đến lật dậy lại chạy tốt.

Kình lấp liếm:

– Không lấy nhanh mấy thằng lái “con cháu” ông Đoàn Cung nó cũng sang làm thịt, móc hết đồ tốt. Lúc ấy Thủ trưởng cũng tức chứ cứ gì chúng tôi phải không ạ?

Thằng cha láu cá gãi đúng vào nỗi bực tức của Lộc với Tham mưu trưởng trung đoàn. Hắn say sưa tận hưởng khoái cảm đã xoay chuyển tình thế từ chỗ có thể bị kỷ luật vì phá hoại (hắn ta có triết lý kiểu của hắn, ôi dào, lính từ ông bé nhất đến ông to, ông nào chả có cái đi căn đập phá) song hắn có thể chọc tức Lộc, mà theo hắn, tính nết thất thường, lúc nào cũng muốn trội hơn người, thông minh hơn người.

Bỗng cậu ta rú lên kinh hãi:

– Bom! Bom từ trường, Thủ trưởng ơi!

Theo bản năng, Lộc nhảy lùi ra xa chiếc xe, hỏi với vào:

– Giời ơi! Nó nằm ở dưới đầu xe, cái kính lúc lắc tôi mới nhìn thấy.

– Đứng im! Cậu làm đầu xe lúc lắc, bom nổ bây giờ.

Lộc lùi lại thêm mấy bước, tìm một chỗ có thể nằm tránh được. Kình cổ cò đứng trong cái lồng chết mếu máo:

– Thủ trưởng ơi, tôi mở cửa tôi chui ra đây!

Giọng Lộc run run, tuy vậy anh vẫn quát to:

– Không được mơ…ở. Cánh cửa kim loại chuyển động gây ra từ trường, nó nổ thì cậu tan xác.

Cậu lái xe khóc lên tu tu:

– Tôi chết ở trong này mất Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng Lộc ơi, tôi còn vợ với hai con thơ ở nhà, tôi lạy Thủ trưởng, cứu lấy tôi Thủ trưởng ơi!

Lộc cuống cuồng chưa tìm ra cách gì cứu cậu lái xe. Tốp pháo thủ đang tắm vớ quàng quần áo chạy lại đứng sau Đại đội trưởng, bây giờ mới lục tục mặc quần áo, vừa mặc vội vàng, vừa xì xào bàn thêm một câu. Thì ra cái xe lật ngửa có nguyên do bây giờ Lộc mới hiểu. Khi qua đèo thấy trời sáng tay lái xe đã hoảng, xe đến đầu dốc xuống cầu hắn nhìn thấy quả bom từ trường ghìm ở đầu cầu bên kia, bốn cánh nó úp chụp trên mặt đất, sợ mất mật, buông tay lái, xe không người điều khiển, chệch bánh lật ngửa đè ca bin lên quả bom.

Cậu lái xe thôi khóc, lồng lộn trong “cái lồng” nhốt hắn ta. Lộc quay người lên sở chỉ huy đại đội, thấy Đỗ vẫn đang chổng mông cuốc đá ong, anh gọi to:

– Đỗ ơi, quay máy điện thoại báo Tham mưu trưởng cho công bình trung đoàn xuống trận địa C8 ngay.

* * *

Đoàn Cung không cho trợ lý công binh xuống giúp C8 tìm cách cứu cậu lái xe, mà cho gọi Lộc về gặp qua máy điện thoại. Lộc cầm tổ hợp thổi phù phù, xưng tên, hỏi Đoàn Cung có chỉ thị gì về tác chiến. Ở đầu dây đằng kia, tiếng Cung dõng dạc đầy uy quyền.

– Anh phải kiểm điểm ngay vì sao để chiến sĩ vô kỷ luật đi phá hoại, gây ra tình huống chết người này, rồi báo cáo về trung đoàn rõ chưa?

Lộc cố hỏi với giọng nhã nhặn:

– Thưa anh Cung, thế còn cậu lái xe của tôi vẫn chưa ra được.

– Nó chui vào được, thì phải biết tự mở mà ra chứ?

– Tôi cấm cậu ấy mở vì sợ cánh cửa chuyển động, kích thích quả bom nổ.

Bỗng đất dưới chân rung lên, rồi một tiếng nổ lớn dội vào hầm chỉ huy. Lộc vất máy chạy ra ngó xuống con khe, thấy cái đầu xe còn nguyên, anh vội quay vào cầm máy lên. Đoàn Cung hỏi bình thản:

– Quả từ trường tự huỷ rồi phỏng, anh Lộc?

– Đấy là quả ở chỗ khác. Ở chỗ tôi “nó” vẫn chưa nổ. Đề nghị tham mưu trưởng cho trợ lý công binh xuống giúp chúng tôi giải quyết quả bom.

Đoàn Cung nổi cáu:

– Các anh lạ thật, tôi đã trả lời rồi còn cố nì nèo gì nữa thế? Các anh không chịu nhìn toàn cục (có mỗi một mình Lộc mà Đoàn Cung gọi các anh) ,các trận địa pháo 57 ly đều có bom từ trường ghim xung quanh. Ở đại đội một nó còn nằm thu lu ngay giữa sở chỉ huy kia kìa. Ngay ở đoạn đường rẽ vào sở chỉ huy trung đoàn cũng có mấy quả, công binh còn báo dọc đường từ đỉnh đèo xuống rất nhiều bom chưa nổ.

Máu ứ lên trong người, Lộc vẫn cố nén:

– Nhưng còn người ở trong cái đầu xe, phải cứu người ta chứ?

– Tự giải quyết lấy – Đoàn Cung trả lời lạnh lùng, rồi anh chửi một câu bâng quơ – Mẹ nó, sao rải nhiều bom thế không biết.

Lộc nổi khùng, không còn biết kiêng nể, biết sợ gì nữa. Anh nói như quát:

– Cứ huênh hoang “quả đấm thép”, rơi mẹ nó vào cái bẫy bọn Mỹ giăng sẵn rồi. Ông Tham mưu trưởng có biết đường số một bị chặt khúc cá, cầu phà đều tắc, người và xe pháo kéo cả lên đường 15, tuồn qua Truông Bồn như thác lũ. Chen nhau qua đèo thì trời sáng, buộc các ông phải vội vã chui vào mấy cái trận địa đào đắp sẵn từ hồi đầu chiến tranh. Máy bay trinh sát chụp ảnh kỹ từng hầm pháo. Cậu A trưởng chỉ huy của tôi bị thương nằm trong dân, nghe dân họ nói mấy “quả đấm thép” từ miền ngoài vào, qua đây dừng lại đều bị đánh thiệt hại nặng nề. Bây giờ nói quây các ông lại, nó làm thịt!

Lộc buông máy, mắt tối sầm. Một tiếng nổ lớn dội lên, xô cái máy điện thoại vào góc hầm. Thôi rồi, thằng Kình xong rồi! Anh phải tựa vào cửa hầm thông tin đứng rất lâu mới hết chóng mặt. Đại đội phó Xương nghe thấy Lộc to tiếng trên máy cũng nhảy xuống, giữ tay như đỡ lấy anh.

Chương bốn

Nắng hầm hập nung người, gió tây cuốn đến từng đám bụi và cả những khối không khí nóng rực, từ đồi sỏi, lăn qua những đồi sỏi, được đốt nóng thêm, táp lên mặt bỏng rát. Nắng và gió làm cho những cành ngụy trang buộc trên mũ sắt khô cong, rơi lả tả.

Đăng đứng trong hầm trực ban trinh sát, ngực đeo thõng chiếc ống nhòm, trên đầu phủ chiếc khăn mặt màu xanh lá cây dấp nước lạnh. Mỗi lần Đăng quay đầu quan sát mục tiêu, đuôi khăn chạm vào má nóng, nước mát chườm trên da thịt làm tê cả nửa mặt.

Tít phía xa, hai cái bóng trôi vật vờ. Hai cái bóng khi chụm vào, khi tách ra xa nhau, mất hút mé bên kia đồi. Thế rồi đôi hình nhân lại hiện lên run run, lắc lư như ảo ảnh, như hai bóng ấy là vật phẩm của đồi sỏi đẻ ra một cách ma quái. Đăng chớp mắt, vẫn thấy hai bóng đứng vờn nhau và hình như còn cõng nhau. Một cái bóng như là cậu Mịch lái xe hậu cần bị trúng đạn 20 ly trên Truông Bồn ngay sát mặt Đăng hôm trước. Còn một bóng nữa thì đích thị là cậu Kình cổ cò, Tiểu đội trưởng lái xe bị nhốt trong ca bin xe đổ, một mình lĩnh quả bom 250 bảng Anh, cả đơn vị theo sự chỉ huy của Đại đội phó bới mãi cũng chỉ tìm được một nhúm xương thịt cho vào quan tài.

Cậu lính trẻ hoảng hốt nhảy lên mặt đồi, đứng tĩnh trí một lúc, định gọi Đại đội phó Xương trực chỉ huy ra xem nhưng sợ bị quở trách nên lại thôi.

Đăng bỏ mũ, lấy khăn ướt lau mặt, chớp chớp mắt rồi toài chân, người hơi ngửa ra, giơ ống nhòm lên nhìn lại. Cậu ta thở phào nhẹ nhõm. Đứng giữa nắng trưa quá lâu nên Đăng bị lóa mắt, bị ảo giác dánh lừa. Cậu tự mắng mình về tội “thần hồn nát thần tính”, tuy vậy hai tay vẫn run run. Hai “bóng ma” một là anh Thái, một nữa là anh Chư Rỗ quản lý đơn vị, gánh cơm trưa ra trận địa.

Chư Rỗ gánh hai thùng nước đi sát sau lưng vừa đi vừa giục, miệng thở hào hển, còn Thái gánh hai cái thúng đựng cơm trưa. Trước khi đi, cậu Chư Rỗ úp cái mũ cối bị mấy viên bi xuyên thủng lên đầu Thái, miệng giục: “Đi nhanh lên bố ạ, cho con nhờ, ở ngoài trận địa giờ cao điểm máy bay đến đánh, bom bi nó vãi như vãi trấu, không phải đầu cũng phải tai, con sợ lắm. Nào đi”. Từ hôm Lộc cho chuyển Thái vào hậu cần, đương nhiên thành quân của Chư Rỗ, vì cậu ta làm quản lý đơn vị. Lộc vin cớ, Thái còn đau tay vào bếp điều trị cho khỏi hẳn vết thương cũng để giúp đơn vị củng cố bộ phận hậu cần vừa bị tan tác sau lần xe bị đánh cháy trên đèo. Sự thật thì Lộc tìm cách bãi chức A trưởng chỉ huy của Thái.

Cành bạch đàn đẽo chưa sạch mấu, nghiến vào vai Thái đau nhói. Vết thương ở cánh tay bị dồn máu nhức khẽ giật lên. Mồ hôi đọng mờ mí mắt, nhìn không rõ, Thái vấp vào đường dây thông tin từ “trung đoàn bộ” đi các trận địa, người lạng chúi, một tí nữa thì đổ. Cơm đổ thì phải quay về nấu lại, anh em pháo thủ đứng phơi nắng trực ban, có tí cơm trưa để nguội, người ta chửi cho lấp mặt. Thái bàng hoàng cả người, và ngay sau đó một nỗi buồn tê tái, nỗi buồn như những thước phim quay chậm tràn qua ngược, thấm dần ra ngoài làm buồn các đầu ngón tay. Thái chạnh lòng khi nhìn thấy làn tiểu đội mình dựng xiêu vẹo, thấp tè giữa trận địa, anh em đang ngủ cả, chỉ có Đăng ngồi trên cái ghế đẩu đặt dưới hai cây bạch đàn non vít lại với nhau, trực ban trinh sát. Nhìn thấy Thái gánh hai thùng cơm, hai vai so lại, cổ rướn lên, Đăng đứng chồm dậy, mắt cay nóng, chân tay ngượng ngịu như bị thừa. Nhận ra ngay sự lúng túng đó, Thái lên tiếng trước:

– Đăng trực ban hả? Xem A mình cậu nào còn thức gọi ra lấy cơm về tranh thủ mà ăn đi.

Đặt gánh cơm xuống đám cỏ, sát vào mấy bụi sim bụi mua cằn cỗi, Thái bỏ mũ ra quạt, miệng gọi to:

– Các khẩu đội cho người mang xoong lấy cơm nhé?

Không có tiếng đáp lại, pháo thủ các khẩu đội ngủ lăn lóc trên những tấm phản kê xốc xếch trong những cái lán thấp tè, lợp ni lông, nóng như thiêu. Ở khẩu đội một, một cậu mặc quần đùi thắt dải rút, áo may ô cổ vuông dội đẫm nước rồi để nguyên như thế mà ngủ.

Khẩu đội trưởng Toài ôm thêm một ôm lá to tung lên mái làm ngụy trang che bớt tấm ni lông bắt nắng sáng nhóng nhánh, có đám lá tươi cũng che bớt được hơi nóng. Anh không nỡ gọi mấy cậu pháo thủ còn măng tơ dậy. Thôi,cứ để cho chúng nó ngủ, Toài nghĩ thầm, đời thằng lính pháo cao xạ ngủ thêm một phút nào, hay phút ấy.

Thái ra ngoài hầm pháo hỏi Toài:

– Anh để lính ngủ bệ rạc thế kia, Đại đội trưởng xuống trông thấy, ông ta lại mắng cho vuốt mặt không kịp bây giờ.

Toài nói toang oác:

– Kệ cho chúng nó ngủ, ông ấy còn có thằng y tá, thằng quân khí nó hầu. Đời thằng lính pháo lúc nào cũng như bị nướng trong lửa, cứ đòi mũ mão cân đai thì đánh nhau thế quái nào được. Vả lại buổi trưa bố mày ít khi ra khỏi hầm chỉ huy, đứng trên ấy quát tháo, việc gì ngang mắt, khệnh khạng xuống đến nơi, lính của tôi dù có vớ được cô nào ngủ vụng cũng kéo xong quần, đứng dậy rồi.

Toài cười phà phà, tiếng nói nghe oang oác. Âm thanh phóng ra khỏi ngực anh ngỡ như vập vào cái gì, thứ đó sẽ vỡ ngay. Cần phải báo cáo tình hình khẩu đội sau trận đánh, Toài đứng luôn trong hầm, không cần nhô đầu lên, bắn luôn thứ tiếng pháo mõ ấy cho Lộc. Anh em trong đơn vị vẫn đùa gọi Toài là mõ làng.

Thái chăm chú nhìn Toái hí húi cắm cành ngụy trang trong lòng hầm pháo, hỏi đùa:

– Ông Toài định cắt cơm trưa của khẩu đội hả?

Toài ngẩng lên, xua tay:

– Ấy ấy. Kiêng! Kiêng! Đừng nói vậy ông Thái. Lấy lưng cơm ăn với nước mắm gạo rang chứ gì. Hay là vừng lạc. Một mảnh hạt lạc cõng mười hạt muối. Thưa ông A trưởng chỉ huy, sẽ có ngay đây.

Toài tất tả chạy vào lán lay chân Viên. Cậu pháo thủ số hai lưng đặt trên tấm chăn chiên dấp nước rải lên thảm, từ mông chòi ra ngoài, hai chân đi giày cao cổ ướt lõng bõng. Thái cúi xuống, mặt vấp vào một chiếc chăn chiên ngâm nước rồi để nguyên như thế căng ở phía cửa lán, nước nhỏ xuống tòng tõng. Anh thấy cay sóc nơi sống mũi. Lính ta khổ vì nắng, bất cứ cách gì có thể giảm được chút nóng đều đem ra thi thố với đồi sỏi và gió tây.

* * *

Đăng xách cái đĩa nhôm hai ngăn, một tay cầm xoong, chân chạy gằn, mắt vẫn ngước lên quan sát bầu trời.

Cậu chàng thụp xuống, vớ lấy đĩa vừng lạc lắc lắc như người ta sàng gạo, quờ tay định gạt tất cả những mảnh lạc to sang đĩa mình. Thái khẽ ghè cái muôi đang xúc cơm vào tay Đăng, mắng:

– Cậu láu cá nó vừa vừa thôi. Dễ thường pháo thủ người ta thích ăn toàn muối trắng, còn thứ ngon cậu hớt sạch.

Đăng cười hềnh hệch:

– Người nhà làm nuôi trưởng, chúng em phải được phận nhờ chứ ạ.

Năm cái đĩa đặt thành hai cạnh xoong cơm, Thái đếm thấy vẫn còn thiếu một chiếc, dừng tay chia:

– Xoong lấy cơm của xê bộ đâu?

– Đây, của “lão” đây. Đại đội phó Xương cắt giọng ồm ồm.

Xương bước chậm, đầu lắc lư, tay vẫy mạnh cho cái đĩa trắng bắn hết nước, miệng cười độ lượng, tiến về phía tốp chiến sĩ đang quây lấy Thái ào ào. Xương có nước da đen cháy, vầng trán thắt hẹp, khuôn mặt lại bầu ra, đường vòng cong của khuôn mặt khép lại ở khuôn miệng rộng và cặp môi dày nở bung, khiến ta có cảm giác anh luôn cởi lòng, một con người dễ dãi. Trước khi nhập ngũ Xương dạy học, trong đại đội anh thân với Thái nhất, họ như hai anh em.

Đại đội trưởng Lộc bỏ giấc ngủ trưa ra đứng trong hố chỉ huy từ lâu. Anh nhấc chiếc dùi kẻng định gõ một hồi báo động, nghĩ sao anh lại thôi, chỉ cầm nó lăm lăm ở tay. Lộc nói gần như quát:

– Các ông bày cỗ chờ máy bay đến hả?

Có khác gì cái chợ con. Cậu Thái xem cái đĩa nhôm trắng để như thế có coi được không?

Xương giục:

– Ông nào nhận cơm xong bê về đi. Đại đội trưởng đang làm toáng lên kia kìa.

Đăng bẻ một cành bạch đàn che quấy quá lên cái đĩa hai ngăn, chạy về hầm trực ban trinh sát. Lộc quát lên:

– Cậu Đăng đứng lại đã. Đang giờ cao điểm bỏ vị trí trực ban đi lấy bát cơm, máy bay đến ai báo động cho đơn vị.

Đăng chống chế:

– Tôi lấy cơm, mắt vẫn nhìn trời đấy Đại đội trưởng ạ!

Quả đúng như Đăng nói, đứng ở chỗ chia cơm đôi mắt đồng thau được mệnh danh là mắt lửa con người vàng của Ngộ Không, vẫn “quét” khắp bầu trời.

Lộc vẫn quát:

– Cậu Đỗ đâu?

– Có. Tôi đây ạ!

Đỗ chui trong hầm thông tin ra, đầu mượt bóng ,tay kẹp cái nhíp nhổ râu. Lộc đập mạnh cái dùi kẻng xuống mặt hầm.

– Cậu cũng làm việc riêng. Tôi đã ra lệnh cấm trực ban không được làm việc riêng cơ mà. Cho thay trinh sát trực ban ngay, cậu Đăng bỏ vị trí quan sát trong giờ cao điểm.

Đỗ xị mặt, ậm ự trong miệng ngầm oán Lộc “có thằng A trưởng giỏi ông bắt thay trong giờ cao điểm. Lấy ai mà thay”. Cậu ta vênh cằm lần nhổ râu.

Đăng đứng quay lưng lại phía Lộc tránh đôi mắt gay gắt nhìn như xoáy lấy mình. Cậu ta giơ ống nhòm lên mắt và “tóm” ngay được hai chiếc F8 từ rất xa, chúng mới chỉ nhỏ bằng hai hạt đỗ đen. Nhanh như chớp Đăng nhẩy vọt lại chỗ chiếc kẻng, vớ lấy dùi gõ liên hồi.

– Hướng 34 hai F8 bay thẳng vào!

Thái chộp lấy nắp nồi quân dụng đậy vội lên cái xoong trắng đựng cơm, giơ chân đá nó vào bụi sim, rồi lao ngay đến đứng cạnh Đăng.

Hai chiêc F8 bay rất thấp. Loại máy bay này có sở trường bay lắt léo. Tên phi công cho máy bay ngóc lên chúii xuống như hai con cá sộp. Hai chiếc F8 nghiêng hẳn cánh bay dọc đội hình trung đoàn pháo cao xạ Sông Châu. Thái nhắc khẽ bên tai Đăng, dùng ống nhòm bám sát, thể nào hai thằng này vọt sang bên kia Truông Bồn rồi nó cũng quay lại.

Hai chiếc F8 quay lại thật. Chúng lượn lờ phía xa lừa cho mặt đất không chú ý đến nữa rồi mới bất ngờ hạ thấp độ cao bay gần như song song vào thẳng đội hình các trận địa pháo. Trong mấy giây, một chiếc vọt lên trước, rồi lại tụt lại phía sau chiếc kia như làm trò chơi ú tim.

Bất thình lình đại đội một pháo 57 ly trực thuộc trung đoàn nổ một điểm xạ ngắn. Chiếc F8 lật mình, phơi cái bụng lóa sáng. Các pháo thủ reo ầm lên “cháy rồi”. Chiếc máy bay lật sấp ngay lại làm mọi người chưng hửng. Lộc hạ lỏng tay cờ. tay kẻng. Thái nói nhanh như không chủ nói với ai.

– Nó thăm dò hỏa lực đấy. Đừng đánh!

Hai chiếc F8 rít lên như còi bay vèo qua trên đầu trận địa. Thái liếc nhanh thấy mặt Lộc hơi tái đi. Ý nghĩ trong đầu Thái vụt lóe như một tia chớp, bọn phi công Mỹ toàn những tên thông minh rất “cáo”, không khi nào chúng bay sóng đôi đủ thời gian cho đạn cao xạ tầm thấp xơi gọn. Địch trinh sát trực tiếp bằng mắt thường chuẩn bị cho một trận đánh quyết liệt đây.

Thái sắp quang gánh lủi thủi xuống khỏi trận địa.

Từ hầm pháo khẩu đội một, Toài ngoác miệng như gào:

– Có ông Thái đứng giữa trận địa, chúng tôi yên tâm. Trinh sát ú ớ bọn tôi run lắm. Quản lý mục tiêu không chặt, để xổng một thằng F8 là bỏ mẹ.

Lộc hỏi vọng xuống:

– Đồng chí vừa nói run cái gì đấy, hở đồng chí Toài?

– Run, sợ rốc -két nó xỉa vào lưng chứ còn run gì nữa ạ!

Lộc không nói gì nữa, nhìn theo Thái gánh lỏng chỏng mấy cái xoong nồi, cái đen, cái trắng lững thững xuống đồi, Xương nói với theo:

– Chiều mang cơm chính, gánh nặng nói thằng Chư Rỗ nó gánh cho. Bảo với nó rằng Đại đội phó phụ trách hậu cần dặn thế. Thái chưa khỏe hẳn, tay còn đau, đừng gắng. Phải giữ sức khỏe rồi mấy hôm nữa đánh to, moi đâu ra người.

Lộc ngầm nhìn theo người Tiểu đội trưởng bị giáng chức. Cậu ấy có chào mình không nhỉ? Có chào, nhưng là chào lấy lệ, chào cho qua chuyện, cho phải lẽ thôi, chẳng có chút tình cảm nào cả. Lộc thoáng ghen tị về mối quan hệ giữa Xương với Thái. Chúng nó vừa như thầy trò, vừa như bạn bè. Thái học gần xong đại học song nó vẫn là học trò, vẫn còn những mặc cảm và cần sự dìu dắt, nâng đỡ của người thầy. Còn Xương là giáo viên cấp I, tuy thế vẫn có phong thái người thầy của Thái. Xương giơ hai tay như đôi cánh ra che chở cho Thái. Đôi cánh tay có vẻ ngắn và bé cho một con chim đã lớn song vẫn cần che chở. Lộc nghệch miệng nheo đôi măt vòn đuôi lại, cười ngậm ngùi.Anh học hết lớp bảy, vào bộ đội học bổ túc qua phổ thông và anh tự coi mình là Đại đội trưởng trí thức duy nhất trong trung đoàn. Trong đại đội Lộc nể vì song cũng tị hiềm với Thái. Cái chức danh lính đặt lên vai nó có vẻ quá tải tuy nó chịu đựng và còn tỏ ra giỏi giang nữa. Chà sát với nắng, gió Tây như vậy nước da không đen, mặt chỉ hơi đỏ sậm. Đôi mắt to, đuôi dài, mơ màng, vậy mà có lúc như bùng lửa, chói lên rừng rực. Ở Thái hình như được trời phú cho cái linh cảm dự báo lành, dữ, cái linh cảm nói ra ai cũng ngờ vực, thậm chí còn cười nhạt, dè bỉu, dù vậy nó không thể thiếu trong những cuộc đọ sức quyết định. Lộc nhìn sang ba trận địa pháo 57 ly ở dải đồi trọc xa xa. Nhà bạt giăng ra trắng lốp. Chiếu mắt kỹ một tý còn thấy rõ những chiếc áo bờ lu dông chiến sĩ mặc bạc trắng. Lộc khẽ rùng mình, sao các bố chủ quan thế không biết. Địch tổ chức trinh sát lại bằng mắt thường, các trận địa pháo ở đây quen thuộc đến nỗi chúng không cần dùng khí tài để chụp ảnh, nội nhật chiều nay, hoặc ngày mai chúng sẽ đánh lớn. Anh em chủ quan thì cán bộ phải tỉnh táo chứ. Lộc vào hầm thông tin định quay máy điện thoại gọi Tham mưu trưởng Đoàn Cung. Nghĩ tới cái ngón út cong cong đầy vẻ khinh thị của Cung giơ ra trước mặt khi nói về “xê” 8 của mình, mắt Lộc tối sầm. Anh quay một vòng máy điện thoại, chợt ngừng, rồi đôi mắt ấy chợt lóe sáng.

* * *

Thái quảy gánh xoong nồi, xuống vũng nước ở con khe nhỏ rửa mặt, nhân tiện rửa chiếc nồi quân dụng nhớp nháp nhọ nồi dính mỡ hóa học. Cái anh mỡ hóa học dây vào chỗ nào là đại khó rửa, làm tay chân Thái lúc nào cũng lọ lem.

Anh vẳng nghe có tiếng sấm ở dãy núi phía Tây. Tên dãy núi là gì nhỉ? À, tên là Thiên Nhẫn – ngàn ngựa, ngàn con ngựa bị quất lồng lên trong nắng và gió Tây. Chiều nay thế nào cũng có một trận mưa giông. Vào mùa màng đất này bao giờ cũng như được hưởng một ân huệ đặc biệt của thiên nhiên. Suốt mùa xuân, mưa xoa bàn tay mát lành nhẹ nhẹ lên mặt đá sỏi. Mưa xuân ngạt ngào hương vị, nồng nàn sức sống, đuối dần đuối dần, đất bắt đầu bị vắt kiệt, lo hoảng lên trước mùa gió nắng lơ lửng ở đâu đây. Đất trời lả đi trong trận nắng tháng ba.Thế rồi, bất thần sấm vỡ giọng và mưa giông dội ào ạt xuống lớp lớp đồi sỏi cùng với những thửa ruộng nằm giữa những con khe nhỏ khô cằn.Cây cối mỡ ra, vụt lớn phổng lên như tự nhận biết mình phải lớn rồi đâm nụ, rồi ra hoa, rồi vào quả, rồi vội chín và con người cũng vội thu hoạch. Lớp cây nào chậm mọc chưa kịp làm xong thiên chức cao quý, dâng hiến sự chắt lọc từ đất đai cho sự sống thì bị đày đọa, chết lặng đi, chết mòn mỏi trong mấy tháng hè và đầu thu, gió nóng ầm ập đổ về bất ngờ, dữ dội, ác không kém những cơn bão nhiệt đới. Mưa giông giống như một ân huệ cuối cùng trước một tai họa lớn.

Thái ngồi xuống sát bờ, nhúng hẳn hai chân xuống nước. Lúa chín rũ, dân không dám đi gặt. Cách đây mấy hôm lá lúa còn vàng sậm quật không ngã hôm nay đã thâm lại, bông rục xuống. Nhiều bông gãy gục, bám lủng lẳng sát thân cây. Trong thung lũng bé con con, bom từ trường ghim chôm chổm. Chỗ nào đám lúa giạt ra, thành khoảng trống to bằng cái nong, y rằng chỗ ấy có bom từ trường. Dân sợ không dám mang liềm, hái, vì có sắt thép, nên đến ruộng lúa mà chỉ đứng đầu bờ??? Có nhà liều vào sát bom dùng tay dứt từng bông, quả bom nổ bất thình lình, vùi luôn cả người và nắm lúa cầm tay.

Hễ chỗ nào bom nổ xong, bà con nhào đến gặt. Cắt vội nẹn, lại chổng mông bới những bông bị đất bom vùi. Bới mà mắt vẫn phải dè chừng, nhớn nhác ngó xem quả bom ở gần đây có nổ thì nằm xoài ngay xuống. Dán chặt thân người xuống mặt ruộng, nhắm mắt trong nỗi sợ hãi lặng người, quả bom nào nổ xa hòn đất nhỏ rơi xuống đầu, xuống lưng đau điếng nhưng còn dậy được. Nếu quả từ trường tự hủy ở ngay gần tảng đất to bằng cái thúng táng xuống người thì nằm chết thẳng cẳng luôn. Đánh vật với cái chết để giành lấy hạt lúa. Biết có thể chết nhưng nhìn thấy hạt lúa chín vẫn phải lăn vào giằng lấy vì cái hạt ấy nó nuôi sống người…

Một cơn gió thốc qua mặt đường ngầu bụi. Đám bụi đỏ ngầy ập vào hàng bạch đàn, bám suốt từ gốc lên đến tận ngọn làm cho cây nào cũng như bị vít đầu xuống. Trong đám bạch đàn đỏ cạch màu đồi đá ong có một con đa đa thốc lên tiếng kêu: xúc – con tép – kho cà. Con chim có tiếng kêu đến lạ tai, thứ âm thanh dõng dạc, đanh buốt óc. Nghe tiếng kêu trí tưởng tượng bắt ta phải nghĩ đến một kẻ đực trễ cánh, gân cổ, phồng mồm lên mà hét.

Người đi bẫy đa đa cự phách nói rằng mùa động dục, con đa đa đực suốt ngày ngoác mồm quát tháo, bước dạo quanh cái vương quốc của riêng nó. Đa đa phân chia sườn đồi thành vùng, mỗi vùng một đôi (thực ra chỉ một con đực) trị vì. Suốt ngày nó hét “mi muốn chết đấy à?” và con chim sẵn sàng đánh nhau đến chết để giữ tô giới nó còn dám tấn công cả chồn là loài thú thích ăn thịt chim đa đa, dù phải chết, con chim cũng minh chứng tính gia trưởng cố hữu của nó.

Đất mình thật lạ, đến con chim cũng chuộng một thứ cắt cứ phân vùng và một sống, một chết với tư tưởng gia trưởng. Bất chợt Thái nghĩ đến Lộc, dù đã cố gạt đi, vẫn thấy nhói lên một cái gì hao hao giống nhau giữa người đàn ông này với con chim. Anh ấy tốt, ai cũng nhận thấy lòng tốt, một kiểu lòng tốt muốn người khác đứng trong cái ô che của mình. Cái ô ấy che đỡ, dung túng và được nhìn nhận như là một nếp sống hết sức đẹp??? Tôi đã tạo ra anh hoặc là tôi đã cho anh một phần cái tôi có, một phần sự giúp đỡ trong sự che chở của tôi, sự dung túng bật tín hiệu của tôi. Và vì vậy anh phải đứng trong cái đại gia đình ấy, trong sự hổ lốn phe phái, trong sự “đoàn kết” ấy. Anh đứng ra ngoài, đi một con đường mới khác, thậm chí anh nghĩ khác liền bị coi như một sự phản bội, bị quy chụp vào sự kết tội nặng nề, vi phạm đạo đức truyền thống. Đấy, cái lô cốt cố hữu chưa hề bị công phá đè nặng lên lịch sử, khuynh đảo hiện vật, đặt mớm đầu cầu của nó vào tương lai, là cái bóng trùm lên cuộc đời mỗi con người.

Con chim vẫn kêu “Bắt lấy nó – chà chà” Thái đứng lên vùng chạy, như thể chạy trốn con chim vô tư kia.

Thái về đến nhà bếp, mồ hôi ở lưng áo ướt đẫm, mặt nóng bừng, khô bỏng, gió nóng hút khô hơi ẩm trên da mặt. Anh lảo đảo đặt gánh xuống sân.

Chợt đâu có người gọi ở phía sau, Thái quay phắt lại, thấy Đăng đứng sát sau lưng. Mặt Đăng tái sạm trong khi đôi mắt trong sáng ánh lên chớp chớp như sắp khóc.

– Anh Thái ơi, Đại đội trưởng nói anh bàn giao bếp lại cho anh Chư Rỗ, mang quân tư trang về ngay đơn vị. Ba lô của anh đâu, để em đeo. Nhanh lên anh Thái!

Chương năm

Đội tiền trạm ngủ đỗ lại ở một làng phía nam sân bay Vinh. Sáng sớm Tham mưu trưởng Đoàn Cung dẫn cả đội đi trinh sát địa hình. Ông cắp tấm bản đồ Vinh – Bến Thủy bọc trong giấy bóng mới tinh, bước đi oai vệ. Giữa thanh niên bạch nhật Thái mới có điều kiện ngắm kỹ tham mưu trưởng trung đoàn mà theo cách gọi hơi quá lời của Lộc “một cái thùng ô tô đựng rượu và thịt chó”. Da Đoàn Cung hung hung đỏ, màu da bốc men thường thấy ở những người gắn vào mỗi bữa cơm vài chén rượu cuốc lủi khai vị.

Tham mưu trưởng hay nhìn ngước lên, cố ý khoe vầng trán cao, đôi mày rậm có những sợi to dài hoặc xoăn bắt đầu lốm đốm bạc, đôi mắt to mí mọng như hơi sưng, khi ấy dữ và đầy vẻ thông tuệ, đầy quyền thế. Đoàn Cung cẩn thận trải tấm bản đồ xuống mặt cỏ, ấn khẽ những ngón tay to mập, khuyên một vòng tròn hẹp ở sát đầu phía nam đường băng. Ngón tay đi quá đà, chạy rộng ra, phác một cử chỉ vu vơ. Ông hỏi tốp trinh sát tiểu đoàn năm mới sát nhập vào trung đoàn pháo cao xạ chủ lực của ông, giọng hơi sẵng:

– Tốp các cậu do ai chỉ huy?

Thanh đặt một tay lên ống nhòm, tay kia vuốt đám tóc cho lộ vầng trán khổng lồ:

– Báo cáo Tham mưu trưởng, tiểu đoàn có cử đồng chí Thái A trưởng chỉ huy đại đội tám quản lý hành chính, còn về tác chiến và công việc chuyên môn hoàn toàn dưới quyền ban tham mưu.

– Cậu Thái đâu?- Cung to giọng đưa mắt tìm.

Thanh đập tay vào lưng Thái, mau miệng:

– Dạ đây- Cặp môi cậu ta loe quá cỡ. Người mẫu của chúng tôi đây. Đẹp trai nhất và là một trong số ít người có trình độ văn hóa cao nhất tiểu đoàn.

Giọng Thanh tưng tửng có phần xách mé vì thiếu hẳn thái độ vâng chịu và khúm núm, làm Đoàn Cung khó chịu. Ông nhìn nhanh Thái để nhận mặt, vầng trán hơi cất lên. Cái hất trán ấy hàm mọt nhận xét của người trên: thử xem cậu có xứng với lời giới thiệu ba hoa của thằng cha miệng vạc dầu kia không!

Thái nhìn lại Cung bằng đôi mắt trầm tĩnh. Đôi mắt to trong sáng và lộ ra những suy tư sâu kín. Đôi mắt ấy cũng nói với Cung: “Cậu ấy quá lời đấy ạ. Nhưng thưa Thủ trưởng, tổ chúng tôi toàn những thằng trẻ tuổi đẹp trai, sản phẩm của mái trường xã hội chủ nghĩa thập kỷ 60, Thủ trưởng nhìn kỹ mà xem”.

– Cậu Thái ở đại đội tám phải không?- Đoàn Cung hỏi với sự tinh ý đặc biệt của con người nhiều năm làm công tác tham mưu.

– Vâng- Thái đáp rắn rỏi.

– Đại đội cậu Lộc hả?

Chữ “cậu” Đoàn Cung ném văng ra khỏi miệng, bổng lên như trọng tài tung quả bóng qua lưới để chọn bên séc vít.

Thái chạm ý nhếch mép cười mỉm. Sau cái cười ấy Đoàn Cung ngầm hiểu rằng trong đầu cậu này dầy rẫy những tư tưởng chiến thuật còn rơi rớt kiểu du kích chiến của thằng cha Lộc. Ông đứng dậy, rung rung hai đùi, cái bụng to đẫy, phưỡn ra phía trước, lắc mạnh. Cánh tay Đoàn Cung đưa lên, khoát rộng về phía nam sân bay.

– Ở khu vực có ba trận địa, tiểu đoàn các cậu cụm vào, tựa lưng nhau mà đánh. Còn Sở chỉ huy tiểu đoàn thì kia – Cung rướn lên chỉ: kề đường tàu, chỗ có mấy bụi tre hoang và đám cây cộng sản ấy.

Đoàn Cung vừa nói dứt lời, Thái hỏi ngay:

– Thưa Tham mưu trưởng, sân bay Vinh máy bay ta còn hạ cánh, cất cánh không ạ?

– Còn. Vẫn có những chuyến lên xuống đột kích về ban đêm.

Thái chộp luôn ý đó:

– Máy bay lên xuống ban đêm, ba trận địa ôm sát đầu đường băng rất nguy hiểm. Không an toàn cho cả máy bay ta và cả cho chúng tôi.

Miệng Đoàn Cung ráo hoảnh:

– Lui ra một chút cũng được! Tôi cho phép.

Thái vẫn hỏi bằng giọng chất vấn:

– Báo cáo Tham mưu trưởng như vậy các đại đội phải cấu trúc trận địa mới!

– Ừ, đúng phải.

Thái dấn thêm:

– Báo cáo, nghĩa là phải cho một bộ phận đơn vị từ nam Truông Bồn xuống đây trước, làm trận địa mới.

Giọng Đoàn Cung nẩy lên:

– Đúng! Phải!

Thái dằn lòng mới giữ được sự nhã nhặn phải lễ trước cách trả lời có vẻ đồng tình nhưng thật ra biểu lộ một thái độ rất coi thường những lập luận ấy. Cặp môi bóng đỏ như sẵn sàng trôi tuột vào họng hơi nhếch sang bên ra ý bảo: cậu toàn nói những điều người ta biết cả rồi. Nhẽ ra không nên hỏi. Tốp trưởng một nhóm trinh sát biết mùi đánh nhau với máy bay Mỹ không nên hỏi như vậy.

Lấy lại điềm tĩnh, cân nhắc một lát. Thái nói chậm rãi:

– Thưa Tham mưu trưởng. Đơn vị tôi quân số ít, như tình hình hiện nay san đội ra rất bất lợi. Chúng tôi đã tìm gặp Xã đội trưởng xã sở tại tìm hiểu tình hình địch và được biết, đoàn Vạn Kiếp pháo trung cao khi ở Hà Nội “chồm” vào A2, vọt qua Truông Bồn, dừng chân ở Nam Thái, bị địch chụp một mẻ. Đến Nam sân bay Vinh cụm lại ở ba trận địa trung đoàn giao cho chúng tôi, lại bị bồi thêm một trận nữa thua liểng xiểng. Đoàn Hàm Tử, Đoàn Chương Dương cũng rơi vào tình huống tương tự ở nam Truông Bồn. Chúng tôi thấy địch đã biết rõ các trung đoàn phòng không tinh nhuệ của ta vào tăng cường cho chiến trường A2 đều tập kết ở vùng đất đỏ Phủ Quỳ, rồi từ Phủ Quỳ qua thị trấn Đô Lương, vượt đèo Truông Bồn trước khi trời sáng phải dừng lại ở khu vực Nam Thái, nên chúng đã chuẩn bị để gặp các “quả đấm” của chúng ta ở đây. Thưa tham mưu trưởng, ta phải chớp thời cơ lật cánh khỏi những đồi đá ong trơ trọi ở Nam Thái, chiếm lĩnh ngày càng nhanh càng tốt các trận địa có sẵn tương đối kiên cố trong thành phố Vinh.

Đoàn Cung ngước cao hơn vầng trán. Khuôn mặt da hung đỏ, đánh rơi mất vẻ thông tuệ thường nhật, mà thoáng nhanh sự ngơ ngác, mồ hôi rịn ra lấm tấm trên cái sống mũi thấp, làn da quanh hai gò má chuyển sang mầu hung nhợt. Những thông tin và lý sẽ Thái đưa ra đều rất xác đáng. Làm công tác tham mưu lâu năm, ông thừa biết tốp trinh sát tiểu đoàn năm có tư duy sắc sảo, nhạy bén về tình hình địch, ta. Ông cũng biết rằng trung đoàn nằm ở Nam Thái hiện ở trong tình thế bất lợi cả về chiến dịch và chiến thuật. Tuy nhiên ở con người ông sự tự nhận ra điều mình sai bao giờ cũng chậm chạp. Ông có một lập luận quái gở, tự nói ra điều chưa hoàn thiện của mình trước cấp dưới là một cách đầu hàng. Và cách ngụy biện đầy “khí thế tiến công ấy” chuyển qua trạng thái tình cảm giống như cảm hứng về sự phủ nhận kẻ dưới quyền rõ cái đồ trứng khôn hơn vịt! Đoàn Cung vẫn bám vào hy vọng trung đoàn đang sung sức, đầy đủ người và xe pháo, cụm lại, tựa lưng vào nhau đánh một trận lớn làm nhụt nhuệ khí lực lượng phi công Mỹ đang ỷ thế đông máy bay bắt nạt các đơn vị pháo cao xạ. Ông gạt phắt những lý lẽ Thái đưa ra, vầng trán hói cau lại, nói một cách lạnh lùng:

– Các cậu có thể lùi ra xa đường băng nhưng chỉ được phép từ tám trăm mét trở lại. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến, pháo 37 ly chỉ được phép như vậy.

Ông vội vàng quay đi để rớt lại cái giọng đầy quyền uy nhưng cũng đầy sự lừa dối và lấp liếm tội lỗi. Chân ông bước hấp tấp, mét mặt hầm hầm, vội vã đuổi theo một cái gì không thể nắm bắt được, nhưng lại sợ nó chạy mất.

* * *

Thái dẫn tổ trinh sát xộc vào nhà Xã đội trưởng. Chả lẽ Đoàn Cung bỏ đi vội không nhắn lại tin tức gì.

Người Xã đội trưởng, một cựu chiến binh thời chín năm, dáng điệu và phong thái đặc biệt xứ Nghệ, có đem đi trộn vào đâu cũng chẳng lẫn được. Người anh thấp đậm, to bè, cái đầu vuông húi cua, tóc dựng đứng trước trán, khuôn miệng rộng ngoác được khuyên vòng lại bằng căp môi thẫm vì nghiện thuốc lào. Cặp môi ấy luôn mấp máy, như lúc nào cũng sẵn sàng tuôn ra những câu chuyện trạng cười rung cả nhà. Anh mời cả tốp uống nước chè xanh gọi là “nác mới” rồi cố lấy bộ mặt quan trọng mở túi áo ngực lấy ra một tờ giấy nhỏ đưa Thái. Luật uống nước ừng ực, lé mắt nhìn tờ giấy. Hóa đặt bát nước xuống, đưa cặp mắt lửa chiếu quanh căn nhà. Còn Thanh đứng sát Thái, nghển cổ, nhanh như mắt chim cắt. Cung viết vắn tắt: “Ở nhà xảy ra tác chiến lớn. Xe tiềm trạm đi về phía làng Đỏ. Tổ trinh sát D5 không được phép quay về Nam Thái, tìm mọi cách đi sâu xuống Bến Thủy nhận ngay trận địa. Trung đoàn sẽ thay đoàn 12A pháo địa phương Nghệ An, chốt giữ trọng điểm quan trọng này!…

Thái gấp tờ giấy ngược chiều gấp cũ, cho vào túi áo, ngồi thừ mặt ra một lúc. Xã đội trưởng cho biết thêm, ban chiều tham mưu trưởng Đoàn Cung có hỏi anh rất kỹ về tình hình hoạt động và cách đánh phá của máy bay Mỹ ở khu vực Vinh – Bến Thủy. Ông còn căn vặn có phải một cậu trinh sát đã hỏi tôi về tình hình địch ở đây không? Hỏi về cách đánh của máy bay hải quân Mỹ. Hỏi cách phòng tránh bom bi, bom từ trường…Tôi đáp răng “có”. Sau đó cả đoàn chộn rộn cả lên, giữa tham mưu trưởng và chủ nhiệm trinh sát xảy ra va chạm, họ tranh luật gay gắt một lúc lâu.

Đồng chí liên lạc trên Nam Thái xuống báo tin, đại đội một pháo 57 ly bị địch tập trung lực lượng công kích dữ đội suốt ngày, đi trúng cả bom sát thương, bom pigiăng (nổ trên không), cả rốc-két và bom bi…bị mất sức chiến đấu. Các đại đội trực thuộc trung đoàn khác máy bay địch rải bom bị nổ chậm dày đặc, bộ đội không có cơm ăn đến tận đêm vì anh nuôi không thể nào gánh cơm lên đồi.

Thái loạng choạng đứng lên, lòng bối rối. Nỗi lo lắng lơ lửng trong đầu từ hôm anh gánh cơm ra trận địa gặp hai chiếc F8 bay thấp, trinh sát dọc đội hình trung đoàn, đến hôm nay đã thành một sự thật bi thảm và tàn khốc. Ai sẽ chịu trách nhiệm về những trận đánh thất thiệt lớn, đổ nhiều máu như thế này trong chiến tranh.

Tại sao Tham mưu trưởng không đợi tổ trinh sát tiểu đoàn năm về đủ rồi hẵng đi. Vội thì vội thật nhưng không phải không thể đợi thêm nửa tiếng đồng hồ. Có lẽ Chủ nhiệm trinh sát và Đoàn Cung va chạm vì chuyện này chăng? Hay anh ấy cũng phản đối Đoàn Cung về cách bố trí đội hình chiến đấu có phần giễu võ giương oai ở Nam Thái đến nay được lập lại ở khu sân bay Vinh.

Dù sao tổ Thái cũng không nên gặp Đoàn Cung vào lúc này. Trong căn nhà nhỏ bỗng trĩu nặng không khí dè dặt. Ai cũng ngại nói ra điều gì không phải với đồng đội vừa nằm xuống trong một trận tao ngộ có phần bốc đồng và nhẹ dạ, không đáng có và dễ dàng tránh được.

Trước mắt tổ của họ còn một gánh nặng hơn, là phải đơn độc hành quân bộ ban đêm trên con đường xa ngái, ở một thành phố lạ, lúc nào máy bay cũng rập rình ào vào ném bom tọa độ.

Cuối cùng Thanh vẫn không giữ được cho miệng mình nghỉ lâu, thứ ngôn từ liên liến Thanh xổ ra kéo ý nghĩ mọi người về đơn vị đang rối tinh, rồi mù vì hàng trăm công việc sau trận đánh:

– Ngoài “xê” một pháo 57 ly bị đánh rất nặng ra, các đại đội trực thuộc khác đều bị sứt mẻ. Đã đành rằng pháo 57 dễ lộ hơn nhưng ở đây lại là cái khôn, sự mưu lược và từng trải. Các Đại đội trưởng pháo 37 ly đã từng phải giữ bí mật trận địa cơ động thần diệu, tránh những cơn mưa pháo ở vùng bờ biển Thanh Hóa nên chả bố nào dại phơi mình ra theo chiến thuật “quả đấm thép” của ông Cung. Phen này nhà trí thức Lộc thắng thế, phạt đền ông Cung trong hội nghị quân chính ra trò đây. Đúng, phải đập cho nứt cái thùng tô nô chứa thức ăn ấy ra!

Luật đứng ở góc nhà tức tối, đôi mắt dài nhìn xói xuống chân, miệng làu bàu tiếc rẻ cái trận địa cậu cùng hai cô dân quân đào dở. Hai bên đã cắn với nhau đến độ ghi địa chỉ, chép thơ tặng nhau. Luật đã nhanh tay vuốt mái tóc dầy và dài của con gái vùng Vinh. Thẳng cha còn lập mưu lừa cho một cô quay lại rồi hôn đúng vào môi cô rất nhanh khiến cô gái thẫn thờ. Hắn thở dài, cằn nhằn riếc Đoàn Cung là gà tồ. Thái phải gắt lên cậu ta mới giúp Hóa mở bản đồ, rồi đo độ dài đường hành quân. Hóa dùng địa bàn năm tác dụng đo đi, đo lại rồi quả quyết tuyên bố hơn mười cây số. Cẩn thận hơn cậu ta đặt địa bàn, quay lại hướng Bắc, rồi cùng Thái dự kiến địa điểm Đoàn Cung đổ quân xuống.

Trước khi tổ trinh sát lên đường, anh Xã đội trưởng bê ra một rổ khoai, đặt phịch giữa nhà. Anh chọn những củ không bị toét vỏ nhét vào túi quần từng người. Khoai đất cát da mềm, mới luộc đang còn nóng, xiết vào đùi khiến Luật nhảy lên thích thú.

Tốp trinh sát đi lặng lẽ. Tiếng vỏ ống nhòm va vào hông lịch kịch. Ai nấy đều lấy khoai trong túi lặng lẽ bóc ăn, không người nào lên tiếng, mỗi người đuổi theo một ý nghĩ riêng. Thái đi trước, dáng cao bước nhanh, Thanh cúi cái trán gồ về phía trước. Luật bước phăn phắt vẫn ngoái nhìn lại phía sau. Hóa nhỏ con, bước dài chắc chắn luôn dướn lên cho kịp cả tổ.

Đang đi bỗng Luật ú ớ không nói được. Thái quay phắt lại, thấy cổ Luật cứ ngắc lên.

– Thái ơi…tôi bị…-cậu ấy nghển lên thở.

Thái ngoắt người, đỡ Luật, tay chạm phải cái vật mềm mềm cậu ta vẫn nắm trong tay. À, khoai lang, Thái vỡ lẽ, cậu chàng bị nghẹn vì ăn phải củ khoai bở quá, lại không có nước.

Luật ngửa cổ, ngực dô lên. Trời tối như bưng lấy mắt không biết chỗ nào có nước. Đi liều ra xa lỡ gặp bom từ trường, trong người có sắp thép nó nổ thì bay cả tổ. Thanh cuống lên quát Luật:

– Đồ tham ăn, vẫn còn ngậm khoai trong mồm. Nhổ ra!

Luật lè ra bàn tay miếng khoai to tướng, không chịu bỏ đi, cổ vẫn rướn lên vì chưa hết nghẹn. Thanh giục Hóa:

– Cậu cho nó một tí nước đái. Giá có cô dân quân đào công sự với nó ở đây áp cái ấy vào miệng xòe xoáy họng thì hết nghẹn ngay tắp lự.

Luật ú ớ:

– Tớ không chịu được nước đái. Nôn hết!

Thanh chửi:

– Cho nó thốc mẹ nó ra hết đi,giữ cái của khỉ ấy làm gì!

Hóa nói vội:

– Thằng này háu ăn. Không có gì trong bụng nó lăn kềnh ra, không đi dược đâu.

Thái vuốt cổ, vuốt ngực cho Luật. Cậu ấy ợ ra tay miếng khoai nữa, bụng hóp lại, giục:

– Nhổ – vào – mồm – tớ…ít nước bọt!

Thanh ôm lấy đầu Luật:

– Từ thuở bé tao có mớm ai bao giờ đâu.

Thái gắt:

– Mớm đi!

Mồm Luật há ra cho Thanh dồn nước miếng sang. Cậu nuốt ực ngon lành như trẻ con. Thái bỗng thấy mình khát, khát bỏng họng và đói nhũn cả tay chân. Củ khoai bóc chưa sạch vỏ, đút túi quần cứu nghẹn cho Luật, giờ anh lấy ra tống bừa vào mồm.

Luật lại vỗ miếng khoai giữ ở tay vào mồm ăn ngon lành như chưa hề có chuyện nghẹn tí nữa tắc thở vừa rồi. Cậu ta rập rình chờ chỗ nào có ánh lửa ló ra là xộc vào xin nước uống. Song tuyệt nhiên không hề có một ánh lửa nhỏ nào. Thành phố chìm trong hoang lặng, bầu trời, mặt đất trong đêm có gì thật cổ sơ. Không một tiếng trẻ u ơ khóc. Không có tiếng con chuột chù rúc rích chạy qua đường. Cả tiếng côn trùng cũng không có, hay là vì họ đang bộn bề những ý nghĩ trái ngược nhau nên không nghe thấy. Một vài cây phi lao, cây bạch đàn bị phạt cụt ngọn, đoạn thân gốc lá xù ra, đứng chơ vơ trong đêm như những người không đầu. Một ngôi sao băng bay xéo qua rồi tắt ngấm như không có thật về sự tồn tại. Thành phố bị san bằng, giá có một ngôi nhà bị cháy,còn trơ lại bức tường đổ, chắc lòng họ đỡ lo âu hơn. Hoang rợn quá.

Lê bước tới ngã sáu, họ vấp vào cái ba-ri-e. Thấy bên trong chìm dưới sâu có ánh đèn le lói. Luật rú lên. Cậu ta chồm tới như vồ lấy ngọn đèn phòng không được bảo vệ bởi khúc bương lớn đục ra một lỗ vuông nhỏ bằng bao diêm.

Luật chui tọt vào trong nhà hầm. Vách nhà được xếp bằng đá hộc để tránh mảnh bom, mảnh pháo biển. Trạm trưởng, một người đàn ông đứng tuổi tưởng Luật hỏi đường, mỉm cười chờ sẵn. Nhưng anh bị bất ngờ, đứng bật dậy vì thấy Luật sờ tay vào chiếc bi đông anh đeo lủng lẳng bên sườn , xin nước. Phì cười vì tác phong trợn trạo của người lính trẻ, ngừơi đàn ông gỡ chiếc bi đông đựng nước chè xanh đã gần ráo đưa cho cậu ta. Chỉ còn một ngụm để giải cơn nghẹn vẫn âm ỉ hành hạ cậu ta một cách khốn khổ.

Họ lại đi hàng một , không ai tạt ra mép đường.Ngọn đèn phòng không ở ngã sáu đã khuất, bầu trời thành phố lại tối đen như thời hồng hoang.Song Thái không còn cảm giác hoang vắng nữa, họ đã gặp một ngọn đèn đứng gác và một con người.

Đang cắm cúi đi, ngẩng đầu lên Thái nhìn thấy một vệt đen dài. vệt đen ấy ngày càng rõ ra, sừng sững như ở đó bầu trời được phết màu đen đặc hơn. Và Thái đã nhận ra ngọn núi Quyết ghi trên bản đồ địa hình. Thoáng hiện trong đầu anh những trận đánh đẫm máu trên đỉnh ngọn núi anh đọc trong một quyển sách. Nhưng những nhận thức về ngọn núi cứ xa dần, xa vời không thể nắm bắt được.

Cái hiện thực đang sôi réo trong người anh lúc này là cơn đói đang cào cấu giữ dội dạ dày và khắp cả ổ bụng. Người Thái mê mụ, cơn đói ngủ cũng vào hùa với cái đói ăn, muốn kéo anh lăn kềnh ra vệ cỏ. Thái chỉ cần thốt ra một câu “nghỉ”, cả tổ sẽ thụt xuống, không ai đứng dậy nữa.

Bây giờ nếu được ngủ ngồi Thái đã thấy sung sướng lắm rồi. Mấy thằng tựa lưng vào nhau quay mặt ra các phía, ngồi mà ngủ, máy bay đến đánh thế nào cũng có đứa nghe thấy. Ngủ đi, mặc kệ trời đất, mặc kệ tất cả, trên đời chẳng còn gì hết, chỉ có cơn đói ngủ và sự chống lại nó giày vò. Ừ, sự chống lại mới đáng kể, nếu sáng mai các đơn vị bị đánh tơi tả kéo tới thì sao? Không! Không thể như thế được? Con người làm sao lại có thể coi thường sinh mạng ngưòi khác. Lấy cái chết của người khác làm vinh quang cho mình? Làm sao lại nỡ nhẫn tâm lấy thân xác đồng đội làm bậc thang tiến trên con đường danh vọng, thoả mãn lòng khát khao vươn tới quyền lực. Căn bệnh quyền lực, hiểm hoạ lớn với con người.

Có lúc Thái cảm thấy rõ ràng đang bước đi, cũng đồng thời anh thấy mình đang nằm bên cạnh vợ trên chiếc giường còn mới. Chiếc giường đóng có rẻ quạt như mặt trời mọc, cứ rung lên và đu đưa theo bước chân. Hà nằm hơi nghiêng gối đầu lên cánh tay anh ngủ say. Vầng trán hơi lộ, đôi lông mày dài, đen đậm, hơi nhíu lại lo lắng. Cánh mũi thanh tú khẽ rung theo nhịp thở. Cặp vú đã to, không mặc áo nịt làm kênh cúc chiếc áo cánh. Cái bụng ấm nóng tròn lùm lùm, uốn vồng lên. Ở bên trong ấy đứa con anh đang hình thành, nó đang máy, đang giao tiếp với anh bằng thứ ngôn ngữ kỳ diệu và bí hiểm của sự sống.

Thái mở choàng mắt, cố cho mình tỉnh mà vẫn không sao tỉnh được. Anh choài lên, nắm mạnh tay Hoá, hỏi xem đã đến ngã ba rẽ vào làng chưa. Cố mà tỉnh táo, nếu đi quá ngã ba, cả tốp sẽ mở cuộc diễu hành hàng một, như mấy lộ tiêu tới xuống phà Bến Thuỷ, giơ đầu ra hứng bom toạ độ.

Vẫn chưa tới chỗ rẽ, con đường đêm vẫn dài hun hút.

Thái lại trôi đi trong cơn mơ thức – ngủ êm dịu. Anh vẫn choáng váng nhớ lại lúc Hà lảo đảo, lao theo xe kéo pháo. Có lẽ vì thế mà anh thấy yêu Hà hơn chăng. Tình yêu của anh đối với Hà thật lạ. Chắc chắn tình yêu ấy ít bay bổng nhưng nó trần thế hơn, đậm tình hơn nhiều. Anh hầu như chưa mơ thấy những cái hôn rạo rực, mềm người song lại hay nghĩ tới một cách êm dịu cách tay trần nuột nà Hà gối đầu cho mình. Anh mơ thấy cái đêm trong ngôi nhà thờ cũ anh kê mấy cái bàn học sinh sát vào bệ thời đặt tượng chúa đã bỏ không, làm giường nằm cho hai người.

Tình yêu kỳ lạ và những đứa trẻ sinh ra cũng kỳ lạ như vậy. Chúng là kết quả những lần gặp nhau vội vàng giữa những người chưa được hưởng tình yêu. Chúng hình thành, ra đời và lại phải gánh vác những cuộc chiến tranh ngày một khốc liệt hơn.

Thái bừng tỉnh khi lao vào một hầm pháo trồng toàn cây dứa dại để nguỵ trang. Anh không biết rõ ràng tổ đã gặp ngã ba từ khi nào, hoặc là Hoá đã dắt anh tới đây. Thái vội vàng gỡ những chiếc gai cong, móc vào da thịt. Bất ngờ một người chồm lên hỏi:

– Ai rứa? Đứng im!

Cả bốn người đứng im như trời trồng. Thanh cướp lời:

– Chúng tôi là trinh sát đoàn pháo cao xạ Sông Châu đi tiền trạm.

Ngưòi gác lại hỏi bằng giọng Nghệ An bỗ bã:

– Đơn vị nớ đến thay chúng tớ hè?

Thái đáp từ tốn:

– Trên mới phái chúng tôi đi nắm địa hình và nắm địch ở khu vực Vinh – Bến Thuỷ. Còn thay hay chưa thì cũng phải tuỳ trên đồng chí ạ.

Vẫn cái giọng bộc bạch thật ấm:

– Trên đếch gì? Các đồng chí là dân trinh sát phải biết chớ, hè? Răng mà đi khuya rứa? Mà răng đi tiền trạm lại không có xe? Ở gần hả? Thanh dấn lên chóp chép cặp môi dày, chắc cậu ta định nhân dịp này tố Đoàn Cung đã bỏ tổ ở dọc đường. Thái phải bấm mạnh vào cổ tay, Thanh mới chịu im. Thái cười nhẹ:

– Có phải đây là trận địa của “Dê” 12A không đồng chí?

– Trúng rồi đó!

Thái ôm chầm lấy Thanh:

– Ôi chao. Giữa đêm tối mịt mùng mấy ông tướng cướp đã mò được đến đúng nơi cần tìm.

Người gác cũng choàng ôm lấy Thái:

– May gặp tôi chớ anh em pháo thủ gác thấy các đồng chí im im thốc lên hầm pháo, tưởng biệt kích từ sông Lam mò lên, xiết một băng AK thì khiêng nhọc, tôi là A trưởng.

Thái nghĩ tẩn mẩn, trinh sát đâu lại vừa đi vừa ngủ, cả tổ cứ mê mụ không còn đủ tỉnh táo để nhận đưòng. Họ đi như là đi trong tiềm thức. Có lẽ ngoài các trận đánh phải dồn mọi tinh lực để tính táo ra, từ ngày đơn vị đi vào vùng khói bom mênh mông, lính cao xạ, nhất là cánh trinh sát luôn sống trong tình trạng nửa ngủ, nửa thức. Ôi chao, mê man khói. Ngột ngạt khói. Sặc sụa khói. Thỉnh thoảng một cơn gió lành thổi từ sông Lam lên, hít sâu vào mới biết cuống họng lúc thường ướp trong cảm giác xót đắng vì khói.

Người khẩu đội trưởng báo đại đội rồi dẫn tổ trinh sát vào chỗ đặt bếp trong làng. Một bà mẹ tay cầm cây đèn pin bọc vải cẩn thận ra đón họ ở cái cổng có bậc lát đá. Khẩu đội trưởng thì thầm:

– Bà mẹ đấy?

– Bà mẹ nào cơ? Luật ngơ ngác hỏi.

– Rồi đồng chí sẽ biết.

Khẩu đội trưởng đến sát bà mẹ nói nhỏ:

– Có mấy đồng chí ở đơn vị mới, vừa đến trận địa, nhờ mẹ trông nom giúp.

Bà mẹ mừng rỡ:

– Pháo vô thêm à con? Ô, mừng quá hè? Không hiểu răng dạo ni hắn bay nhiều rứa không biết. Nhiều đếm không xuể.

Thanh liến láu:

– Nó ném bom hạn chế đấy mẹ ạ.

Bà mẹ chớp chớp cặp mắt ướt:

– Hạn chế là răng con?

– Là tất cả máy bay nó dồn lại để đánh khu Bốn, đánh Vinh -Bến Thuỷ mẹ ạ.

Bà mẹ cười rõ to:

– Mẹ cha hắn. Hèn chi hắn bay nhiều rứa. Bom hắn ném cũng nhiều rứa. Suốt cả ngày bom nổ. Suốt ngày lửa. Suốt ngày khói. Khói bom hắn làm mình ngợp thở.

Bà mẹ bỗng ho sặc sụa. Loạt bom toạ độ chiếc A6 rải dọc đường xuống phà khói thuốc thốc vào chỗ họ đứng. Bà mẹ nén cơn ho, hỏi thật ấm áp:

– Các cơn ăn cơm chưa, để mẹ đi nấu?

Thái thấy lòng rưng rưng:

– Dạ chúng con ăn rồi ạ!

Họ cùng nói dối. Nói dối mà không thấy xấu hổ bởi vì bây giờ ai nỡ để bà mẹ đi nấu cơm. Cũng không còn cảm giác thèm ăn tuy bụng vẫn sôi ùng ục.

Bà mẹ rũ lại giường chiếc cho tổ trinh sát nằm nhưng bốn anh em từ chối. Thái mượn bà chiếc chiếu rải xuống nền nhà phía cửa hầm rồi cả mấy cậu lăn đùng ngay ra đất. Thái dặn bà mẹ:

– Nếu có máy bay vào mẹ cũng đừng đánh thức chúng con mẹ nhé.

Bà mẹ lại ho. Thái cũng ngửi thấy phảng phất mùi khói bom. Cái mùi ấy của hung thần không thể nấp lẫn vào với mùi gì khác. Có dễ con người đã ghi nhận vào bản năng cảm giác ghê sợ, lợm mửa trước cái mùi của sự chết. Cơn ngủ đã đè nặng lên mí mắt song tâm trí vẫn còn ở trạng thái nửa thức, nửa ngủ. Thái cố xua đi cảm giác ngột ngạt. Cả vùng đất rộng lớn bị dìm trong cái bể khói đen mênh mông. Khói che lấp bầu trời, ngập tràn mặt đất, khói nấp trong căn nhà, khói lùa vào căn hầm vừa để trú ẩn vừa để ngủ. Khói đặc sệt đen đúa: tất cả, cả con người, súc vật và cây cỏ, cả mặt trời, bị dìm xuống và bị che trong khói.

Nhưng kìa, còn có vầng trăng ở đâu lại hiện ra lồ lộ, không hề bị che khuất. Vầng trăng hiện ra sau tấm màn che. Thái giật mình choàng tỉnh. Anh nhận ra khuôn mặt cô gái chắc là con bà mẹ, từ nãy vẫn lấp ló phía trong giờ vén tấm màn che màu xanh lơ, nhìn trộm mấy anh lính trinh sát đầu gối lên hộp ống nhóm, ngủ lăn quay trên nền đất.

(còn tiếp)

Exit mobile version