Thơ Việt Nam nói chung và thơ dân tộc thiểu số nói riêng sau năm 1975 vừa tiếp tục thành tựu thơ ca thời kì trước đó vừa có ý thức đổi mới, tìm đến những nội dung mới, hình thức mới phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của cuộc sống. Giai đoạn hòa bình, thơ dân tộc thiểu số vẫn còn tiếp tục mạch cảm hứng ngợi ca trong một khoảng thời gian tương đối dài. Phải thực sự đến thập niên đầu của thế kỉ XXI, thơ dân tộc thiểu số mới có những dịch chuyển đáng kể. Chất liệu dần thay đổi, văn học dân tộc thiểu số nói chung và thơ dân tộc thiểu số nói riêng cũng bắt đầu hướng đến khắc họa những mối quan hệ phức tạp, những mặt trái, góc khuất trong đời sống.

Nếu trước 1975, cảm hứng sử thi – ngợi ca Tổ quốc, nhân dân là chủ đạo trong văn học của các tác giả người Kinh, thì sau năm 1975 văn học bước sang một thời kỳ mới – thời kỳ thức tỉnh của ý thức cá nhân. Thơ dân tộc thiểu số tuy chuyển động chậm hơn nhưng cũng bắt đầu có những đổi thay. Trong sáng tác của Y Phương, Mai Liễu, Triều Ân, Triệu Lam Châu, Ma Trường Nguyên, Ma Đình Thu…, đề tài được mở rộng: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, từ những câu chuyện anh hùng đã hướng đến cuộc sống quen thuộc hàng ngày, từ vận mệnh chung của dân tộc đến số phận cá nhân và cả những tổn thất đau thương do chiến tranh để lại. Thơ dân tộc thiểu số thời kì này đã thâm nhập sâu hơn những khía cạnh bộn bề, phức tạp của cuộc sống và thế giới tinh thần của con người, đặc biệt là những vấn đề về con người cá nhân; phản ánh cuộc sống không chỉ là ở mặt nổi mà còn ở những mặt khuất, ở giới hạn giữa cái “không thể” và “có thể”. Viết về chiến tranh trong thơ dân tộc thiểu số không phải là vấn đề mới mẻ, nhưng điều muốn nói ở đây là cùng khai thác một đề tài nhưng ở những thời điểm lịch sử khác nhau sẽ có cách cảm nhận khác nhau. Trong đề tài chiến tranh, các nhà thơ dân tộc thiểu số nhìn lại một cuộc chiến đã qua, một thời họ đã từng tham dự một cách khách quan hơn, thẳng thắn và thành thật hơn. Bên cạnh tính hào hùng, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã tìm cách lí giải chiến tranh và con người trong chiến tranh ở nhiều bình diện khác nhau, nhưng tất cả đều toát lên tính hiện thực và tinh thần nhân văn sâu sắc. Trong thơ họ, cảm hứng trữ tình chuyển từ sự tự hào, ngợi ca sang suy tư, chiêm nghiệm; bởi thế cái hào sảng, hùng tráng nhường chỗ cho sự bình dị, mộc mạc: Gió mùa đông bắc lại thổi về/ Nghe tiếng lá trong vườn xao xác/ Thao thức mãi, không thể nào ngủ được/ Đêm nay trở trời, bạn có ngủ ngon không?/ Cùng bị thương trong chiến dịch Khe Sanh/ Phút chốc đã gần hai chục năm bạn nhỉ/ Phục viên về làng, bạn có còn được khỏe/ Như ngày nào bên biển Đồ Sơn… (Đêm nay trở trời, bạn có ngủ ngon không? – Triệu Lam Châu). Người lính không còn được khai thác nhiều ở tư thế: Gió bão ta không sợ/ Sấm sét ta không lùi/ Đánh giặc chưa xong/ Nếu anh bỏ về/ Cha mẹ sẽ mắng/ Bạn gái sẽ chê/ Pơ lây Chêm oán trách/ Ới con trai!/ Ta rủ nhau đi làm du kích – giữ làng (Đi làm du kích – Ra Dam Dăk Bút) mà trở về với cái thật nhất trong suy nghĩ mỗi cá nhân: …Đã tự nhủ mình: Vết thương có chi đâu!/ Song gió lạnh thấm vào đau buốt quá/ Càng nghĩ càng thương bao bạn cũ/ Thêm tự hào mỗi bước đã đi qua… (Triệu Lam Châu).

Ngày trước, khi “bốn mươi thế kỉ cùng ra trận” thì con người ai cũng “không có quyền nghĩ lâu trong lúc đạn bom” và dù có mất mát, hi sinh cũng phải gác lại nỗi đau riêng. Người lính thường trực một tâm thế Không tính tháng tính năm/ Cả chặng đường hành quân/ Của ta đi đánh giặc (Nằm võng ở Trường Sơn – Ma Đình Thu). Nhưng khi hòa bình, khi cái tôi cá nhân được giải phóng mạnh mẽ hơn, người ta không ngại gọi tên những gì một thời “lảng tránh”. Cái đòi hỏi cấp thiết là đưa thơ trở về với những gì chân thực của cuộc sống, kể cả đó là những đau khổ, bi kịch được các nhà thơ người Kinh nói nhiều trong các sáng tác của mình – nhất là sau Đổi mới. Thu Bồn thì “ta là đất thôi xin đừng nặn ta thành những tượng thần”, Trần Sơn Nam thì “Ta vào cuộc chiến tranh, như vị tướng tài ba xông pha trận mạc, nghĩ đời mình là một chuỗi chiến công, tuổi hoa râm về đưa tang mẹ, túi không tiền chỉ có quân hàm và cuống huân chương”… Các nhà thơ dân tộc thiểu số cũng cùng một xúc cảm ấy. Họ viết về chiến tranh và không ngại nhắc đến: Con là con trai của mẹ/ Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ/ Mang trong người cơn sốt cao nguyên/ Mang trên mình vết thương/ Ơn cây cỏ quê nhà/ Chữa cho con lành lặn (Tên làng – Y Phương).

Còn Ma Trường Nguyên thì thẳng thắn khi nói đến sự hi sinh của những người chiến sĩ: Đồng lúa chín mênh mông sóng lượn/ Ôm nghĩa trang bia trắng vào lòng/ Hoa súng đỏ điểm bồng bềnh đồng nước/ Hay máu người ngã xuống nở thành bông? (Hoa súng đỏ – Ma Trường Nguyên).

Nông Thị Ngọc Hòa dành hẳn một trường ca Nước hồ mãi trong xanh để nói về người cha Ké Bằng của mình, và không ít lần nhắc đến những ngày trở về sau chiến tranh của người lính, tấm huân chương – biểu tượng của một thời oanh liệt là sự ghi nhận cho những ngày Ở chiến trường, đói rét cứ thừa dư/ Còn tất thảy mọi thứ đều thiếu thốn:

Bố ơi

Bây giờ người ta thực dụng bao nhiêu

Huân chương không đo bằng cây, bằng chỉ

Háo hức, hội hè, hả hê, hoan hỉ

Những ô dù điên đảo mọi cán cân

Bố vẫn cần cù vất vả lo toan

Lòng đôi lúc nghĩ suy như con trẻ

Ước gì có phép thần thông nhỉ

Để mọi người lại quý… tấm huân chương!

(Nghĩ về những tấm huân chương – Nông Thị Ngọc Hòa)

Lộc Bích Kiệm lại tái hiện nỗi đau của người thương binh ngày trở về. Đó là một ngày trở về không hề bình yên khi những đứa con – biểu trưng của hạnh phúc – ra đời: Anh trở về/ Với cuộc sống đời thường gian nan/ Vui giữa bản làng/ Bằng đồng lương binh chức/ …Anh trở về/ Với thiên đường giản dị – hạnh phúc lứa đôi/ Chỉ khi những đứa trẻ dị tật ra đời/ Anh mới hiểu rằng/ Đó là sự trở về với hạnh phúc chẳng bình an! (Hạnh phúc không bình an – Lộc Bích Kiệm)

Sự đồng cảm ấy ta bắt gặp trong thơ Dương Thuấn khi nói đến số phận của bốn em bé bị nhiễm chất độc màu da cam: Bốn em bé ở Bắc Ninh/ Là con một cựu chiến binh/ Lên mười tuổi không em nào lớn nữa (Bốn em bé ở Bắc Ninh).

Chiến tranh không chỉ là món nợ của những người đã chết mà còn là gánh nặng đối với những người đang sống. Đó chính là nỗi ám ảnh mà người đọc cảm nhận được từ những bài thơ viết về dư âm chiến tranh. Các nhà thơ dân tộc thiểu số không chỉ viết về sự hi sinh của người lính mà còn không ít lần tái hiện những nỗi đau của người vợ – những con người tảo tần khi làm hậu phương, và rồi một mình âm thầm gánh chịu sự mất mát khi các anh ra đi: Anh đã hi sinh/ Với sắc biển hương trời Nhạn Tháp/ Với điệu khèn năm nao dìu dặt/ Suối rừng ăm ắp nắng ban mai./ Bỗng chị thổi lên điệu khèn ngày xưa anh vẫn thổi/ Mây trời thêm huyền ảo xa mờ/ Tháp Chàm chừng cao thêm chút nữa/ Biển cồn cào sắc xanh… (Người Pác Bó về thăm Nhạn Tháp – Triệu Lam Châu)

Triều Ân thì thể hiện thái độ quyết liệt: Ngày Độc lập nghe tin chồng chết trận/ Ôm chặt con thơ lệ chảy ròng ròng/ Nói với con tưởng như con đã lớn/ Phải trả thù, con có nghe không? (Bà mẹ – Triều Ân)

Bên cạnh nỗi đau người vợ mất chồng là nỗi đau của người mẹ mất con. Khi con ra trận rồi hi sinh: Mỗi con mỗi góc trời xa/ Trái tim của mẹ chia ra mấy phần? (Từ Ngàn Phố) và cả khi đã hòa bình: Chiến tranh qua từ lâu/ Mẹ hao gầy không ngủ (Bài thơ tặng mẹ – Đoàn Ngọc Minh)… Người mẹ – chính là đất nước, là những gì thiêng liêng nhất vẫy gọi người lính chiến đấu trở về: “Tôi phải sống để trở về với mẹ”. Trong khúc ca “Hành trình tìm kiếm” – trường ca Đò trăng, Y Phương viết: Cờ Tổ quốc trải ra bao bọc/ Giọt máu hồng lại trở về tim/ Mẹ Việt Nam ơi!/ Trên thế gian này đầy người/ Có ai đau khổ như mẹ tôi không/ Trước mặt là biển Đông/ Sóng trào lên nước mắt/ Trên thế gian này đầy người/ Có ai đau khổ như mẹ tôi không/ Sau lưng/ Dãy Trường Sơn/ Là phần mộ của toàn dân tộc.

Nỗi đau của người mẹ chính là nỗi đau của toàn dân tộc. Những bà mẹ Việt Nam anh hùng đã trở thành biểu tượng đẹp đẽ, vĩ đại của tinh thần chiến đấu quật cường, bất khuất, nhưng cũng là nỗi đau không gì so sánh được. Nhà thơ Mai Liễu khi nói đến nỗi đau của con người trở về sau cuộc chiến có một bài thơ rất độc đáo trong cách tạo dựng hình tượng. Đó là hình ảnh hốc mắt – đại lượng đo niềm vui nỗi buồn của con người. Niềm vui đầy lên, hốc mắt vỡ ra giọt lệ, ấy là khi: Người mẹ đón con/ Người vợ đón chồng/ Từ mặt trận trở về. Nhưng: Đất nước sau chiến tranh/ Bao nhiêu người đàn bà có niềm vui như thế?/ Nhưng cũng còn bao nhiêu hốc mắt trũng sâu như năm tháng đợi chờ?/ Những giọt lệ buồn không vỡ ra từ đó/ Cứ đêm đêm thầm lặng nhỏ vào tim… (Lặng thầm).

Trong sáng tác của những tác giả thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba của thơ dân tộc thiểu số bắt đầu có những khai thác sâu sắc hơn đến vấn đề riêng của con người, những thân phận nhỏ bé – bởi thế nó mang tính nhân văn hơn khi chứa đựng những tâm tư, tình cảm vui buồn sâu lắng và cả những bi kịch cá nhân. Bên cạnh đó, thơ dân tộc thiểu số hiện nay cũng chứng kiến sự bứt phá mới lạ của nhiều gương mặt trẻ, trong số đó có một vài tác giả trẻ hướng cái nhìn của mình về chiến tranh. Nỗi đau của người ở lại sau cuộc chiến, khi đất nước đã hòa bình tác động vào tình cảm của thế hệ trẻ – đó là một điều đáng quý. Hoàng Chiến Thắng viết về sự dai dẳng của hậu họa chiến tranh: Những người đàn bà đi qua chiến tranh/ Hình hài đứa con minh chứng…/ Đứa trẻ đi qua bình yên/ Từ ngổn ngang nỗi lòng người mẹ…/ Người đàn bà đi qua cơn mê…/ Bên đứa con chưa lần nghe tiếng súng/ Nhưng mãi là chiến tranh! (Đứa con của chiến tranh).

Các nhà thơ dân tộc thiểu số cũng như những nhà thơ dân tộc Kinh, khi bước sang một thời kì mới muốn tìm một tiếng nói mới mẻ hơn. Vấn đề không còn là ở đề tài lớn, đề tài nhỏ mà là cách nhìn, cách xử lý của người sáng tác. Những tác giả như Y Phương, Mai Liễu, Triệu Lam Châu… không chỉ phản ánh chiến tranh với cảm hứng sử thi mà đã đào sâu vào hiện thực, nhận thức và tái hiện cuộc chiến ở nhiều mặt, nhấn mạnh đến những góc còn khuất lấp – đó là số phận của những người lính, người mẹ, người vợ và cả những đứa con đang chịu nhiều đau khổ khi đất nước đã hòa bình. Những người lính, khi đã đi qua cuộc chiến tranh, bước tới cái tuổi “tri thiên mệnh” hầu như ai cũng nhìn lại chặng đường đã đi qua, để tự hào nhưng cũng không ít xót xa. Viết về chiến tranh nhưng không chỉ tung hô, ngợi ca mà còn để thương, để đồng cảm cũng là một cách tri ân đối với những con người, những số phận và ở điều này, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã và sẽ tìm được sự sẻ chia của hàng triệu tấm lòng.

ĐỖ THỊ THU HUYỀN

Nguồn: Vannghequandoi.vn

Exit mobile version