Chuyên mục TRUYỆN HAY trong những ngày cuối cùng của tháng Chạp năm Nhâm Dần, Cầm Kỳ Official xin được giới thiệu truyện ngắn TIẾNG CHUÔNG CHÙA TỬ ĐẰNG của nhà văn Nguyễn Đức Hạnh

TIẾNG CHUÔNG CHÙA TỬ ĐẰNG

Gần đây, cả thế giới xôn xao bàn luận về tiếng chuông có màu sắc của chùa Tử Đằng. Không một học giả uyên bác, một cao tăng đắc đạo nào lý giải được hiện tượng kỳ bí ấy. Nhưng tôi hiểu vì sao tiếng chuông chùa lại có những sắc màu huyền ảo đến như vậy… Những chiều Chủ nhật, khi lũ trẻ chúng tôi lang thang tìm sim chín, bắt ếch ngoài nghĩa địa dốc Lim thường gặp một người đàn ông cao lớn, đạp xe loạng choạng vào nghĩa địa. Ông ta vứt chiếc xe chỏng chơ, rồi vác cái cuốc, xách một bọc to, trong đó có nhiều bọc nhỏ, đi liêu xiêu và hát.

Đó là một bài hát hết sức kỳ quái, chưa từng nghe thấy ở đâu, cứ lặp đi lặp lại một điệp khúc ghê rợn, nhất là khi nó vang vọng ở một nơi đầy âm khí. Gặp hôm có mưa dầm, chao ôi, những lời hát ấy lạnh như những con rắn chết ai đó thả vào trong ngực áo lùng nhùng, càng chạy càng thấy kinh hãi:

Bé con chui ra từ một cái lỗ

Rồi lại chui vào một cái lỗ

Đừng sợ và đừng khóc

Rồi sẽ hóa chồi non

Mong đừng để trâu bò nhai rau ráu

À í a…

Ông lão có cái mũi to đỏ chót như quả cà chua chín ấy đặt cái bọc to xuống, bổ mấy nhát cuốc đào một cái lỗ bằng miệng thúng, rồi thả từng bọc nhỏ vào đấy, miệng thầm thào. Vào đây. Nằm đây nhé. Ngoan nào. Mả bố bọn người lớn. Đú cho lắm vào. Rồi tòi bé ra. Bé nằm đây. Đất mát lắm. Chỉ lo bọn giun đục mắt bé thôi… Cứ chôn xong một bọc, ông ta lại bẻ một cành Sim, cắm lên. Xong việc ông ta chùi tay vào đít quần, rút túi ra một chai rượu nhỏ, ngửa cổ làm một hơi cạn sạch, rồi lại liêu xiêu đạp xe, vừa đi vừa hát khúc hát ghê rợn kia.

Bọn trẻ chúng tôi vừa vặt sim chín, mua đất nhai ngấu nghiến, vừa theo dõi ông lão. Hôm đầu tiên bắt gặp hình ảnh quái dị này, chúng tôi tò mò đến bới một hố đất nông choèn, mở tấm vải xô trắng ra rồi hét lên mà chạy, trong đó là một đứa bé chừng sáu, bảy tháng tuổi, bị gây đẻ non, tím tái, mắt vẫn mở trừng trừng. Chúng tôi bỏ chạy tán loạn, xuống đến chân đồi vẫn còn tim đập chân run. Về nhà kể cho bố mẹ nghe, bố tôi thở dài, mãi mới lên tiếng:

– Sao bây giờ người ta ác thế. Con lớn lên hãy ghi nhớ một điều. Con người ai cũng có nhược điểm, có sai lầm nhưng không bao giờ được ác. Nếu ác thì sớm hay muộn thôi, người không hại thì trời sẽ hại.

Ông cứ lặp đi lặp lại điệp khúc ấy, chỉ có điều nhỏ dần rồi kết thúc bằng một tiếng nấc. Bố tôi là giáo viên dạy văn, ông nói sâu xa lắm, lúc ấy chỉ hiểu lờ mờ, mãi sau này mới thấm thía những lời răn dạy của bố.

Còn mẹ tôi thì bảo:

– Lũ thanh niên bây giờ rửng mỡ, quan hệ bừa phứa, rồi hậu quả đến mới biết. Mà có hồn ma thật đấy, nó chẳng báo oán cho mà xem…

Bố tôi nhăn mặt:

– Bà mê tín vừa vừa thôi. Hồn ma nào. Nói thế là tiêm nhiễm cho con cái…

Thực ra lúc ấy, lời cha mẹ chỉ như gió thoảng qua tai. Nhà tôi nghèo nhất trong cái xóm này. Bọn trẻ trâu chúng tôi không lang thang ra tìm kiếm ngoài nghĩa địa, lấy cái gì mà ăn. Nghĩa địa đã vài trăm tuổi, mồ mả san sát. Ngôi mộ cũ vừa bốc xong chỉ vài hôm sau được sửa sang lại, một chiếc quan tài đỏ chót khác đã được đặt xuống. Tôi nghĩ nghĩa địa như cái quán trọ, các hồn ma thay nhau vào ngủ trọ trước khi bay lên trời.

Sát kề nghĩa địa có một dòng suối quanh năm nước đen ngòm, các loài cá ở đây to và hung dữ khác thường. Tôi thường ra câu ở đấy, buổi nào cũng mang về một giỏ nặng. Nhưng tôi bị một vố nhớ đời, hôm ấy, trước khi về, mở nắp giỏ ra ngắm thành quả lao động của mình, bất ngờ một con cá gáy lao vụt lên, cắn chặt vào má, đau gần chết, mãi mới dứt được con cá ra và đập chết nó, nhưng má mất một miếng thịt bằng đồng xu. Khi nhìn xuống suối, hàng trăm mắt cá trợn trừng nhìn tôi căm giận.

Tôi bỏ câu cá, đi hái sim để ăn và bán. Nhưng lạ một điều, khi khắp nghĩa địa này bạt ngàn những cây sim cằn cỗi, hoa tím nhạt nhẽo, cho quả nhỏ tí chát xít nhưng thỉnh thoảng có những vạt sim cao lớn, hoa tím ngắt, quả to và ngọt vô cùng. Sung sướng lần theo những vạt sim quanh năm tươi tốt ấy, vặt quả, vừa ăn vừa bỏ vào túi bạt đeo bên mình. Bỗng sởn gai ốc, bụi sim trước mặt bật khóc nức nở, bụi sim sau lưng lại cười khanh khách. Co giò định bỏ chạy thì hàng chục bụi sim đã di chuyển đến, tạo thành vòng tròn, quây kín lấy tôi. Tôi nằm ngửa ra đất, run bắn, mồm há hốc mà không sao kêu được. Kỳ lạ thay, những cây sim ấy như một lũ trẻ con nghịch ngợm, chúng dùng cành lá cù vào nách, ngoáy lỗ mũi, véo tai, rồi tha cho tôi.

Tôi ngất xỉu vì sợ hãi, lúc tỉnh dậy trời đã chuyển sang chiều muộn, nghĩa địa hoang lạnh, chỉ có gió buồn bã trườn mình qua những lùm cây. Ông lão chôn thai nhi lại bậm bịch cuốc đất, đào hố, vừa làm vừa cất tiếng hát. Xong việc, ông ta ngồi phệt xuống đất, không uống rượu như mọi khi mà cầm chai rượu rưới xuống đất, lầm bầm điều gì không rõ.

Thấy lạ, tôi rón rén lại gần:

– Ông ơi. Sao ông lại chôn bọn trẻ con. Ông không kinh à?

Ông ta ngẩng mặt nhìn tôi, gương mặt khô quắt sần sùi như mặt quỷ, vừa giống quả đu đủ héo vừa giống củ riềng già phơi nắng lâu ngày, từ hai hốc mắt đùn ra hai giọt nước to và trong lắm.

Ông trả lời bằng một giọng trầm đến lạ lùng:

– Ta trả nợ cho mình…

Bất ngờ ông ta khóc tu tu lên. Rồi từ những lời kể đứt quãng, tôi mới biết khi trẻ tráng, ông là một gã trai phong tình lãng tử, làm nhiều cô gái có bầu rồi bắt họ phá thai. Có một lần say rượu, chếnh choáng về, qua cổng bệnh viện bỗng có đến mấy chục đứa trẻ sơ sinh người bê bết máu cứ bám lấy ông mà gào khóc. Cứ thế, chúng khóc và cào cấu. Đau và sợ nhất là có một đứa ôm lấy mặt ông. Khi nhìn xuống thì thấy ruột gan nó lòng thòng. Ông gào lên bỏ chạy. Một chiếc xe ô tô lao tới. Hơn ba tháng sau rời bệnh viện về nhà, gương mặt ông biến dạng khủng khiếp, nửa mặt người, nửa mặt quỷ…

Ông cứ lẩm bẩm kể không đầu không cuối như thế, hình như không phải kể với tôi mà kể với những linh hồn nào đó, vô hình, đang bay lượn trên cái đầu đầy sẹo rúm ró, nổi những cục to bằng quả mận tím ngắt.

– Thế giờ nhà ông ở đâu? Ông đừng uống rượu nữa. Bố cháu bảo uống rượu hại gan mau chết lắm.

– Ta không có nhà. Ta ở nhờ nhà xác của bệnh viện.

Ông ta đặt tay lên ngực thở dốc, rồi bỗng hét toáng lên làm tôi sợ chết khiếp.

Toan bỏ chạy thì ông ta cầm tay tôi:

– Cháu đừng sợ, ta không hại cháu đâu. Mà ta còn dám hại ai. Ta là thằng khốn nạn. Nhưng cháu ơi. Ta kể chuyện đời ta cho cháu vì còn một lý do khác. Cháu không ở lâu với dương thế đâu. Tay cháu lạnh lắm. Trên đầu cháu có một quầng sáng lúc mờ lúc tỏ. Ta còn nhìn thấy trái tim cháu như một ngọn nến đang khóc ròng ròng…

Thế rồi ông lão quỳ xuống, vái tôi ba vái, rồi bò đến bên mấy gốc Sim đang thổn thức, ông ta ôm lấy mấy bụi Sim, chúng vùng vằng, mấy chiếc lá bé xíu như những bàn tay xinh màu xanh cứ nhè mặt ông mà tát. Cuống cuồng ông thè lưỡi ra liếm từ gốc lên ngọn, chả biết đá sắc hay gốc cây sần sùi làm lưỡi ông bị xẻ đôi, máu tươi ròng ròng. Nhưng kỳ lạ thay, máu tươi rỏ vào bụi sim làm lá xanh, hoa tím thoắt chuyển sang màu hồng thắm. Rồi ông ta cứ thế bò đi. Vây quanh ông là lũ chó của xóm tôi, chúng gầm ghè như nhìn một đối thủ đang tranh giành miếng ăn. Ông lão giống như một con chó khổng lồ run rẩy bò trong hoàng hôn đỏ rực với cái lưỡi bị chẻ đôi lòng thòng trước miệng…

Lũ chó của xóm tôi đã rình mò trong những bụi cây. Khi ông lão vừa bò đi, chúng lao vào đào bới, cắn xé, nhai rau ráu những xác thai nhi bé tí trong các bọc vải. Tất cả các bụi sim quanh đó kêu thét lên đau đớn. Tôi vớ đá ném túi bụi, quơ được đoạn cây rượt đuổi bọn chó. Có hai con chó trắng ngậm hai đầu một thai nhi giằng co rồi xé đứa bé làm đôi. Tôi đuổi theo. Chúng quay lại nhìn và gầm gừ. Từ cái mõm răng nhe trắng nhởn, dãi rớt nhỏ lòng thòng ấy, một bàn tay trẻ con với những ngón tay bé xíu thò ra… Đêm ấy tôi không ngủ được, người lên cơn sốt lúc nóng lúc lạnh. Bữa cơm chiều, ăn gì cũng nôn thốc nôn tháo. Mẹ tôi thở dài bảo: Không khéo thằng bé bị ma ám. Bà lấy cành dâu làm roi, nhúng vào nước tiểu, quất tôi hơn chục cái. Tôi không thấy đau mà chỉ buồn ghê gớm, dù không biết vì sao.

Đêm ấy trăng sáng lắm, nửa đêm không ngủ được, ngồi nhìn qua cửa sổ, thấy hai con chó trắng ngậm đứa bé lúc chiều vào sân nhà, chúng thò đầu vào hai cái giỏ bắt cua rồi đứng thẳng lên, đi bằng hai chân sau nhảy quanh sân, một con cười sằng sặc, một con khóc hu hu. Gần sáng mệt quá thiếp đi, tôi thấy mấy chục đứa trẻ sơ sinh ngồi quanh giường nhìn chằm chằm, chúng khóc mà nước mắt chảy ra đỏ như máu. Một đứa có vẻ lớn nhất bọn bảo tôi:

– Chúng em đói khát lắm. Anh thương chúng em thì mang về chôn ở gốc cây sấu ngoài cổng. Thi thoảng, anh cho chúng em ít gạo muối. Còn các bạn đã nhập vào đồi sim thì đành ở đấy. Nếu đưa cả về đây thì đông quá, anh chẳng nuôi nổi đâu…

Tỉnh dậy, mồ hôi lạnh toát đầm đìa, bàng hoàng không biết là mơ hay thực? Nhưng cũng từ hôm ấy, cứ chiều tối, tôi ra nghĩa địa đào bới, đem những xác thai nhi vừa chôn vội về vùi ở gốc cây sấu ngoài cổng. Cây sấu vụt lớn nhanh, lá xanh mướt quanh năm, quả sai lúc lỉu, chỉ có điều quả không chua mà trở nên mặn chát. Thi thoảng, tôi cắt giấy màu làm thành những chiếc áo bé xíu, rồi hóa cho bọn trẻ. Tội nghiệp khi bị đem chôn, bọn trẻ đều trần truồng, giờ có nhiều áo mới, chúng tranh nhau rồi hớn hở bay lượn khắp nơi, trông như một đàn bướm khổng lồ nhiều màu sắc. Cứ chiều tối, chúng bám lúc lỉu trên vòm cây, cây sấu như ra một loài quả lạ có hình dáng của các em bé sơ sinh, chỉ có điều loại quả ấy thi thoảng lại khóc thét làm mấy bà đi đường chạy văng dép guốc, vừa chạy vừa kêu cứu.

Tôi lại ra nghĩa địa hái sim, sim chín mọng và to lạ thường. Những vạt sim cao vọt lúc cười, lúc khóc, lúc hát véo von. Gần gũi lâu ngày, tôi hóa dạn dĩ không thấy sợ hãi nữa. Nghe những bụi sim thầm thì rồi khóc, tôi hay lẩn thẩn nghĩ. Sao bây giờ người ác nhiều thế! Con giết mẹ, vợ giết chồng, một thằng rõ đẹp trai chặt người yêu làm mấy khúc. Có cách gì để con người đỡ ác đi không, làm gì để cứu giúp những linh hồn tội nghiệp kia?

Có một hôm đang hái sim, tôi gặp một đôi trai gái cùng ông lão ngoài nghĩa địa. Ông lão bảo, rõ ràng bảy đứa trẻ gây đẻ non vào hôm ấy, tôi chôn ở chỗ này mà. Tôi đặt tên chúng theo số thứ tự 1, 2, 3, 4… giờ hình như cũng đã hơn 300 đứa rồi…

Cô gái trẻ cắm hương, khói thơm bay vòng tụ thành một dấu hỏi to tướng phía trên đầu cô, vừa khóc vừa khấn:

– Con yêu ơi. Con thông cảm cho mẹ. Mẹ chưa thể sinh con ra làm người được. Mẹ đành bỏ con. Con ở đâu thì về nhận quà của mẹ…

Quay lại phía chàng trai, cô giục:

– Anh rải tờ giấy báo. Bày hoa quả, bánh kẹo, tiền vàng ra đi. Sao cứ đứng như trời trồng thế. Con anh đấy. Anh không xót à?

Chàng trai vừa bày một mâm lễ xuống mặt đất, vừa lủng bủng:

– Vẽ chuyện. Mới có bảy tháng. Nó biết cái quái gì…

Bỗng một cơn gió mạnh hất tung cả mâm lễ vào mặt chàng trai. Vạt sim cũng rít lên ghê người, hàng trăm quả sim chín lao vun vút vào chàng trai và cô gái. Nhựa sim đỏ nhoe nhoét như máu tươi. Cả hai chạy thục mạng khỏi nghĩa địa. Ông lão dắt xe đạp cũng chạy quáng quàng, rơi cả chai rượu trong túi. Rượu đổ ra hòa với nhựa quả sim chín trở thành một vũng máu tươi lênh láng trên mặt đất.

Tôi khóc rồi chạy đến ôm chầm lấy một bụi sim, cây lá vẫn rùng rùng. Tôi khóc cho những đứa trẻ thơ chưa được làm người, khóc cho chính mình vì bất lực… Giá như có tiền tôi sẽ xây một ngôi nhà khổng lồ đưa các cụ già nghèo khổ, các em bé mồ côi về nuôi dưỡng. Bên cạnh đó xây một miếu thờ thật to, gọi linh hồn phiêu bạt, vật vờ, đầu đường, xó chợ, bờ sông, cho họ ăn uống. Khi nước mắt tôi rỏ xuống bụi sim, những nụ hoa tím bỗng bật nở, rồi tỏa mùi hương rất giống mùi thơm của da thịt em bé.

Thấy tôi suốt ngày ra nghĩa địa, mặt lại lúc nào cũng ngây ngô, đờ đẫn, lúc cười lúc khóc một mình, cha mẹ tôi lo lắm. Ông bà đều cho rằng tôi bị ma làm. Một sáng Chủ nhật, cha mẹ dắt tôi lên chùa Tử Đằng gặp sư trụ trì, mong lão cao tăng đuổi tà ma, trả lại sự hồn nhiên và tinh khôn cho tôi.

Khi vào đến cổng chùa, tôi quay lại thấy hàng trăm linh hồn trẻ sơ sinh bay theo, chúng í ới:

– Anh vào đi. Bọn em không vào được, đợi ở ngoài này thôi. Đừng bỏ bọn em nhé…

Bước qua mảnh sân đầy rêu xanh, qua cửa chùa, người tôi bỗng ấm lạ thường. Sư trụ trì đã gần trăm tuổi lặng lẽ nhìn tôi.

Nghe cha mẹ tôi trình bày xong câu chuyện kì dị về tôi và bày tỏ ước nguyện nhờ Phật pháp xua đuổi tà ma hại người, sư trụ trì khẽ khàng nói:

– Ta hiểu rồi. Hai con ra ngoài, đến chỗ lầu chuông, thỉnh ba hồi chín tiếng rồi ngồi niệm Phật. Ta muốn nói chuyện riêng với cháu bé này.

Rồi trụ trì nhìn hồi lâu, đặt bàn tay lên đỉnh đầu tôi, một luồng hơi ấm kỳ diệu chạy từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, người khẽ nói:

– Cháu có lòng nhân từ. Những oan hồn của trẻ sơ sinh theo cháu đông lắm, chúng đang đứng đợi ở cổng chùa. Cháu có muốn cứu vớt chúng không?

– Cháu muốn lắm mà không biết làm thế nào?

– Cháu có duyên với nhà Phật. Nếu cháu và gia đình đồng ý hãy đến tu tập tại đây.

Về đến nhà, nghe tôi trình bày ước nguyện muốn đi tu và thuật lại lời khuyên của sư trụ trì, cha mẹ tôi phản đối quyết liệt. Vài hôm sau, thấy tôi định trốn nhà ra đi, họ xích chân tôi vào cột nhà.

Cũng từ hôm ấy, tôi không ăn không uống. Đêm hôm cuối cùng tại nhà cha mẹ, nằm thiêm thiếp, mơ thấy những đóa hoa Vô ưu phát sáng hào quang. Trên nóc nhà, những tàu lá cọ được kéo ra, những đứa bé sơ sinh xúm quanh lỗ nhỏ để nhìn xuống. Nước mắt chúng rỏ xuống làm đứt tan dây xích. Tôi thấy mình nhẹ bẫng, chui qua lỗ nhỏ ấy, cùng bầy trẻ bay ra nghĩa địa.

Lúc ấy, tôi biết mình chết rồi. Trước khi bay đi, tôi thu hết tinh lực vào ba giọt nước mắt rỏ xuống trán cha, mẹ và đứa em gái đang ngủ say. Hình như trong mơ, mẹ tôi vẫn còn khóc nấc, thương thằng con trai bị ma ám. Không phải đâu mẹ ơi, trái đất này có quá nhiều khổ đau và nước mắt. Hai bàn tay con bé quá, không làm gì được. Trong mơ, cha tôi vẫn lẩm bẩm đọc thơ, những vần thơ ông viết mà gửi mãi không báo nào đăng:

Người tốt thường đau khổ

Kẻ ác vẫn nhởn nhơ

Không còn nơi ở ẩn

Thanh cao đứng khóc òa

Còn đứa em gái mơ mộng của tôi. Môi em tóp tép và cười, má phúng phính hồng rực, chắc là mơ thấy đang được ăn bánh ngọt. Hãy ngủ ngoan và mơ thật đẹp. Anh sẽ phù hộ cho cả nhà mình thật khỏe, thật vui. Lòng em thơm thảo như hoa bưởi, tươi mát như Giếng Thơi nhà mình em nhé…

***

Mặt đất bỗng phập phồng, bàn chân đặt xuống sao mát quá, đất ôm lấy chân, mơn man ve vuốt. Cả bọn trẻ con bay về phía ngôi chùa cổ. Ngôi chùa nằm trong một rừng hoa Tử Đằng bạt ngàn, quanh năm hoa rực rỡ và thơm ngọt lịm như kẹo mạch nha. Tôi chạy theo hương hoa, cắn từng miếng rồi ngậm thật lâu trong miệng. Chúng tôi không vào chùa được mà chỉ bay vòng quanh. May mắn thay đúng lúc đó chú tiểu thỉnh chuông. Những tiếng chuông mềm mại như lụa. Tôi cùng linh hồn bọn trẻ ùa vào, ôm chặt tiếng chuông, reo hò, cười hát.

Từ hôm ấy, tiếng chuông của chùa Tử Đằng trở nên có màu sắc. Mỗi khi thỉnh chuông, mỗi âm chuông vang xa mang một sắc màu, tùy thuộc vào chiếc áo mà chúng tôi mặc hôm ấy. Muôn ngàn âm thanh – muôn ngàn màu sắc dệt thành những tấm lụa dịu dàng phủ lên cảnh vật, tạo thành những bức tranh muôn hồng nghìn tía. Tiếng chuông chạm vào lòng người, gọi phần thiện thức dậy. Tiếng chuông làm mùa màng quanh đó bội thu, lòng người bớt đi thù hận, nhỏ nhen, đố kị. Chùa Tử Đằng trở thành một danh thắng thu hút nhiều khách thập phương. Các nhà khoa học mang rất nhiều máy móc hiện đại đến đo bức xạ, sóng âm, đo quang phổ… nhưng tất cả đều không lý giải nổi. Các nhà khoa học đến hỏi trụ trì, người nhắm mắt chắp tay niệm Phật.

Chỉ đến khi tiếp một thiền sư, thi sĩ nổi tiếng từ Ấn Độ sang thăm, đáp lại câu hỏi về tiếng chuông chùa, trụ trì mới ung dung khoan hòa đọc một bài Kệ:

Tiếng chuông tai nghe thấy

Màu chuông mắt nhìn thấy

Yêu thương trong tiếng chuông

Thì có màu gì vậy?

Nhặt bao nhiêu nước mắt

Kết thành đóa sen yêu

Hoa khóc ai nhìn thấy

Hỏi sắc hoa chi nhiều?

Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh

–        Bút danh: Đức Hạnh Thái Nguyên

–        Sinh năm: 1962

–        Nguyên quán: Huyện Yên Mỹ – Tỉnh Hưng Yên

–        Cơ quan công tác: Ban thanh tra Đại học Thái Nguyên

–        Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam

–        Hội viên Hội VHNT tỉnh Thái Nguyên

Sách đã xuất bản:

Các tập thơ:

Núi khát (Tập thơ), Nxb Hội Nhà văn, 2000.

Vết thời gian (Tập thơ), Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Thái Nguyên, 2004.

Khoảng lặng (Tập thơ), Nxb Đại học Thái Nguyên, 2012.

Thầm… (Tập thơ), Nxb Hội Nhà văn, 2021.

Lý luận phê bình:

Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965-1975 từ góc nhìn thể loại (Lý luận phê bình Văn học), Nxb Giáo dục, 2008.

Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai (Lý luận phê bình Văn học), Nxb Đại học Thái Nguyên, 2011.

Văn học địa phương miền núi phía Bắc (Chuyên khảo), Nxb Đại học Thái Nguyên, 2015.

Đồng chủ biên:

Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam – truyền thống và hiện đại (Đồng chủ biên), Nxb Đại học Thái Nguyên, 2014.

Văn học Thái Nguyên ( Đồng chủ biên), Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Thái Nguyên, 2008.

PGS.TS, Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đức Hạnh cả đời gắn với sự nghiệp đào tạo nhân lực ở Thái Nguyên.

Là nhà văn, chuyên ngành lý luận phê bình. Nhưng ông không những mê đắm với thơ, mà cũng rất thành công với truyện ngắn.

Mời quý vị nghe truyện ngắn Tiếng chuông chùa Tử Đằng qua sự thể hiện của nhà văn Võ Thị Xuân Hà.