(Đọc tiểu thuyết Người mê của Uông Triều, Nxb Hội Nhà văn, 2016)
NGUYỄN VĂN HÙNG
Tên cuốn tiểu thuyết mới nhất của Uông Triều – Người mê gợi nhớ đến tác phẩm Everyman (Người phàm) của Philip Roth, một trong những tác gia đương đại lớn nhất nước Mĩ. Thông qua hình ảnh người đàn ông không tên, Philip Roth và Uông Triều đã kể một câu chuyện vừa riêng tư vừa phổ quát về đời người trong hành trình đi tới đích cuối của số phận. Cùng khởi đầu từ điểm cuối trong chu kì sinh học của đời người, nếu như ở Everyman, Philip Roth đã lần theo dấu vết của “người phàm” trong cuộc vật lộn dai dẳng với bệnh tật, sự hủy hoại của sức khỏe, sự suy giảm của lòng tự tin và niềm hi vọng để chế ngự và chiến thắng nỗi sợ hãi, thì với Người mê, Uông Triều lại khám phá hành trình truy tìm bản ngã – một cái “tôi” mới giữa cái mênh mông, bề bộn, hỗn độn, mê ảo và phi lí của cuộc đời. Dẫu khác nhau, nhưng cả hai nhà văn đều hướng đến một mục đích chung: tìm kiếm sự thật về kiếp người.
Người mê diễn ra trong không gian hẹp – một thị trấn nhỏ, trầm lặng với một số dân khiêm tốn, thời gian ngắn – khoảng hơn một năm gắn với hành trình “trở về” của nhân vật chính – người đàn ông sáu mươi tuổi. Trong cái thời khoảng ấy, Uông Triều đã vẽ nên một thế giới nhân sinh đa chiều cùng những trạng huống tâm lí phức tạp của con người. Trở về sau những ngày dài sống vô vị, nhạt nhẽo của đời công chức, người đàn ông phải đối diện với nỗi cô đơn, hẫng hụt khi buộc phải từ giã quá khứ, đứng giữa hiện tại, đối diện với tương lai bấp bênh, đầy bí ẩn. Ông chịu nỗi đau của “người thừa”, bị gạt ra khỏi dòng chảy cuộc đời, mang mặc cảm “thiếu quê hương” ngay trên mảnh đất mình sinh ra, lớn lên. Lạc loài giữa cộng đồng, xa lạ với gia đình, cô đơn trong bản thể, trong khi cuộc đời lại ngắn ngủi, ông đối diện với khoảng thời gian thăm thẳm trước mặt với muôn vàn nỗi bất an, hoang mang, lo sợ.
Nếu như “tôi” trong Tưởng tượng và dấu vết (tiểu thuyết đầu tay của Uông Triều) tự giam hãm mình trong căn phòng chật hẹp, chỉ có sách, lũ kiến và nhện “chơi” cùng; gặm nhấm cái chết dần chết mòn của thể xác và tinh thần, thì nhân vật chính trong Người mê lại tự tạo cho mình một cơ hội để thay đổi cuộc sống. Ông hiểu cái giá phải trả không hề nhỏ một khi khuấy động cuộc sống trầm lặng, u hoài, nhàn nhã của tuổi già. Nhưng điều đó không ngăn trở được khát vọng được sống là chính mình đang trỗi dậy mạnh mẽ trong ông. Ông bắt đầu sắp xếp lại cuộc đời mình, kháng cự lại sức mạnh hủy diệt của thời gian. Trong không gian hơn bốn mươi mét vuông của quán Cà phê lão già, ông đã tự trổ ra vô vàn ô cửa tâm hồn để đón nhận những thanh âm đa dạng của cuộc sống; quan sát, tận hưởng cái xô bồ, náo nhiệt của thế giới. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm sống an phận, thụ động, giờ đây ông sẵn sàng đối diện, “va chạm” với cuộc đời. Ông không chờ đợi ngày “phán xét cuối cùng” mà tự mình phán xét, kháng cự để thay đổi số phận.
Bằng cách tổ chức linh hoạt điểm nhìn bên trong nhân vật, tạo dựng liên tục những tiết đoạn độc thoại và đối thoại nội tâm, sử dụng hiệu quả ngôn ngữ dòng ý thức, Uông Triều đã truy tìm, khám phá những bí ẩn và sự biến thiên phức tạp trong chiều sâu tâm hồn con người, lí giải những góc khuất sinh tồn lạ lẫm, mới mẻ trong thế giới nhân sinh bề bộn, đa tạp, nhiều chiều. Nhà văn đã chạm vào những phút giây chờ mong, hạnh phúc, những khắc khoải cô đơn, buồn đau, những khát vọng thầm kín, riêng tư, những mặc cảm, ám ảnh để tạo nên những trang miêu tả, phân tích tâm lí xuất sắc. Như một nhà thám hiểm tài ba, Uông Triều đã len lỏi vào “hang ổ” của tâm hồn con người, khám phá cái “mê cung” huyền diệu của cái tôi nội cảm – khát sống – khát yêu. Nơi ấy, nhân vật đang đi tìm cái mình chưa bao giờ có, hoặc là chưa bao giờ biết rằng mình đã có. Đó là tình yêu, hương vị nồng nàn, chất men mê đắm nhất của thế giới loài người. Sức trẻ, suối nguồn thanh tân, tươi mát của “người tình nhỏ bé” – H. đã thức dậy trong ông những niềm vui mới, truyền cho ông cảm hứng, sự dũng cảm dấn thân. Mặc dù đã thật sự mở lòng ra với thế giới nhân quần, mạo hiểm đánh đổi tất cả để có được hạnh phúc của riêng mình, thế nhưng càng dấn sâu vào “mối quan hệ nguy hiểm” ấy, ông càng nhận ra những giới hạn mong manh của kiếp người; càng bị bủa vây bởi những rào cản của đạo đức, bổn phận, định kiến, và những toan tính thực dụng của con người hiện đại.
Đọc văn chương Uông Triều từ Tưởng tượng và dấu vết, Sương mù tháng Giêng đến Người mê, độc giả đều có chung cảm giác bấp bênh, bồng bềnh giữa hai bờ hư và thực. Cái thế giới hiện hữu trong tác phẩm vừa giống lại vừa không giống hiện thực bên ngoài, nó có thể xảy ra lại vừa không thể hình dung được. Một thế giới ảo và phi lí nhưng lại được tạo dựng từ những tiêu chí và cảm xúc của thế giới thật, con người thật. Nhà văn không mang đến cho người đọc những gì có thể tin ngay, phù hợp với yêu cầu thẩm mĩ của sự bắt chước, mô phỏng hiện thực, mà đưa ra một hiện thực tưởng như không thể có mà vẫn có thật. Qua tác phẩm của mình, tác giả tạo nên một kiểu hiện thực khác lạ, kiểu hiện thực đa chiều kích, có thể mở rộng đến bất cứ nơi nào trí tưởng tượng của con người vươn đến. Nhờ năng lực của con người được giải phóng tối đa, tiểu thuyết của Uông Triều mê hoặc người đọc một cách mãnh liệt.
Trong Người mê, Uông Triều đã tạo dựng nhiều tiết đoạn đối thoại tưởng tượng đầy sức ám gợi. Thông qua đó, nhà văn khám phá những góc tối trong tâm hồn con người, giải mã những động cơ trong suy nghĩ và hành động của nhân vật, và trên hết trưng ra những tấn bi kịch nội tâm của những cá thể người. Cuộc đối thoại giữa người đàn ông và cái mụn thịt – kẻ bạn đường tráo trở thể hiện cảm giác bất lực, mặc cảm khiếm khuyết, định mệnh trớ trêu mà con người không thể chối bỏ. Giấc mơ kinh hoàng nơi giếng sâu, diễn ra cuộc đối thoại không khoan nhượng giữa ông và người vợ quá cố về trách nhiệm, bổn phận, đạo đức, những “phạm trù truyền thống” mà gần như cả cuộc đời ông tìm cách lẩn trốn, nay lại trói buộc, ám ảnh, khiến ông chùn bước trong những quyết định của mình. Cuộc đối thoại giữa ông và người tình bé nhỏ trong hình hài pho tượng cẩm thạch trắng muốt, vô hồn không những lí giải cho hành động ra đi của cô gái, mà còn khía sâu vào bi kịch của đời ông về cuộc sống ảm đạm hiện hữu trước mắt, tương lai đầy bất trắc và những giới hạn mong manh của kiếp người không thể vượt qua. Trong cơn mê giữa ban ngày, ông lại gặp gỡ người tình bé nhỏ; đứa con với cái mụn thịt trên mặt gợi cho ông mặc cảm tội lỗi, mang điềm báo những viễn cảnh khủng khiếp sắp xảy ra trong cuộc đời hai người. Những giấc mơ hư ảo, những cuộc đối thoại tưởng tượng được cài cắm một cách tinh tế trong những câu chuyện đời thực khiến người đọc không ngừng kiếm tìm, liên tưởng, giải mã. Mỗi chi tiết, tùy lúc, tùy nơi, tùy độc giả, tùy sự thể nghiệm của mỗi người mà hé ra những ý nghĩa khác nhau. Đó là cách Uông Triều dẫn dắt người đọc vào cuộc chơi chữ nghĩa đầy ám dụ của mình.
Nếu như “tôi” trong Tưởng tượng và dấu vết ngồi bên ô cửa màu xanh, chìm đắm trong những trang sách và tưởng tượng mình làm tình với các cô gái đẹp để quên đi nỗi đau thể xác cùng những chấn thương tinh thần của mình, thì người đàn ông trong Người mê lại ngồi trong quán cà phê, nhấm nháp những li cà phê nhạt thếch, hướng mọi giác quan về phía ngôi nhà nơi người tình bé nhỏ của mình đang ở để quan sát, tưởng tượng, suy đoán xem cô đang nghĩ gì, sống như thế nào, hạnh phúc hay đau khổ. Ông quan sát mọi cử chỉ, ánh mắt, hành động của cô, và làm tình với cô trong những giấc mơ ngọt ngào. Trong giấc mơ giống như là thực, người tự nguyện dâng hiến cho ông, không phải là nàng, mà là người chị dâu. Dù là thực hay là mơ, nó vẫn khiến ông mang cảm giác của kẻ tội đồ. Và khi thế giới đang chìm trong giấc ngủ, ông là người duy nhất tỉnh giấc, ông nhận ra sự mê ảo, phi lí của cuộc đời, nỗi cô đơn, ô nhục của chính mình. Chi tiết ông gieo mình xuống giếng, kết thúc cho một bi kịch mang đầy tính tượng trưng cho sự bừng ngộ, tỉnh thức, thoát khỏi những mê lầm, và nó mang một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Cũng như trong tiểu thuyết đầu tay Tưởng tượng và dấu vết, tác giả không chú tâm xây dựng nhân vật trong những mối quan hệ rộng lớn, với những mâu thuẫn, xung đột bên ngoài, mà tập trung tái hiện một thế giới tâm lí – tâm linh đầy những hồi ức, mặc cảm, ám ảnh, dằn vặt, lo âu. Trong thế giới nghệ thuật ấy, thay vào những bức tranh hiện thực hoành tráng, những nhân vật kì vĩ phủ lên không gian và thời gian rộng lớn, là những trạng huống tinh thần đứt nối, âm thầm và dang dở; những giấc mơ tỉnh thức, hiện hữu và ám ảnh; những cuộc phiêu linh tâm thức, bất tận và bí ẩn; những phận người nhỏ bé và mong manh. Tất cả được dồn nén trong một dung lượng ngôn từ hạn hẹp, nhưng lại có sức bung nở vô cùng lớn với những âm vang của một tinh thần nhân bản sâu xa và mạnh mẽ. Người mê hiện ra như một bản khảo trạng nội tâm phức tạp, một “tiểu tự sự” về hành trình truy tìm bản ngã cá nhân. Cái mênh mông của thế giới bên ngoài được thay thế bằng cái vô tận của tâm hồn con người. Đó là cách Uông Triều thể hiện chiều sâu suy tư triết học với cái nhìn nhân văn sâu sắc về một thế giới bí ẩn, ngẫu nhiên, hỗn mang, phi lí cùng bản thể con người phức tạp, đa chiều, vô cùng vô tận.
Cũng như các tác phẩm trước, Người mê có sự lồng ghép, đồng hiện nhiều mảng không gian, thời gian và tâm lí khác nhau. Trong mỗi phần được đánh số từ 1 đến 41 luôn xuất hiện những dòng kí ức đứt nối đan cài liên tục với khoảng thời gian thực tại. Nơi đó, nhân vật sống trong khoảng thời gian đa chiều: quá khứ nhạt nhẽo, vô vị – hiện tại chới với, âu lo – tương lai vô định, hoang hoải. Cùng với đó là sự xếp chồng nhiều bình diện không gian: không gian “ngoài kia” hỗn loạn, ồn ã (thành phố, thị trấn), không gian “trong này” tĩnh lặng, trầm mặc (quán cà phê, ngôi nhà, khu vườn), không gian giấc mơ, hư ảo, không gian tưởng tượng, phi lí… Đặc biệt, Uông Triều đã xây dựng trong tác phẩm của mình không gian mang tính mơ hồ, thường bao hàm những song đề, nghịch lí sâu xa: khu vườn, ngôi nhà, bức tường… Trong thế giới nghệ thuật ấy luôn có một hình ảnh bao trùm lên tất cả như là ấn tượng duy nhất: cái giếng khổng lồ, sâu thăm thẳm. Đó là một không gian mang biểu tượng đa chiều: thế giới bí ẩn, bị lãng quên, có sức vẫy gọi, quyến rũ; những góc tối, vùng mờ của sự thật bị che giấu; sự ám ảnh, đe dọa chết chóc; sự bừng ngộ, tỉnh thức, giải thoát.
Trong nỗ lực làm mới thể loại, gia tăng hiệu quả tự sự cùng ý hướng tiếp cận, khám phá hiện thực và con người có chiều sâu, Uông Triều đã có những cách tân trong việc tổ chức diễn ngôn tự sự. Có thể coi đây là một trong những điều đặc biệt làm nên dấu ấn của tác giả trong tiểu thuyết mới nhất này. Nhà văn đã sáng tạo nhiều “sách lược” như sự đan cài lời kể và lời tả, lời kể và lời bình luận, sự phối kết lời kể và lời đối thoại, lời kể và lời độc thoại nội tâm, sự hòa trộn của nhiều dạng phát ngôn trong lời người kể chuyện khiến cho tác phẩm như một bản giao hưởng nhiều bè. Trong đó, việc đan cài lời đối thoại và độc thoại nội tâm trong lời người kể chuyện đã góp phần tạo nên tính đa âm cho tiểu thuyết, thể hiện cảm quan về cuộc sống bề bộn, ngổn ngang, cũng như sự phức tạp, đa diện trong tính cách con người. Không chỉ mang đến sự đa dạng của các chủ thể lời nói (giọng nhân vật, giọng người kể chuyện, giọng tác giả), Uông Triều còn đem lại sự bình đẳng cho các giọng nói/quan điểm về ý nghĩa, giá trị, lối sống (già – trẻ, cá nhân – cộng đồng), sự tranh biện, đối thoại trên nhiều cấp độ (đời sống, triết học, đạo đức, tư tưởng).
Cùng với đó, sự chuyển dịch linh hoạt điểm nhìn từ người kể chuyện sang nhân vật và ngược lại khiến cho lời người kể và lời nhân vật hòa vào nhau đến mức khó phân biệt. Khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật lúc này được rút ngắn đáng kể, tạo nên tính dân chủ trong diễn ngôn tự sự. Lời gián tiếp tự do được sử dụng dày đặc và hiệu quả như một trong những hình thức giúp nhà văn khám phá, trưng bày những khuất lấp, xung đột trong nội tâm nhân vật, khơi mở miền sâu thẳm trong tiềm thức và lí giải những bi kịch của nhân vật. Với ý hướng văn chương thuần nhất như vậy, Uông Triều không chỉ hướng tới kiến tạo một hiện tượng đời sống cụ thể, một cái nhìn đơn lẻ về con người cá nhân, mà còn có tham vọng khái quát những vấn đề có tính phổ quát về thế giới nhân sinh trong hành trình kiếm tìm ý nghĩa và giá trị của tồn tại và bản thể. Đọc Người mê, độc giả như đứng trước một thế giới va đập bạo liệt giữa niềm tin và sự khủng hoảng, cái được và sự mất mát, tội lỗi và nỗi sợ hãi, sám hối và lòng ham sống.
Từ Tưởng tượng và dấu vết đến Người mê, Uông Triều đã hướng tác phẩm của mình đến một bến bờ hư ảo nơi vô vàn điều kì lạ, dị biệt hiện hữu. Tác phẩm của anh thể hiện khao khát tìm kiếm sự thật về kiếp người. Nếu như mục đích của nhà văn là làm thế nào để nói được bằng nghệ thuật những điều quan trọng đó về con người một cách hiệu quả nhất thì có thể nói Uông Triều đã thực thi trọn vẹn sứ mệnh ấy của văn chương trong tiểu thuyết mới nhất của mình – Người mê.
Văn nghệ Quân đội
Phạm Thúy Quỳnh đưa bài