Một ý nghĩ tội lỗi thường vẫn đến với tôi mỗi khi nghĩ về nền văn chương mà các đồng nghiệp già có trẻ có góp phần làm ra sáu bẩy chục năm nay. Đại để đó là một thứ văn học dân gian, tự phát, mỗi ngòi bút vốn liếng mỏng manh tính chuyên nghiệp thì ít mà nặng về có gì viết nấy, còn như khả năng tự cải tạo tự thuần hóa, khả năng gia nhập vào lịch sử lâu dài, khả năng đó rất thấp.
Song sau khi nói vậy, phải lưu ý thêm một sự thực: hình như cảm thấy rất rõ cái chất hoang dại trong mình, nhiều người lại rất chịu khó che đậy bằng những học đòi nông nổi, từ đó làm nên một thứ nửa mùa dang dở. “Van em em hãy giữ nguyên quê mùa”, cái câu thơ Nguyễn Bính bấy nay vẫn vọng về trong tâm trí mỗi người như một mong mỏi vô vọng.Trong hoàn cảnh ấy thỉnh thoảng mới thấy một cây bút thật sự hoang dại xuất hiện, như trường hợp Đồng Đức Bốn (30/3/1948-14/2/2006). Trong khi một số người khác hoang dại nửa vời thì Bốn thật sự như mọc lên ở bãi cỏ đầu làng, hoang dại trong mọi khía cạnh của mình. Hoang dại thô mộc mà lại là hoang dại của thời chuyển đổi từ trung cổ lên hiện đại. Hoang dại như mớ “rau láo nháo” mà thời nay thỉnh thoảng các chợ ven đô còn bán, — trong khi những mặt hàng mới ra lò bên Mỹ bên Úc thì được các loại siêu thị và các cửa hàng xách tay cho quảng cáo khắp nơi. Một đặc điểm nữa của Bốn là xuất hiện muộn và chỉ vụt lên trong một thời gian ngắn rồi lại tắt đi rất nhanh.
Cái chết ập tới đúng mười năm trước đã khiến anh có vẻ như bị lãng quên rất nhanh.
Nhưng riêng tôi vẫn cảm thấy đây không chỉ là một hiện tượng thơ không nên bỏ qua trong văn học hậu chiến. Ngày nay không ai viết như Bốn nữa, song tôi tin cái tinh thần hoang dại mà thơ Bốn bộc lộ trong chúng ta không bao giờ hết nó chỉ đang tìm cách ngụy trang để có mặt trong các cây bút mới. Khi không có được sự tự thuần hóa bài bản, chúng ta cứ còn là hoang dại mãi. Sự che đậy ở ta càng ngày mỗi tinh vi song vì thế chúng ta lại không bắt được cái mặt mạnh của nó như Bốn đã làm; mà chỉ khiến cho cái mặt kém cỏi của nó còn đó và hiện ra trong sự hiện đại giả vờ đang chi phối chúng ta .
I
Nhân bàn về một cuốn tiểu thuyết có ý nhưng đọc không hay, không in được, nhà văn Bùi Ngọc Tấn bữa nọ chợt nói với tôi một nhận xét : — Ây viết văn xuôi là cái chuyện tốn chi tiết lắm. Ôi điều đó thì đúng quá rồi, người không viết văn xuôi cũng đã hình dung được phần nào! Song hôm nay tôi vẫn muốn dẫn câu nói kia ra đây, để nhân thể bàn về chi tiết trong thơ. Tiếp theo Bùi Ngọc Tấn, chúng ta có thể dự đoán là làm thơ thì không vất vả thế, ở đây sức ép của các chi tiết mà các nhà văn xuôi thường phải chịu,– sức ép ấy không mạnh, và người ta đỡ lo hơn. Thế nhưng xin đừng ngộ nhận là không quan trọng. Ngược lại – không phải cốt nói một điều giật gân hoặc để trộ đời, khi bảo với nhau: chính vì ít, mà chi tiết trong thơ lại càng quan trọng. Qua các chi tiết đã có thể thấy ngay diện mạo một con người.Tôi càng thấy rõ hơn điều này khi đọc Ðồng Ðức Bốn (dưới đây viết tắt là Ð Ð B).Thử làm một cuộc thống kê những từ ngữ thường xuyên trở đi trở lại trong thơ Bốn. Toàn những rạ rơm, cây cải, hoa dong riềng, bờ tre, bụi dứa, mùa sen, vườn cau, bụi tầm xuân, múi bưởi đào, dây tơ hồng, mảnh sành, gai rào. Thiên nhiên ở đây là chớp bể mưa nguồn, là bèo dạt mây trôi rồi con gió chen ngang, rồi gió giông bão tố. Còn con người thì quẩn quanh với những việc chăn trâu đốt lửa, lên chùa, đón hội, đánh bạc; hết tìm cái vu vơ họ lại tính chuyện không đâu, mà dù có bán buồn mua vui thì chẳng qua cũng chỉ chín xu đổi lấy một hào.
Còn nhớ có lần một nhà thơ trạc tuổi bọn tôi tự hào khoe là vừa đưa được chi tiết xe hồ lô trộn bê tông vào thơ và ra cái điều vậy là thơ hiện đại lắm. Ðưa được một vài chữ Hán lạ hoặc vài tiếng Anh đọc theo âm Việt, người ta thấy thơ mình sang hẳn lên. Học mót được vài thuật ngữ lấy từ các ngành khoa học, hý hửng như tìm được miền đất mới. Theo những cách tính toán kiểu ấy thì Ð Ð B và những người yêu thơ Ð Ð B hẳn xin chịu. Hình như anh đã làm một cuộc vận động ngược, tức là luôn luôn tìm cách trở lại với những từ ngữ đã quá quen thuộc của đời sống.
Vả chăng trong cuộc trở lại ấy, điều quan trọng là người ta tìm thấy cái gì.
Tôi muốn nói cái tinh thần của đời sống nó toát ra từ thơ từ nhiều bài thơ của Ð Ð B: Cổ sơ. Cũ kỹ. Quê mùa. Hoang dại.Ðể hiểu anh hơn, hãy thử đặt anh bên cạnh nhà thi sĩ được coi là quê hơn ai hết: Nguyễn Bính. Trong cuộc phiêu lưu kiếm sống giữa thị thành, tác giả Tâm hồn tôi, Mười hai bến nước, Mây Tần luôn luôn cho người ta thấy rằng thực ra ngày xưa gia đình ông sống nền nếp và phong lưu lắm, bản thân ra dáng con nhà lắm, chẳng qua bây giờ thất cơ lỡ vận nên mới khổ thế. Trong một bài thơ như Thanh đạm, người ta còn được chứng kiến cảnh đối ẩm, với lại những phút cao hứng ”cây nguyệt nằm suông mãi, tôi xin đàn người nghe“. Một bằng chứng nữa là dù được tiếng chân quê hơn đời, nhưng thơ Nguyễn Bính nhìn kỹ thấy còn nhiều chữ Hán, ở đó nhan nhản những mộng viễn hành, bức ngọc thư, hàn vi, lữ hành, tha hương, chung tình, đa đoan, tràng giang, giang hồ rồi lại cả vinh quy, ngự uyển, với mỹ nữ, lãnh cung nữa.
Ð Ð B thì khác. Cái quá khứ kia không phải chỉ là hồi ức thường xuyên trở lại, mà nó là một phần của hiện tại quanh anh. Nhất là nó chẳng có gì rực rỡ là bóng lọng, là cao sang quý phái, tức chẳng có gì là nên thơ. Trăng trong thơ ÐÐB là trăng gày trăng cong, sào là sào gẫy, diều là diều đứt dây. Con người xưng tôi trong thơ có lúc tự nhủ mình là một kẻ không quê. Dường như anh sẵn sàng nói rằng mình chẳng có gì để khoe với mọi người cả.
Trong nhiều trường hợp, hoang dại ở đây xem như đồng nghĩa với lang thang, mất gốc, không vào khuôn khổ nào, một tình trạng trì trệ không nảy nòi lên được về chất lượng nên đành bò ra ăn lan ra về số lượng. Nó, cái sự hoang dại trọn vẹn ấy, có mặt trong thơ Ð Ð B khắp mọi chỗ và làm nên một miền khí hậu riêng có phần không giống ai, dù chẳng ở ai không có.
Chỉ một lần nhà thơ kể chuyện mình Nói chuyện với cỏ dại. Song cả những khi không dùng đến cái từ cụ thể ấy, thì cảm giác hoang huỷ bơ vơ của cỏ dại vẫn trở lại. Nó ở những câu thơ nghe hơi rờn rợn Chân đạp đât đầu đội trời – ở đâu không có con người thì đi, nó lại ở cả những câu thơ tự nhiên nhi nhiên kiểu như củ khoai nướng để cả chiều thành tro hoặc mẹ ra bới gió chân cầu. Một lần tả cảnh lũ lụt, ÐÐB viết “ Ối mẹ ơi đê vỡ rồi – Mộ cha liệu có lên trời được không”. Ðằng sau lối nói lu loa, là lời thú nhận về sự bất lực vô phương cứu chữa của tình thế.
Không hiểu sao tôi đọc những câu tác giả viết như đùa: Ngậm ngùi thịt chó bánh đa Chiều nay lại thấy bà già xin ăn, hoặc Chợ làng mở dưới gốc đa Nhà quê đem mấy con gà bán chơi mà cứ thấy bùi ngùi.Xa vắng hiu hắt ngang trái bơ vơ, cái không khí ấy bàng bạc trong Ð Ð B, bất kể nông thôn hay thành phố.
II
Trong các thứ tiếng phương Tây, từ culture( mà ngày nay ta dịch gọn là văn hoá), trước khi có nghĩa dạy dỗ mở mang khai hoá giáo hoá ( Theo Ðào Duy Anh, Pháp Việt từ điển ), còn có một nghĩa gốc là cày cấy trồng trọt thâm canh, làm kỹ một việc gì đó. Hãy nhìn vào các thứ cây ăn quả hiện nay. Thoạt đầu đó là những thứ cây dại phải qua bàn tay tác động của con người rồi những đặc tính xấu của chúng mới bị hạn chế những ưu thế của chúng mới được phát huy đầy đủ.
Thế nhưng ở đây có một khía cạnh không những thuộc về khẩu vị, mà còn liên quan đến nhận thức của loài người về khả năng của mình. Sau bao thành công trong việc lai ghép hoặc biến đổi mã di truyền, tạo ra các thứ giống cây mới có nhiều ưu thế, thì con người ở đâu cũng không quên một sự thật –, ấy là trong khi thua kém các loại cây thuần hoá về nhiều mặt, thì các giống hoa dại quả dại lại có hương vị riêng mà bàn tay nhân tạo không bao giờ làm ra nổi và do đó cái hoang dại kia vẫn đầy sức cám dỗ. Oái oăm là ở chỗ ấy !
Suy rộng ra còn có thể nói dù thay đổi bao nhiêu theo hướng hiện đại thì chất hoang dại vẫn còn một phần nằm mãi trong tâm trí chúng ta, mỗi khi bắt gặp nó, ta không tránh khỏi run rẩy như chợt nhận ra cái bản lai diện mục của mình.
Các nhà nghệ thuật cảm thấy điều này rất rõ. Trong nghệ thuật hội hoạ thế kỷ XX, có hẳn những trường phái khai thác vào cái hoang dại nguyên sơ của thế giới, lấy nó đối lập với những tìm tòi duy lý, người ta mệnh danh những trường phái này là hoang dã, ngây thơ…
Tuy không phổ biến song ở ta một số người đã có ý đi vào cái hoang dại đó. Chỉ có điều nhà văn VN vốn không mạnh về bề dày văn hoá, nên đi vào hoang dại trước tiên không do tìm tòi lâu dài, mà như là ngẫu nhiên bắt gặp: Không thể đến với sách vở hàn lâm thì trở về với nó. Chợt nhận ra từ lâu nó đã thuộc về mình mà không hay biết, nhưng nay nó là cả một xu thế hiện đại thì tội gì không theo. Nếu khôn ra, gán thêm cho nó một ít màu sắc lý luận thì càng oai.
Về phần mình, ÐÐB đến với hoang dại như là không có con đường nào khác. Một lần tìm thấy là anh khơi mãi vào cái mạch ấy để tạo ra một nguồn thơ riêng, đến mức, gần đây, người ta cảm thấy thơ anh đơn điệu và dừng lại. Nhưng dù có thế thì cũng chẳng sao.
Nếu được đi tới cùng trên mạch suy nghĩ của mình, tôi còn muốn nói, qua anh, đã thấy manh nha một dạng nhà thơ mà chỉ thời nay mới có.
Chúng ta biết rằng thi sĩ cũng là những mẫu người chịu sự quy định chặt chẽ của thời đại. Theo sự quan sát của tôi, có thể tạm xếp loại mấy kiểu tâm thế thi sĩ hiện thời: 1) thi sĩ giáo huấn 2) thi sĩ hùng ca3) thi sĩ ngây thơ như trẻ nhỏ, biết nhìn ra chất thơ ở chỗ người đời bỏ qua 4) thi sĩ hóm hỉnh, giỏi pha trò 5) thi sĩ dự phóng, nhìn thấu lẽ đời vv.. và vv..
Không hẳn những sự định danh trên đây đã chính xác, song chắc là trong chân dung các thi sĩ hiện thời không ít thì nhiều có mấy cái đó. Mà Ð Ð B thì không rõ vô tình hay cố ý, nhưng đúng là cứ trật ra khỏi những cái khuôn khổ mà nhiều người đã tự nguyện chấp nhận và góp phần hoàn chỉnh ấy, để gần như đứng một mình. Tung tẩy phá phách làm tình làm tội người khác thế nào không biết, nhưng đó là chuyện ngoài đời, còn vào đến thơ, cái tôi của Bốn là một cái tôi hậm hụi bất lực. Dường như không sao tìm được sự cân bằng trong tâm lý. Cũng như chẳng biết cư xử ra thế nào cho phải. Thấy chung quanh tầm thường vớ vẩn, mà mình thì cũng chẳng hơn gì, lại có lỗi ở chỗ không biết làm sao tác động tới đời, khiến cho nó trở nên tốt hơn vừa ý mình hơn. Giữa vô vàn những lo toan – lo nghèo lo đói lo khổ lo không được “hiện đại”, – lại thêm còn cái lo nữa, lo lạc lõng, không ai nghe mình. Mấy chữ mồ côi thường xuất hiện. Trăng mồ côi. Bão mồ côi.Cây mồ côi. Mà con người đến chết vẫn có thể tiếp tục mồ côi Trở về với mẹ ta thôi- Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ. Tâm lý mồ côi đó là gì nếu không phải là tình trạng người ta mất đi những chỗ dựa chắc chắn về tinh thần, không có cái để tin yêu và kính trọng ?!
Trước một đời sống ngổn ngang và có thể nói là tàn bạo nữa, con người trong thơ Ð Ð B như vậy là đang đi dần tới một thái độ tạm gọi là vừa phải: không huớ lên hớn hở một cách trẻ con, mà cũng không lảng đời kệ đời; không tự nhấc mình vượt lên trên hoàn cảnh rồi chửi bới tùm lum, hoặc cười cợt vô trách nhiệm, mà cũng không làm bộ làm tịch, ra cái điều đang mải mê với những triết lý sâu sắc. Thơ chỉ có vậy, nên đành là một lời tự an ủi.
III
Bây giờ ta hãy cùng nhìn kỹ vào cái giọng thơ lục bát mà Ð Ð B đã hình thành riêng cho mình. Chỉ xét riêng thời nay đã thấy không ít những bậc thày kỳ tài còn in dấu trên thể thơ này. Duyên dáng tự nhiên là lục bát của Tản Ðà. Cổ kính chắc chắn đường bệ đấy là lục bát của Huy Cận trong Lửa thiêng.Và người mà ở trên đã nói, Nguyễn Bính. Trong các tập thơ của mình, Nguyễn Bính mang lại cho lục bát khi thì một vẻ ỡm ờ, khi thì đoan trang, và bao giờ cũng tràn đầy nhạc điệu. Cả trong những câu thơ như buột miệng mà nói ra ( Em van anh đấy anh đừng yêu em ), lẫn những câu đùa đầy dụng công ( Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm ), người ta vẫn thấy một cái gì như là dẻo mồm tức quá khéo, dù đã khéo đến mức tự nhiên.
Cái lối tạo ra lục bát một cách trúc trắc, từng đôi câu sáu tám không vang lên một cách nhịp nhàng mà có vẻ lập cập khó khăn – cái lối ấy chỉ mới có từ hồi sau 1945. Nguyễn Ðình Thi và nhiều người khác đã tham gia vào quá trình này, ở đây tôi chỉ dẫn ra một người bạn cùng tuổi là Xuân Quỳnh. Vốn rất tự nhiên trong việc bẻ vần ghép chữ, mà không hiểu sao, trong một đôi khi sử dụng lục bát, Quỳnh vẫn cứ làm cho nó ngang ngang, ví dụ bài Về những thói quen của chị mở đầu bằng mấy câu như sau “ Con sông quen chảy xuôi dòng Mùa mưa nước lũ quen dâng từ nguồn Bên bồi thì cứ bồi luôn Còn bên lở vẫn lở thường quanh năm “. Ôi lục bát gì mà đuồn đuỗn thế này ! Sau tôi mới hiểu chính là Xuân Quỳnh đã cố ý làm thế để tránh đi cái nhịp nhàng đều đều đã nhàm chán của một thể thơ quá phổ biến.
Trở lại với ÐÐB, phải liều mạng lắm người ta mới dám viết những câu ngang phè, đại loại:
Rét lòng khát ngọn lửa nhen
Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi ?
Thế nhưng đó chính là những câu thơ làm cho người đọc không đọc lục bát theo kiểu trôi tuồn tuột, mà phải dừng lại ngẫm nghĩ, cũng tức là nhà thơ đạt được cái hiệu quả mà người cầm bút nào cũng mong muốn.
Dễ dàng nhận xét là nhiều bài thơ Ð Ð B không có được cái sự liền mạch, mà hình như do từng mảng ghép lại, mỗi mảng là một đôi sáu tám hoặc hai đôi liền. Viết cái gì thì cũng vậy mà làm thơ càng dễ vậy, kỵ nhất là cái lối câu nọ gọi câu kia, đưa đẩy chuyển tiếp kết quả thành một thứ thuận miệng giống như người quen chân đi mãi, nhiều khi vẫn đi đấy mà không biết mình đi đâu. Trong một thể như lục bát điều đó càng dễ xảy ra. Không có kết cấu, nó qúa tự do, nhưng cũng chứa đầy cạm bẫy trong cái tự do đó. Do một sự may mắn nào đó, Ð Ð B có duyên sớm ngộ thấy cái sự mòn mỏi của nó, nên cố tìm cách tránh. Lục bát ở đây không nhịp nhàng nối tiếp mà cứ giật cục như cái gì ngắc lại nghèn nghẹn nơi cổ. Thứ lục bát đó tôn thêm cảm giác quê mùa hoang dại chung của thơ Ð Ð B mà đoạn trên đã nói. Nói cho to tát cũng tức là ở nhà thơ này có một sự quyến quyện giữa nội dung và hình thức, hoặc nói theo chữ nghĩa đang thịnh hành tức là sự nhất quán của thi pháp.
IV
Thuở nhỏ tôi sống ở làng Thuỵ ( tên đầy đủ là Thuỵ Khuê ), một vùng ngoại ô phía bắc Hà Nội, đàn ông thì đi làm Nhà da, Máy giặt, Bia Ô mền ( Bia Hà Nội hiện nay ) hoặc công nhân Xe điện, còn đàn bà chuyên hàng quà, bán rong các phố, quà rong ở đây cụ thể là các loại xôi, ngoài ra là sắn luộc khoai luộc v.. v…
Khoai luộc của làng Thuỵ thì ngon lắm.
Những năm năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước, phố phường Hà Nội chưa đầy bụi và ngạt khói xe máy như bây giờ. Khoai luộc chảy mật đặt trên mẹt của dân làng Thuỵ nhởn nhơ gánh bán rong các phố không ai cho là bụi bẩn, nên ai trông cũng thèm, cả các cô môi son má phấn Hàng Ngang Hàng Ðào cũng gọi mua.
Nhưng ngoài món khoai cổ điển đó, với cái gốc con nhà nghèo, tôi nhớ một món khoai lạ của các bà các cô làng Thuỵ. Khoai luộc mới sôi thì đã vớt ra và đổ vào nước lạnh, bởi vậy chỉ vừa chín tới và cắn vào còn sồn sột, nên gọi là khoai sượng. Cố nhiên là chỉ những thứ khoai còn nhỏ, những củ nhách củ kẹ, bán nắm bán mớ, mới được dùng để làm loại quà rẻ tiền này. Song có lẽ chính vì như thế nó lại có cái vẻ ngọt riêng, ngai ngái ngầy ngậy gần với khoai sống.
Không hiểu sao, khi đọc thơ ÐÐB tôi lại hay nhớ tới thứ khoai sượng nay đã tuyệt chủng kia.
Nhưng tôi cho rằng sẽ làm nghèo Ð Ð B đi nhiều nếu xem việc anh khai thác yếu tố hoang dại chỉ có ý nghĩa một biện pháp nghệ thuật, một cách ranh ma đổi mốt nhằm câu khách, mà không thấy rằng cái chính ở đây là một cách nhìn nhận, một cách bắt lấy cái thần của đời sống.
Thử nhớ lại hai bài thơ không rạ rơm chút nào của Bốn, bài Chiều mưa trên phố Huế và bài Xích lô đường Bà Triệu. Trong con mắt người làm thơ, cảnh phố Huế nào có khác chi chợ quê, cũng hàng thì bán đứng bán ngồi chen nhau, xe cúp dàn hàng ngang mà đi đấy, nhưng vẻ hiện đại không che nổi áo rách. Giữa đường Bà Triệu ồn ào, nhà thơ nhạy cảm vẫn thấy toát lên một chút gì đó tịch mịch xa vắng. Bởi vậy, cái chuyện cô đơn ngay giữa đám đông là không tránh khỏi và cảm tưởng cuối cùng được cô kết lại bằng cái câu rất sái: Xong rồi chả biết đi đâu, Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương.
Thế nghĩa là gì ? Dù đã chuyển sang thời hiện đại, song cảnh tượng ở đây chỉ là một biến thể của những chăn trâu đốt lửa với lại bắt gió chân cầu đã nói ở trên. Chua xót. Bế tắc. Cầm bằng đến đâu thì đến. Mà hoang dại vẫn hoàn hoang dại.
V
Rút lại thì tôi muốn bảo Ð Ð B là một giọng thơ dân gian hiện đại. Dân gian là một khái niệm rất rộng. Là một cảm giác dang dở về đời sống. Là sự lạc quan tất yếu thành ra một thứ bản năng. Lại cũng là một nỗi buồn xa vắng khôn nguôi. Là sự hoà quyện giữa hy vọng và thất vọng. Là lòng ham sống là ý chí vươn lên đấu tranh cho đời sống ngày một tốt đẹp. Mà lại cũng là một sự hư vô buông xuôi gần như đồng nghĩa với tự cho phép muốn làm gì thì làm –, con người thì bao giờ cũng thế thôi, quá bận tâm đến họ làm gì cho mệt. Bởi vậy dân gian là trong sáng vô tư, nhưng cũng là hư hỏng đàng điếm tuỳ tiện “ chí phèo “…. Ðấy đại khái dân gian có lắm sắc thái như vậy, và chúng ta còn đang nỗ lực để hiểu thêm về nó.
Riêng về Ð Ð B, tôi cảm thấy trong cái vẻ đều đều gióng một của mình, anh vẫn là một tính cách pha trộn. Trong giọng thơ này, cái già cỗi mệt mỏi tồn tại ngay bên cạnh cái trẻ trung, cái ham muốn bồng bột nẩy nở đấy mà cũng tàn lụi ngay đấy, để rút lại nhường chỗ cho cái ngu ngơ bất lực bao trùm.Vừa chấp nhận đầu hàng, bỏ qua tất cả, mà lại vừa tham lam càm quắp, cò kè tính toán, vơ véo nhặt nhạnh, níu kéo lấy một cái gì lúc nào cũng có thể mất.
Hình như sự chấp nhận nửa vời như thế đang là cái cách mà nhiều người đương thời, trước một đời sống đầy bất trắc, tự phát tìm đến để tự vệ ?! Người ta thường chê tôi là cái gì cũng chỉ “cảm thấy “ với “ hình như “, song chuyện đời là thế, lần này tôi vẫn không dám khẳng định, mà lại chỉ dừng lại ở “ cảm thấy” và “ hình như “ như cũ. Chỉ biết rằng đôi lúc rỗi rãi trong tâm trí thường vẫn quẩn lên vài câu thơ ÐÐB. Gạt đi cái phần ngang ngược thô thiển nó là điều không thể khác được với một con người có hoàn cảnh cụ thể như tác giả, thơ Bốn đôi khi là cái cớ giúp tôi tìm thêm lòng ham sống, lẫn thấm thía cả cái vô nghĩa của đời sống.
Làm đất đất phải nở hoa Làm tôi, buồn cái người ta vẫn buồn Với câu thơ bâng quơ nghe như một tiếng thở dài đó, dường như Ð Ð B đã thú nhận: chẳng qua anh cũng chỉ như mọi người. Mà làm sao khác được cơ chứ ! Luật đời đã định !
Trong khi khai phá và trình bày nỗi niềm hoang dại nơi mình, người thi sĩ đã giúp chúng ta tìm thấy một phần cái ta sẵn có mà lâu nay chót quên lãng và mặc dầu vẫn sống đủ với nó, song hầu như lại chưa bao giờ nghiêm túc suy nghĩ về nó. Cuộc đời thì ngắn mà mỗi chúng ta thì bơ vơ lắm.
Viết và in báo từ 7/2005Đã đưa vào tuyển tập Phê bình & tiểu luận, 2008 – Nhà phê bình Vương Trí Nhàn