Phiên âm:

Nguyệt

Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,

Lộ trích thu đình dạ khí hư.

Thủy khởi châm thanh vô mịch xứ,

Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.

Dịch nghĩa:

Trăng

Bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường,

Sương thu rơi ngoài sân, ban đêm khí trời thoáng

Thức dậy, tiếng chày đập vải không biết ở nơi nào,

Bóng trăng vừa hé rọi trên chùm hoa mộc.

Dịch thơ:

Trăng

Bên song đèn rạng sách đầy giường,

Khí lạnh đêm thu đượm giọt sương.

Thức dậy tiếng chày đà lặng ngắt,

Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng gương.

(Nhóm Lê Quý Đôn dịch)

Bài thơ Trăng của Trần Nhân Tông có từ thế kỷ 13, tính đến nay đã xấp xỉ tám trăm năm mà vẻ đẹp, cái hay của thi phẩm dường như vẫn còn nguyên vẹn. Thơ này thuộc thể tứ tuyệt, vốn ít chữ kiệm lời, nếu tình – ý không vượt ra được ngoài 28 âm tiết trong 4 câu thì coi như tác phẩm chưa thành công. Ánh sáng của bài thơ ngân tỏa xa hơn, rộng hơn cái không gian cụ thể mà thi sĩ Trần Nhân Tông đã miêu tả rất thấu đạt trong tác phẩm.

Tên bài đã chỉ ra đối tượng miêu tả trung tâm của tác phẩm là trăng. Hay, nói chính xác hơn: mảnh trăng khuya chính là khách thể gieo cảm xúc, ý tứ cho nhà thơ (chủ thể) và đó mới là “nhân vật” để ông gửi gắm tình cảm ngẫm suy về đất nước, cuộc đời trong đó. Thế mà, nhân vật trữ tình ấy đã xuất hiện sau cùng, sau chót trong bài thơ bàng bạc man mác này. Sự xuất hiện của nhân vật chính, đối tượng chính đã được nhà thơ xếp sắp vào thời khắc đắc địa nhất, duy nhất. Nó xuất hiện sau cùng để tỏa sáng ngân rung, không chỉ một lần mà nhiều lần trong sự đồng điệu với những trái tim, với những thế hệ khác.

Bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường (Bán song đăng ảnh mãn sàng thư).

Câu thơ mở đầu đã được khai sáng với bóng đèn soi nửa ô cửa sổ, soi tỏ những cuốn sách đặt trên giường. Đèn và sách mách giùm ta trí tuệ và sự ham học hỏi, ham hiểu biết của một bậc trí giả. Người đọc sách thâu đêm, mới thiêm thiếp đã bừng tỉnh dậy. Cái sự đọc này là tự giác, tự nguyện, đọc là học, học để thấu tỏ thêm phần nào thiên – địa – nhân, học để suy ngẫm tìm ra phương sách kế lược giữ nước và dựng nước sau mấy lần chống giặc dữ phương Bắc thành công nhưng chưa thể lơ là mất cảnh giác được. Sách như ánh đèn khai sáng mở mang thêm vốn hiểu biết tri thức cho con người, dù làm đến chức gì, ở bậc nào trong xã hội cũng cần phải đọc. Trong sách chứa đựng những pho kinh nghiệm, những kho kiến thức của nhân loại, nó thực sự cần thiết với mọi người kể cả Quốc chủ rồi Phật hoàng như Trần Nhân Tông. Liên hệ bây giờ, ta thấy cái văn hóa đọc đang xuống cấp trầm trọng, nhiều cán bộ rất lười đọc sách, không ít biệt thự của “đại gia” chen chúc của quý nhưng không hề có một giá sách nào. Đọc sách chưa trở thành thói quen của công chúng, rảnh rỗi thời gian là nhậu nhẹt, nói chuyện tào lao. Xã hội đang đầy rẫy kiểu người cái gì có vẻ cũng biết nhưng chẳng biết gì cả. Buồn thay!

Sương thu rơi ngoài sân, ban đêm khí trời thoáng (Lộ trích thu đình dạ khí hư).

Cảnh đêm về khuya hiện ra yên tĩnh bởi nghe rất rõ tiếng sương mùa thu rơi trên mặt sân đầy xác lá. Nếu như sân là nền đất không lại bị ẩm bởi tiết thu thì giọt sương rơi chắc không phát ra thành tiếng. Đấy là một không gian thoáng đãng, dễ làm cho lòng người thảnh thơi, hòa nhập. Không bước ra khỏi nhà mà thi sĩ Trần Nhân Tông đã nhìn thấu, nghe thấu, cảm thấu cái sâu lắng, thoáng đạt trong tĩnh lặng của trời đất bao la, của núi non trùng điệp. Hay là, tất cả đã có trong sự tự tại, thung dung của Người. Có lẽ, đó là sự giao hòa giữa người với cảnh, rất gần gụi thân thiện.

Thức dậy, tiếng chày đập vải không biết ở nơi nào (Thủy khởi châm thanh vô mịch xứ).

Khuya rồi, thiên hạ đã chìm vào giấc ngủ hết, kể cả thường dân có công việc về đêm. Tỉnh giấc, bâng khuâng nhớ tới tiếng chày đập vải đầu hôm, mới hay lòng Người thương yêu dân lành biết mấy. Âm thanh lao động vất vả ấy đọng sâu vào tâm trí Người dù bây giờ nó đã vô mịch xứ, không biết ở chốn nào rồi. Dịch: tiếng chày đà lặng ngắt, tôi thấy đúng nhưng chưa hay, chưa ôm trùm được cái ý, cũng gần như một câu hỏi tu từ châm thanh vô mịch xứ của nhà thơ. Tiếng chày đập vải không biết ở nơi nào; nghe rõ lắm những cảm thông, thương mến, chia sẻ của bậc tâm minh, đức độ vô song với người lao động. Tất cả, từ miếng ăn đến tấm mặc đều do họ – những dân thường thức khuya dậy sớm dãi nắng dầm mưa ấy làm nên. Những bậc cao sang quyền quý xưa nay, có mấy ai đồng cảm, thấu hiểu và biết trân trọng công sức người lao động như thế.

Bóng trăng vừa hé rọi trên chùm hoa mộc (Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ).

Và, cho đến giờ thì nhân vật chính của thi phẩm này mới hiện ra với vẻ đẹp thuần khiết của nó như ta đã nói: trăng thượng huyền. Câu kết là một câu thơ tả cảnh thật tinh diệu và gợi cảm. Mảnh trăng hao khuyết sau rằm vừa hé ra, rọi ánh sáng dìu dịu xuống chùm hoa mộc đẫm sương. Ý tứ được gửi gắm trong câu thơ đó đầy nhân văn. Không tràn trề, cũng không sung mãn như rằm trăng, bóng nguyệt muộn mằn vẫn quên đi sự vơi khuyết của mình để rọi sáng cho chùm hoa bé nhỏ. Cái cao xa không còn cao xa nữa. Sự bình thường bé mọn đã được rọi sáng. Trên dưới hài hòa. Tuyệt vời thay!

N.H.Q

Nguồn: Vannghequandoi

Exit mobile version