Nhà thơ thành phố Cảng Hải Phòng – Nguyễn Tùng Linh sinh năm 1946, là một trong những nhà thơ tốt nghiệp Đại học Viết văn Nguyễn Du khóa đầu tiên của trường (1979-1982). Nhà thơ đã từng làm cán bộ kỹ thuật ngành xây dựng và làm báo. Năm 1987 chính thức là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Hiện nay Nguyễn Tùng Linh là Phó trưởng ban Văn học chuyên đề Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Chi hội Nhà văn Công nhân thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Tùng Linh đến nay đã xuất bản một số tác phẩm chính như: “Hương biển” – Thơ in chung (1976), “Đất rộng trời xanh” – Thơ in chung (1979), “Cửa sóng” – Thơ in chung (1979), “Nơi tất cả tình yêu của tôi” – Thơ (1986), “Con trai người thắp đèn cửa sông” – Tập truyện (1985)… Ngoài những tác phẩm chính đã xuất bản nhà thơ Nguyễn Tùng Linh còn có nhiều truyện ngắn, các bút ký, phê bình văn học in trên các báo Trung ương và địa phương. Những tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Tùng Linh mang đậm màu sắc công nhân, đặc biệt đề tài về biển và vùng than Quảng Ninh luôn gắn bó với nhà thơ trong suốt cuộc đời sáng tác. Tập thơ “Biển mùa đông” Nguyễn Tùng Linh vừa xuất bản cũng không ra ngoài mối quan tâm ấy của ông. VanVN.Net xin trân trọng giới thiệu một số bài thơ được trích từ tập thơ này.


 

Nhà thơ Nguyễn Tùng Linh. Ảnh: Đỗ Hiếu




BIỂN MÙA ĐÔNG


Không phải mùa hè nồng nã

Căng đầy như ngực gái mươi lăm

Biển mùa đông như mắt người đàn bà góa

Có nỗi khát khao bỏ quên


Lăn lóc những dấu chân và câu thơ dang dở

Nụ hôn vội vàng như sợ ánh trăng lên

Biển như cô gái người yêu bỏ đi biệt xứ

Bên ghềnh đá xưa lặng lẽ khóc một mình


Phải nước mắt cô mà biển kia thêm mặn

Và tôi đêm nay như có muối xát lòng

Muốn thốt lên một lời mà sao đứng lặng

Biết đâu chính mình cũng như biển mùa đông.

 

Đồ Sơn,7-2004


BA ĐOÁ HỒNG CHO TÔ-NHI-A

Kính tặng hương hồn Nhà văn Nguyễn Tuân


Mas-cơ-va mùa đông

Tuyết bay ngoài cửa sổ

Hàn thử biểu chỉ mười độ âm

Những ngọn cây trắng một màu tuyết phủ


Trắng một màu tuyết phủ

Trên chiếc áo choàng của Tô-nhi-a

Khi cô bước vào phòng với nụ cười rạng rỡ

Cất tiếng chào với lời Việt,lời Nga

 

“Tô-nhi-a của tôi-thiên thần hộ mệnh

Xin giúp Già Tuân một việc khó khăn

Cô hãy tìm khắp thủ đô tuyết trắng

Mua về đây ba đóa hoa hồng…”

 

Ba đoá hồng…-Tô-nhi-a kinh ngạc

Giữa những ngày thành phố vắng màu xanh

Không ai ném tiền đi, dẫu là triệu phú

Huống chi ông là một nhà văn

 

Tô-nhi-a đem về ba đóa hồng rực rỡ

(Trong tay cô bập bùng ba nhọn lửa)

Gương mặt cô bất chợt cũng hồng lên

Như một ánh mặt trời giữa những ngày lạnh giá


Nâng đóa hồng trên tay như báu vật

Rồi bất ngờ ông trao lại cho cô:

“Tô-nhi-a, Già Tuân xin tặng”

Nhân ngày sinh và…nhân tuyết đầu mùa…”


Tô-nhi-a sững sờ-Cô đã khóc

(Những giọt nước mắt rơi làm đẹp cuộc đời)

Và tôi tin ba bông hồng ngày ấy

Trong lòng Tô-nhi-a thắm đến tận hôm nay…

 

Kỷ niệm 20 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Tuân,20-7-2007


VỚI NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG

 

Ông ngồi đấy,

quên cả chiều đang xuống

chén rượu ngang hắt tia nắng hoàng hôn

cặp mắt nheo nheo,chòm râu vểnh ngược

mải suy nghĩ lao lung hay tâm đã nhập thiền?


Ông ngồi đấy,

quên cả ngày đã đến

những ngôi sao nhợt nhạt tận cuối trời

tia nắng ướt soi trang chưa ráo mực

rượu hết rồi,còn chút cặn mà thôi


Ông ngồi đấy,

ngày này qua ngày khác

từ bàn tay ông bao nhân vật ra đời

họ cũng sống như những con người thực

cũng buồn vui với nước mắt,nụ cười…


Bữa gặp ông tôi vô cùng kinh ngạc

quần áo nâu, ông hệt một lão nông

ngồi uống rượu trong quán nghèo góc chợ

với bác xích lô mồ hôi đẫm lưng trần


Cả cuộc đời và trên từng trang viết

ông dạy tôi bài học lớn của đời

sự giản dị là điều vươn khó nhất

cho một nhà văn…và cho mỗi con người…


Con đường ấy đi qua bao đói khát

qua lao tù,qua kiệt sức mỗi ngày

qua tối sáng,qua mất còn,sống chết

qua căm giận,yêu thương…quyết không thể nửa vời


Hiểu thế thái nhân tình nên sợi râu sớm bạc

nhưng cũng vì thế mà ông sống cho thế thái nhân tình

tôi đã thấy rất nhiều lần ông khóc

trước một đứa trẻ nghèo,trước một chuyện bất công…

 

Còn nặng nghĩa đời sao ông đi vội vã

chiếc ghế bên còn ấm chỗ ông ngồi

kìa chén rượu mà ông chưa kịp uống

hình như ông vừa rót để trao tôi?


1982-1987


THƠ VIẾT TRÊN CÁNH ĐỒNG NGẬP NƯỚC


Cánh đồng trắng như trang giấy trắng

Cây lúa cố ngoi lên nhưng bị nước nhấn chìm

Cò nghiêng cánh đậu vào mô đất vắng

Làng nhìn xa như một con thuyền

Nổi bồng bềnh trước mặt


Cây mạ non vừa cắm xuống đồng

Rễ còn chưa bén đất

Cơn bão về.Suốt đêm mưa trút

Mưa…

Mưa…

Mưa…

Nước ngập trắng mênh mông

Tất cả nỗi âu lo dồn vào trong tiếng:


NƯỚC!

 

Quên đi mái nhà mình mưa dột

Quên đi cây cam bói quả rụng đầy vườn

Khói thuốc bay không xua nổi niềm day dứt

Những mắt nhìn như có lửa bên trong

Nhưng tấm lòng gặp nhau khi nghĩ về cây lúa

Một tiếng gọi từ thẳm sâu:

Phải cứu lấy mùa màng!

 

Cứu lấy mùa màng

Thành phố xa nhường điện cho máy bơm

Những sân kho ta rải bùn gieo mạ

Tiếng gầu dai,tiếng gầu sòng dân dã

(Chỉ múc nước đi thôi, để lại ánh trăng vàng)

Cho đến khi những gié lúa đầu tiên

Xanh mặt nước-

Như vần thơ thứ nhất

Bồi hồi thương vết quầng trong mắt bạn

Thương bàn tay trắng bợt nước mưa dầm…

 

Ngày.

Đêm.

Nước với con người giành giật

Cuộc chiến đấu diễn ra không cân sức

Sự kiên nhẫn vắt đến giọt cuối cùng

Đã kết thúc trong một ngày nắng đẹp.

 

Những thửa ruộng hôm nào ngập nước

Giờ cây lúa lên xanh

Những cây lúa đứng thẳng hàng-

Như từng dòng chữ

Và cánh đồng như bài thơ vừa mới viết xong.

Mùa lũ,1980


NHỮNG EM BÉ Ở MỎ CAO SƠN

 

Có thể nhận ra ngay các em

con những người thợ đào than

bởi mái tóc lẫn bụi than cứng lại

hay cặp mắt nhìn đen nhánh,hồn nhiên


Các em chạy trên than

chạy trên than những bàn chân trẻ con

chúng thả diều,chúng chơi trò trận giả

những tấm lưng sắt lại vì nắng trời và gió bể


Những em bé ở mỏ Cao Sơn

tuổi các em trẻ như tuổi công trường

có em ra đời ngày chiếc máy xúc khổng lồ về mỏ

có em sinh ngày cắt tầng,mở vỉa

bữa từ mỏ ra đi mẻ than sạch đầu tiên…


Nhà các em chưa kịp lợp ngói hồng

cây na vườn sau mùa này mới bói

những em bé ở Cao Sơn sinh cùng mỏ mới

ngày hôm nay cắp sách đến trường

trên con đường còn lầm đất bụi

nơi đoàn xe qua thùng chất nặng than đen…


Những em bé ở mỏ Cao Sơn

những người thợ một ngày không xa nữa

nhưng tôi thầm ước sao ngày đó

các em không phải lên tầng với chiếc cuốc trong tay

ăn bữa cơm khẩu phần đạm bạc

ngủ trên chiếc giường tre,mặc tấm áo vá vai

như hôm nay,

những người thợ cha và mẹ chúng

ơi những người thợ mỏ tương lai!


Và vì thế trên tầng cao chiếc máy ủi đêm nay không nghỉ

dưới lòng moong ngọn đèn không chợp mắt bao giờ

để thêm một tấn than tất cả đều gắng sức

mọi tấm lòng đều thao thức, âu lo…


Rất hồn nhiên các em chạy đùa trên những vỉa than giàu có

hay những vỉa than kia chỉ giàu bởi chính có các em ?


Hòn Gai, 1986



VỀ MỘT BỨC TRANH IN ĐÁ


Bức tranh đen,mực cũ đã ngả màu

Trên khung kính nhà bảo tàng mỹ thuật

Người hoạ sĩ trong một giây đã chớp

Hình ảnh chiến luỹ năm xưa không trở lại bao giờ

Phố tên chi,nhà ngói thấp lè tè

Cột đèn gãy kề ngay bên chướng ngại

Người lính đội mũ ca-lô trong bức tranh sao cứ nhìn tôi mãi

Giống một người quen tôi đã gặp nơi nào ?


Tôi ra đời giữa một ngày buốt giá

Hình dung ra tháng năm qua những lời mẹ kể

Tiếng loa đài trong phố hẹp ban đêm

“Ai có súng dùng súng,ai có gươm dùng gươm…”

Người cha thân yêu tôi chưa hề biết mặt

Mũ ca-lô, áo trấn thủ ra đường

 

Rung thủ đô lời thề quyết tử

“Tiến mau ra sa trường…”

Đêm ấy cha đi không bao giờ trở lại

Khúc Người hát năm nào giờ cất lại môi con…

 

Người hoạ sĩ với một mẩu chì than

Đã bất tử cùng bức tranh anh vẽ

Những nét vẽ đơn sơ mà rung lòng đến thế

Tôi đứng lặng đi trong một góc bảo tàng

Đất nước hôm nay sông núi đã liền

Hơn ba mươi năm,cuộc chiến đấu gian lao chưa khép lại

Và tôi bỗng nhận ra người lính đội mũ ca-lô trong bức tranh năm ấy

 

Với nụ cười nhắn lại-

Chính cha tôi.

1979

Nguồn: VanVN.Net