Chuyên mục TRUYỆN HAY tuần này, Cầm Kỳ Official xin giới thiệu chùm truyện ngắn của nhà văn Vũ Xuân Tửu

– Bí mật cuốn gia phả

– Cánh chân sào

– Yếm thắm

– Tiếng kèn lá trên đỉnh Mã Pì Lèng

– Người tan vào không khí

Nhà văn VŨ XUÂN TỬU

Ngày tháng năm sinh: 26/02/1955.

Quê quán: xóm Ninh Tân, xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

Nơi ở hiện nay: số nhà 68, ngõ 141, đường Tân Trào, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam).

Hội viên:

Hội Nhà văn Việt Nam, kết nạp từ năm 2006.

Hội Văn học Nghệ thuật Tuyên Quang (1998 – 2014);

Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam, kết nạp từ năm 2001;

Hoạt động VHNT:

– Năm 2005, Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Tuyên Quang, Phân hội trưởng Văn học; năm 2011, xin nghỉ các chức vụ về VHNT.

– Từ 28/5-9/8/2007, Lớp trưởng, Trung tâm bồi dưỡng Viết văn Nguyễn Du, khóa I, (Hội Nhà văn Việt Nam), Hà Nội. 

Khen thưởng:

– Bằng khen của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.

– Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Giải thưởng (3 giải):

– Giải nhất, Cuộc thi Truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ quân đội, (2005-2006).

– Giải A, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam, 2018.

– Giải thưởng Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, 2018.

Tác phẩm văn học đã xuất bản:

Sách đã xuất bản 36 cuốn.

Sách in chung với các tác giả khác 38 cuốn.

Nghiên cứu về VXT:

12 đề tài Nghiên cứu khoa học, Luận văn Thạc sĩ, Khóa luận tốt nghiệp đại học, về văn chương Vũ Xuân Tửu.

Suy nghĩ về nghề văn: Ngòi bút luôn hướng về người dân

Tiếng kèn lá trên đỉnh Mã Pì Lèng

Truyện ngắn của Vũ Xuân Tửu

Ltg, Tiếng kèn lá trên đỉnh Mã Pì Lèng đã in:

Báo Văn nghệ, số 45 (2182), ngày 10/11/2001;

Đài Tiếng nói Việt Nam, 2005;

Vũ Xuân Tửu, Yếm thắm, tập truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, tp. Hồ Chí Minh, 2003;

Báo Văn nghệ công an, số 12 (112), tháng 12/2004;

Vũ Xuân Tửu, Con chim lửa, tập truyện ngắn chọn lọc, Nxb Thanh niên, 2006;

Nhiều tác giả, Truyện ngắn chọn lọc 2006, tập truyện, Nxb Thanh Hoá, 2007;

Website Cand.com; Tạp chí Hợp lưu (hopluu.net), số 109, tháng 4&5/2010;

Đài Tiếng nói Việt Nam, 7/2013;

Website Nhavantphcm.com.vn (Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh), 2013.

Tôi lên Mã Pì Lèng dạy học.    

Từ dưới chân núi, tôi cứ nhằm theo chòm bản thấp thoáng trong mỏm đá, tán cây mà leo lên. Trời nóng như đốt nương, vượt dốc, cổ họng khô rát, tưởng như mồ hôi đã cạn kiệt không thể chảy ra được nữa, thì bất chợt gặp một dòng nước từ trên núi chảy xuống, tràn qua cả mặt đường đá. Tôi hồ hởi phanh ngực áo, bỏ ca-táp, cởi dép rọ, đứng một lúc cho mát dịu lại, rồi mới thong thả rửa tay, rửa chân, xúc miệng ba lần, uống một ngụm, xong rồi mới lau mình, gội đầu… Các anh đã công tác ở vùng cao lâu năm, truyền cho tôi một kinh nghiệm là chớ có vồ vập thái quá, phải biết điềm nhiên. Người miền núi ai cũng thâm trầm, điềm đạm. Vả lại, đang nắng nóng mà lao xuống nước là dễ bị cảm nhập tâm như chơi.

Bản trên đỉnh núi, đi theo đường ngựa thì đỡ dốc, nhưng không biết bao giờ mới lên đến nơi. Thế là sẵn có dây thép to như ngón tay, lõng thõng bên vách núi, tôi liền đu người leo lên. Đây là những sợi dây an toàn của công nhân mở đường qua Mã Pì Lèng, qua mấy chục năm rồi, mà đến nay vẫn còn quấn chặt trên vách ta-luy dương.

Vừa leo tắt lên lưng chừng núi, tôi sững sờ khi nhìn thấy một cô gái người Mông Trắng, đẹp như tiên sa, đang lom khom đứng giặt giũ bên khe nước. Cô gái cũng giật mình hoảng sợ, khi đột nhiên nhìn thấy tôi như từ khe đá chui ra. Tôi định thần, vội nở nụ cười cầu thân:

– Giặt à?

Cô gái không nói gì, lại lặng lẽ giặt giũ. Tôi bèn ngồi nghỉ bên gốc cây cổ thụ cạnh khe nước. Bàn tay rộp máu và đầy gỉ sắt. Tôi thò tay xuống nước, xót ứa nước mắt, rồi thõng hai bàn tay trên đầu gối cho khô và lơ đãng ngắm nhìn mây trời đang từ đỉnh Mã Pì Lèng, bay sang bên kia biên giới. Cô gái Mông thì vẫn loay hoay với cái chậu gỗ tròn, đựng đầy nước tro bếp, ngâm cái váy vải lanh trắng rộng cỡ mười hai vuông. Trong cái quẩy tấu cạnh đó, còn vắt ngổn ngang mấy bộ quần áo tà pủ. Thôi chết, không khéo ban nãy mình gội đầu, rửa mặt và uống dòng nước này. Thảo nào… Tôi oẹ khan một cái. Cô gái giật mình quay lại, nhìn tôi trân trân. Tôi ngượng ngùng vội đứng dậy, lặng lẽ lên núi.

*

Tôi dạy lớp ghép. Lớp của tôi có hơn chục đứa trẻ. Chúng học rải rác ở tất cả các lớp của cấp một, nhưng ngồi chung một phòng học, gồm có sáu bộ bàn ghế. Đứa bé nào đến tuổi đi học thì được miễn học phí, được cấp sách vở, bút mực. Đứa nào bỏ học thì bị phạt. Con trai bỏ học bị phạt bảy quẩy tấu ngô, con gái bỏ học bị phạt chín quẩy tấu ngô.

Buổi sáng, khi sương tan là tôi lên lớp. Một cái bảng đen nứt nẻ, tôi dùng phấn trắng thạch cao kẻ bốn cột cho bốn lớp. Trên góc bảng, tôi cũng ghi đủ số học sinh có mặt và vắng mặt. Số học sinh vắng mặt đầu giờ là phổ biến. Bởi vì, vào lúc sớm tinh sương, những đứa trẻ lớn phải đi cắt cỏ bò và cỏ ngựa. Khi về lớp thì quần áo, đầu tóc của chúng còn ướt sương mai, dính đầy hoa cỏ và bùn đất. Cả lớp ghép chỉ có một lớp trưởng là thằng Páo, con của trưởng bản Mí Tủa. Làm quan có nòi, làm cán bộ cũng thế.

Lớp ghép có cái dở nhưng cũng có cái hay: dở, nghĩa là chỉ một thày mà cùng một lúc, phải truyền thụ kiến thức của nhân loại cho ngần ấy thứ bậc trình độ, thì làm sao mà cụ thể và sâu sắc được; nhưng hay là ở chỗ, chúng có điều kiện ôn bài lớp dưới và đi trước thời đại khi nghe bài lớp trên. Bọn trẻ thông minh và luôn ghi nhớ hình phạt khi bỏ học. Có lần, tôi ra bài tập toán cho thằng Páo lớp trưởng: ông Mí Tủa đi nương, mang về sáu quẩy tấu ngô. Chị Mỷ (cô gái giặt bên khe nước mà tôi đã gặp) cũng đi nương và mang về ba quẩy tấu ngô nữa. Hỏi nhà Páo có mấy quẩy tấu ngô? Trong khi thằng Páo còn đang loay hoay tính toán, thì con bé lớp dưới đã nhanh nhảu đứng dậy, trả lời: “Bằng cái ngô phạt đứa gái bỏ học”. Cả lớp cười ầm lên. Tôi ngớ người.

Buổi tối, bên bếp lửa, ông Mí Tủa thường dạy tôi những bài hát cúng ma. Bà Mí Tủa thường dạy tôi những bài hát đám cưới. Củi thông cháy thơm thơm. Củi tống quá nổ lép bép. Rượu ngô nồng nàn thấm vào tận gan ruột, càng làm tôi hát say sưa. Mỷ và Páo cũng học theo những câu hát của bố mẹ. Có khi, hai hòn than nóng bỏng từ đôi mắt Mỷ bắn sang, khiến tôi lâng lâng. Đến khi ánh lửa từ đôi mắt tôi chiếu lại thì Mỷ lại đỏ mặt quay đi.

Tôi thường theo thằng Páo vào rừng bắt chim hoạ mi. Nó khéo tay, đan được những cái lồng trúc rất đẹp. Nó cũng lanh lợi và táo bạo, nên bắt được những con hoạ mi hót hay nhất vùng Mã Pì Lèng. Có hôm, tôi theo nó đi cắt cỏ ngựa. Nó dạy tôi ngắt lá thổi kèn. Thày chiêm tinh bảo tôi thuộc cung bảo bình (verseau), nên những gì thuộc về văn học, nghệ thuật và khoa học, kỹ thuật là tôi tiếp thu rất nhanh, nhất là cái khoản thổi kèn lá, để nhằm vào việc tỏ tình bằng dân ca Mông.

Một hôm chủ nhật, tôi lên phòng giáo dục trở về, qua gốc sa mu cổ thụ, nhác thấy bóng Mỷ đang cắt cỏ ngựa, thấp thoáng ven rừng. Tôi bèn ngắt lá đưa lên môi thổi tí te. Mỷ ngẩng lên nhìn thấy tôi, mặt đỏ bừng, rồi lại cắm cúi cắt cỏ. Tôi được đà thổi vóng lên:

          “Em ơi!

          Tình yêu đôi ta đẹp thế này… “(1)

Bỗng Mỷ buông liềm, ôm tay. Tôi vội chạy lên, nín thở ngắt cái lá sau lưng, nhai giập ra đắp vào vết thương, rồi lại ngắt lá cỏ tranh, tước hai bên cạnh sắc và quấn ngón tay cho Mỷ, nom hệt như một dải băng xanh xanh. Mỷ toan ôm bó cỏ để về. Tôi vội  giằng lấy, lui cui đội đi. Mỷ cun cút bước theo sau. Chợt có tiếng trẻ con ngọng nghịu trong bụi cây:

– Vở chùng, vở chùng… (Vợ chồng, vợ chồng).

Rồi nghe tiếng bụi cây xô dạt về phía bản. Tôi dừng chân, cười cười và nghếch mắt lên nhìn, nhưng bó cỏ bù xù trên đầu, khiến tôi không biết là đứa nào. Mỷ thì vội đứng cách xa tôi một quãng và chỉ tay, bặm môi hăm doạ bọn trẻ.

Cả bản chỉ có hơn chục nóc nhà. Nhà trưởng bản Mí Tủa to nhất, tuy mái cũng lợp cỏ tranh, nhưng vách lịa ván thông. Những ngôi nhà khác thì vách thưng bằng cây trúc. Mấy nhà mới chuyển đến thì ken tạm bằng cây ngô. Trưởng bản Mí Tủa cũng ít con nhất, chỉ có Mỷ và Páo thôi. Trưởng bản phàn nàn về chuyện không bắt được nhiều con. Tôi động viên:

– Nhà nước chỉ cho mỗi cặp vợ chồng đẻ từ một đến hai con thôi. Mình làm trưởng bản, gương mẫu là đúng lý.

Bà Mí Tủa vừa tước lanh, vừa cười cười, nói chen vào:

– Mình biết ăn cái lá, hết đẻ thôi.

Tôi cười trừ, tán tếu:

– Ông bà trưởng bản đặt tên cho con giỏi đấy. Mỷ là cô tiên nhá, mà cũng đẹp như tiên. Páo là con rồng nhá, mà cũng giỏi như rồng.

Trưởng bản cười hơ hớ:

– Không biết bao giờ con Mỷ mới lấy chồng, thằng Páo mới lấy vợ, đẻ con, để tao được gọi là ông Dúng Tủa, Vản Tủa, cứ để mọi người phải gọi là Mí Tủa mãi thôi.

Mỷ liếc xéo tôi một cái, rồi lặng lẽ đứng dậy ra ngoài thái cỏ ngựa. Thằng Páo nhìn tôi chòng chọc.

Lớp học cũng chẳng khác gì nhà dân nghèo, cũng lợp cỏ tranh, cũng thưng cây trúc; chỉ khác là có những bộ bàn ghế học sinh. Chân bàn, chân ghế là những cọc gỗ tống quá chôn xuống nền nhà. Những cây trúc to, ghép lại, đặt lên trên những cái cọc thấp làm ghế ngồi. Những tấm gỗ thông đặt trên những cái cọc cao làm bàn viết. Buồng riêng của tôi ở ngay cuối lớp. Tôi xin đồn biên phòng mấy mảnh vải nhựa, căng xung quanh cho kín đáo và ấm cúng. Góc buồng có kê một cái trạn bát làm bằng trúc. Ba hòn đá đặt ở góc nhà làm bếp nấu ăn. Can rượu ngô lúc nào cũng túc trực bên cạnh. Đầu chái, tôi quây một cái buồng tắm. Đây là cái buồng tắm duy nhất trên đỉnh Mã Pì Lèng. Lớp học ở gần nhà trưởng bản. Người nhà trưởng bản mỗi khi qua lại đều phải đi sát buồng tôi. Tôi để ý, cứ mỗi khi tôi tắm là Mỷ không dám đi qua. Chờ cho tôi vào nhà, rồi mới căm cắm rảo bước. Tôi ngó qua khe trúc, giặng hắng một tiếng, tức thì, Mỷ như mũi tên lao vọt qua. Tôi khoái chí cười một mình.

Bây giờ, Mỷ hay đi cắt cỏ ngựa thay cho Páo. Tôi cũng hay lân la đến bên gốc sa mu cổ thụ, thổi kèn lá:

          “Em ơi,

          Đã nói nhiều nhưng ta chưa tỏ... “(2)

Tiếng cắt cỏ ngừng bặt. Tôi hồi hộp dõi lên vạt rừng. Bỗng có tiếng kèn lá cất lên:

          “Anh ơi!

          Chúng mình dù tâm sự đẹp ngần nào… “(3)

Chợt có tiếng trẻ con cười rúc rích trong bụi cây. Mỷ bốc một nắm đất ném rào rào. Bọn trẻ con lốc nhốc cõng nhau chạy lên bản. Thì ra, chúng đã rình mò. Tôi lững thững về bản, trong lòng lo sợ bọn trẻ con lẫn chuyện với trưởng bản. Nhưng tiếng kèn lá lại vút lên:

Anh ơi,

          Em muốn nói với anh bằng điều khác… “(4)

Tôi thẫn thờ…  Chiều biên cương tím biếc. Sương giăng mờ lũng núi. Tiếng chuông bò loong coong về bản. Khói lam quyện trên những mái tranh. Hun hút dưới chân núi, dòng sông Nho Quế nhạt nhoà như một dải thắt lưng xanh xanh, huyền huyền ảo ảo.

Tối hôm đó, như thường lệ, tôi lên nhà trưởng bản chơi. Vừa đến sân, tôi đã nghe tiếng trò chuyện rì rầm khác thường. Tiếng ông Mí Tủa: “Nhù già nhù, tử già tử – Bò là bò, trâu là trâu, không lẫn lộn được. Ta là người Mông trên núi, thày giáo là người Kinh dưới ruộng… “. Tiếng bà Mí Tủa: “Nó dạy học hết ba năm thôi. Về xuôi, nó bỏ mày”. Tiếng thằng Páo: “Tôi bảo Mỷ yêu thày giáo, không yêu, đứa khác nó yêu mất đấy”.

Mấy hôm sau, tôi bảo với trưởng bản là, lên đồn biên phòng bàn chuyện “xoá mù”. Mỷ cũng xin đi ăn cưới cái bạn là Tiên, ở xóm người Giấy bên sông Nho Quế. Nhưng kỳ thực, chúng tôi hẹn gặp nhau ở cầu Tràng Hương. Tôi cầm cành lá đợi Mỷ trên cầu. Một lúc, thấy bóng Mỷ dắt ngựa xuống núi, tôi liền ngậm lá, thổi một hồi:

          “Em ơi,

          Tình yêu đôi ta đẹp thế này

          Đã nói nhiều nhưng đôi ta chưa tỏ

          Vẫn còn điều bí ẩn ở thắt lưng em… “(5)

Mỷ cũng buộc ngựa, thổi lá:

          “Anh ơi,

          Chúng mình dù tâm sự hay đến mấy

          Nhưng gặp nhau

          Em muốn nói cùng anh chưa tỏ

          Nhưng vì chưa biết cõi lòng anh… “(6)

Tôi cùng Mỷ dắt ngựa qua cầu. Mỷ sánh vai bước bên tôi. Cầu treo rung rinh in bóng hình nhạt nhoà trên sóng nước. Tôi ngây ngất như bước trên mây. Mỷ cũng bâng khuâng như lướt trên gió. Ngược dốc, Mỷ đẩy tôi lên ngựa, rồi nắm đuôi ngựa mà chạy theo. Khi ngựa qua sườn núi, Mỷ ngồi gọn trong lòng tôi trên lưng ngựa. Má đỏ au và thơm như táo chín, môi đỏ mọng như hoa đào ngậm sương, mắt nhìn thăm thẳm trời thu biên thuỳ, cánh tay trắng ngần của Mỷ quàng lên cổ tôi. Chúng tôi hôn nhau mê mải. Ngựa quen đường, phi nhong nhong. Đến đầu dốc, tôi xuống ngựa cho Mỷ về trước. Khi chia tay, Mỷ cúi xuống hôn tôi, khiến cái váy lanh trùm xuống cả vai… Mãi đến khi con ngựa sốt ruột bậm bạch gõ móng xuống đường mòn và vươn cổ hí vang, chúng tôi mới rời nhau.

*

– Thày giáo, Mỷ ăn lá ngón rồi.

Thằng Páo gọi thất thanh qua cửa liếp. Tôi vội cùng nó nhảy lên lưng ngựa, phóng như bay xuống bệnh viện huyện. Vừa phi, tôi vừa gọi Mỷ, vang động cả núi rừng. Xộc vào phòng cấp cứu, tôi thấy Mỷ chỉ còn thoi thóp thở. Tôi nấc lên. Mỷ nhìn tôi đau đáu. Khuôn mặt Mỷ chợt rực rỡ, đẹp bội phần như tiên giáng trần trong giây lát, rồi đồng tử dãn dần. Bác sỹ lắc đầu tuyệt vọng. Ông Mí Tủa hộc lên một tiếng, rồi đi ra ngoài. Bà Mí Tủa gục bên xác Mỷ. Thằng Páo gào lên:

– Mỷ ơi, bố mẹ ưng ý rồi mà!

*

Ngôi mộ của Mỷ đặt dưới chân núi Mã Pì Lèng. Tuần nào cũng vậy, tôi từ bản lên phòng giáo dục và sáng thứ hai lại có mặt ở lớp. Đi qua, lần nào tôi cũng ngồi bên mộ, có hôm nửa đêm, có hôm trời sáng mới rời. Một đêm trăng suông, tôi ngồi bên mộ, sương ướt đầm vai áo, chợt nghe mơ hồ như có tiếng kèn lá từ trời cao vọng về:

          “Anh ơi…

          Đã nói với nhau nhiều nhưng chưa nói hết

          Vẫn còn điều ngây ngất ở trong em… “(7)

Có mùi hương toả ra ngào ngạt. Mỷ hiện lên, thấm hơi sương lạnh giá, ánh mắt nồng nàn như xưa, làn môi đằm thắm như xưa, khẽ cất tiếng thì thào như gió thoảng:

– Mỷ biết anh còn thương Mỷ nhiều, yêu Mỷ nhiều mà.

– Mỷ à, anh chỉ thương em thôi. Đất này chỉ có mình anh là đỉnh Mã Pì Lèng, cũng chỉ có mình em là sông Nho Quế thôi. Ta mãi bên nhau. Sao em vội bỏ anh mà đi, bố mẹ đồng ý rồi mà…

– Đá lở, cây đổ rồi, không làm lại được nữa đâu. Nhưng mà anh thương được cái Tiên ở bản người Giấy thì tốt đấy.

Tôi than khóc ầm cả lên. Dòng sông, đỉnh núi cũng đồng vọng ồi ồi… Giật mình tỉnh dậy, mới biết là mình nằm mê.

Lần sau, lại đến thăm mộ, tôi thấy một cô gái người Giấy, giống Mỷ như hai giọt nước, liền hỏi:

– Cô là Tiên, phải không?

Cô gái gật đầu và bật cười khanh khách. Từ đấy, Tiên ngây ngây dại dại như bị ma làm, phục thuốc và cầu cúng mấy cũng không khỏi. Tiên cứ xé quần áo Giấy, đòi mặc quần áo Mông và gọi tên tôi thảm thiết.

Một đêm mưa to gió lớn, sấm rung đất chuyển. Mỷ lại hiện về, thì thầm:

– Mỷ biết cái lỗi rồi. Mỷ lại về với anh. Ngày mai, chờ ở gốc cây sa mu ngày xưa…

Hôm sau, trời quang mây tạnh, tôi ra thăm mộ Mỷ, thì sườn núi đã sạt lở, chẳng thấy ngôi mộ đâu nữa. Tôi buồn bã trở về, qua nẻo đường xưa, tới gốc sa mu cổ thụ, chợt sững sờ khi nhìn thấy một cô gái người Mông Trắng, đẹp như Mỷ, đang đứng bên khe nước. Cô gái cũng giật mình hoảng sợ khi đột nhiên nhìn thấy tôi như từ khe đá chui ra. Tôi định thần, vội nở nụ cười cầu thân:

– Mỷ à?

Cô gái không nói gì, lặng lẽ ứa hai hàng nước mắt.

                                                            Trại sáng tác Văn học dân tộc thiểu số

                                                            Nhà sáng tác Tam Đảo, 17-18/ 9/2001.

                                                                                                                                                                                                                                                                    VXT

…………………………………………………………………………………

(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7): dân ca Mông, theo sưu tầm của Hờ A Di

Exit mobile version