Đỗ Trọng Khơi: Sau những ngày mong đợi, tập truyện ngắn chọn lọc TRẦN TRỤI CON NGƯỜI đã được NXB Phụ nữ in xong và chuyển sách về tới nhà tác giả. Thật vui mừng và biết ơn NXB PN, với chị GĐ – TBT Khúc Thị Hoa Phượng, Ngô Xuân Khôi, Nguyễn Thị Kim Hằng, Nguyễn Ánh Ngân…Nhà văn Văn Chinh, PGS TS Hoàng Kim Ngọc, TS Nguyễn Thanh Tâm nhiều!
TS NGUYỄN THANH TÂM
Có may mắn được đọc thơ Đỗ Trọng Khơi, rồi lại được anh tin tưởng gửi bản thảo tập truyện ngắn sắp in cho đọc, tôi vừa vui mừng vừa lo lắng. Cái vui, kể đã rõ và cũng nhanh chóng qua đi, nhường chỗ cho cái lo. Tác phẩm, văn bản đấy, nhưng liệu mình có chạm được đến tầng vỉa tiềm chứa giá trị của nó, hay lại chỉ khơi khơi được lớp giác vỏ bề ngoài? Đọc đi đọc lại, cố hình dung ra cái “đại tượng vô hình” (F. Jullien) trong bản thân mỗi truyện ngắn và xuyên suốt những truyện ngắn của Đỗ Trọng Khơi, việc đó, với tôi, quả không hề dễ.
Trở đi trở lại với những văn bản, những câu chuyện, nhân vật, sự kiện, những luận giải về lẽ sống, đạo làm người, thế thái nhân tình,… trong tập sách của Đỗ Trọng Khơi, tôi dần lượm lặt được cho mình những cứ liệu chủ chốt để có thể trình bày đôi nét về truyện ngắn của anh. Kể ra, cũng chỉ nên xem như đôi nét chấm phá và là sự diễn dịch chủ quan từ phía một người đọc. Lạ là, từ dạo đọc tập thơ Quê (2013), Ở thế gian (2016) của anh, đến tập truyện ngắn này, cứ bao quyến lấy tôi là không khí của những huyền thoại (xin được hiểu huyền thoại theo nghĩa mà R. Barthes (qua đó là M. Foucault với quan niệm về diễn ngôn) đã đề xuất. Theo đó, huyền thoại là những hình thức biểu đạt, những thông báo, những ký hiệu, luôn ẩn chứa những ý muốn khuếch trương nhằm sở đắc sức mạnh của chân lý – quyền lực). Đó là sự hoà trộn hay đúng hơn là dịch chuyển và hoá giải, kiến tạo hai dạng huyền thoại: huyền thoại lịch sử/ xã hội và huyền thoại cá nhân. Trong quan niệm của tôi, diễn ngôn là những huyền thoại hoặc là cấu trúc của huyền thoại. Do vậy, tôi quan tâm đến cách kể (kể thế nào) hơn là câu chuyện (kể cái gì). Nói cách khác, tôi muốn tìm hiểu xem, Đỗ Trọng Khơi đã làm thế nào để phô bày ý hướng nghệ thuật của mình hay như các nhà nghiên cứu đã đúc kết: Chiến lược diễn ngôn của Đỗ Trọng Khơi như thế nào? Điều đó dẫn dắt tôi đến với việc xem xét hệ thống lời kể – ngôn ngữ trần thuật cũng như đặc tính của ngôn ngữ trong việc kiến tạo thế giới mang chủ đích của nhà văn. Kết quả, tôi nhận ra sự thống trị của diễn ngôn lịch sử – như là những huyền thoại. Nhưng, không dừng ở đó, Đỗ Trọng Khơi trưng dụng diễn ngôn này nhằm kiến tạo một huyền thoại khác: huyền thoại cá nhân.
Trước hết, tôi muốn trình bày những quan niệm về hiện tượng hư cấu lịch sử trong văn chương đương đại có liên quan một cách khá lâu dài, bền bỉ đến diễn ngôn của Đỗ Trọng Khơi (những truyện ngắn hư cấu lịch sử của anh được viết từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước). Gần đây, xu hướng quay về với các vấn đề lịch sử, đúng hơn là sáng tác về đề tài lịch sử, hư cấu lịch sử đang diễn ra khá rõ trong đời sống văn học. Các tác giả viết truyện ngắn, tiểu thuyết xoay quanh các biến cố, sự kiện, giai đoạn, triều đại, nhân vật trong lịch sử như một cách diễn dịch/ tái diễn dịch lịch sử. Có thể nhận thấy trong các tác phẩm của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Trọng Khơi, một số tác giả trẻ như Uông Triều, Đinh Phương, Nguyễn Thị Kim Hoà, Doãn Dũng,… Sự trở về lịch sử không bao giờ chỉ là trở về để tường thuật lịch sử. Đó luôn là những động thái chứa đựng suy tư của đương đại, tiềm ẩn những vấn đề của cái đang diễn ra, đang hiện diện.
Cái gọi là “sự thật lịch sử” thực chất là một thứ “màn” (M. Kundera), hay như cách nói của hiện tượng học (có thể xem như một học thuyết khoa học, triết học, diễn giải về bản chất của hiện tượng) đó là một thứ tri thức tiên nghiệm, có trước, được quy ước, vây bọc, che đậy khiến cho con người không thể tiếp cận được với bản chất của hiện tượng! Bởi thế, phải giảm trừ, phải tước bỏ lớp màn bao phủ hiện tượng! Ở đó, nơi hiện tượng hiện diện như là trạng thái uyên nguyên, sơ khai, chúng ta có cơ hội nhận ra bản chất, cốt lõi của hiện tượng. Tường thuật lịch sử trong tư cách là những biến cố, những dấu vết của quá khứ đó là việc của sử gia. Nhà văn thì không cần, thậm chí biết mười mươi điều được ghi trong chính sử cốt chỉ để diễn giải, tái diễn giải, tưởng tượng, tạo dựng một khả năng, cái mà anh ta cho rằng nó “có thể xảy ra” (Uông Triều – Sương mù tháng giêng). Như thế, con người có điều kiện để chiêm ngắm, để hình dung một cách đa dạng hơn các khả năng của quá khứ, nơi mà con người không thể kiểm chứng hay minh xác. Nhân vật trong những tác phẩm dạng này không nhất thiết phải là các nhân vật đã được ghi chép trong các bộ sử, không nhất thiết trùng khít lên những gì được cho là “sự thật lịch sử” từ việc biên chép của sử gia. Các nhân vật sống một đời sống khác như là nó có thể! Ngôn ngữ tạo ra hiện thực, hiện thực ở tiểu thuyết, truyện ngắn lịch sử là một hiện thực của tưởng tượng, hư cấu, là những hình dung trong thăm thẳm thời gian, trong “sương mù” lịch sử. Thoát khỏi những huyền thoại được tạo dựng để đề xuất một hình dung khác, khả năng khác của lịch sử, đòi hỏi tác phẩm đi đến tận cùng thân phận, không chỉ là tâm lý mà là đời sống, là toàn bộ những biến cố đã biết hoặc còn ẩn sau tấm màn chính sử, dã sử, giai thoại. Như thế, nhà văn phải đứng xa các pho sử, thậm chí, như Kundera nói, anh ta phải bước ra từ chính “Đống đổ nát của lịch sử”! Loại hình tác phẩm này không phải để củng cố niềm tin lịch sử. Ở đó, nó cần khơi dậy những hoài nghi, truy vấn về quá khứ, làm cơ sở cho những dự phóng diễn dịch và tái diễn dịch các hiện tượng lịch sử! Lịch sử thực chất là những diễn ngôn về lịch sử! Do vậy, tiểu thuyết hay truyện ngắn thậm chí là những cái viết khác về lịch sử cũng là một diễn ngôn trong ý hướng kiến tạo một khả năng, nhằm đối thoại với những diễn ngôn đã và đang có, đối thoại với “sự thật lịch sử”. Nhưng, nếu bị che mắt bởi các lớp diễn ngôn có trước, nhà văn sẽ chẳng thể đề xuất một diễn giải khác về lịch sử! Nếu có, các diễn ngôn đó chỉ nên xem là những tham chiếu hoặc là những nghi vấn, thậm chí là những lầm lẫn cần đính chính! Một cách đi khác với diễn tiến lịch sử quan phương có thể tạo nên cảm hứng cho sự viết và cả sự đọc! Điều quan trọng hơn, nó đem đến những hình dung phong phú về cái đã qua nhưng không phải là đã đông cứng! Muốn thế, tác giả phải quên đi sự kiện như là nó đã được quy ước, tạo dựng! Anh ta không bị đánh lừa bởi những lớp “hoá trang”, “che đậy”. Không gian xã hội, văn hoá, các cấu trúc của không thời gian lịch đại được hiện lên “trần trụi” bằng bản chất thế tục/ vốn có (thể) của nó thông qua diễn ngôn nghệ thuật.
Truyện lịch sử, đương nhiên chỉ là những hư cấu hoặc mượn sử để gửi gắm suy tư về thời thế, nhân tâm. Tác giả đã nắm được bản chất của hư cấu lịch sử tức là thông qua hình thức tự sự nghệ thuật để trình hiện một cách đọc, cách tường thuật lịch sử như là nó có thể diễn ra. Ở đó, đòi hỏi về “sự thật lịch sử” đã được giảm thiểu nếu không nói là bị triệt tiêu. Nghệ thuật, đưa phạm trù lịch sử vào trong một không gian khác – không gian nghệ thuật, không gian của sự hư cấu. Vì thế, diễn ngôn, lời nói được cấp một mã khác, có hiệu năng, quyền lực, đúng hơn là một dạng “hộ chiếu” linh hoạt hơn cho những động thái diễn tiến của mình. Hẳn, Đỗ Trọng Khơi ý thức rất rõ lợi năng này của diễn ngôn lịch sử/ hư cấu lịch sử.
Theo cách Charles Benoil hình dung, bản thân lịch sử cũng đã là hư cấu, vậy thì, việc bám vào sử để hư cấu thực ra là một diễn dịch trên nền của hư cấu . Nó là một tường thuật khác từ những tường thuật của quá khứ mang thiên kiến. Tường thuật của Đỗ Trọng Khơi không thúc giục người ta phải tra cứu lại lịch sử (hoặc giả nếu có thì cũng không phải để phân định đúng sai), cũng chẳng làm người ta dao động, mất niềm tin hay củng cố tin tưởng vào một xác quyết nào đó từ lịch sử. Đơn giản, lịch sử, trong tư cách hiện diện ở đây, chỉ là một phương tiện. Diễn ngôn lịch sử đã trở thành một công cụ của diễn ngôn văn chương. Nhưng, điều mà có lẽ bất cứ nhà văn nào khi có ý định trưng dụng lịch sử như là những huyền thoại khởi thuỷ cho hư cấu nghệ thuật có lẽ cần ý thức, như Iu. V. Satin đã luận giải: “Giải cấu trúc của huyền thoại bằng cách cho nó đi qua tấm màng lọc của huyền thoại cá nhân, và ngược lại, giải huyền thoại cá nhân bằng cách cho nó đi qua tấm mang lọc lịch sử” . Vẫn là câu chuyện của cấu trúc diễn ngôn với đặc tính loại trừ, nhưng ở đây là những diễn ngôn luôn có xu hướng khuếch trương thành huyền thoại. Đỗ Trọng Khơi, trong tác phẩm của mình, hướng đến những giá trị căn bản của xã hội và loài người. Nhưng, sự thật, những tư tưởng, đạo lý mà Đỗ Trọng Khơi suy tư, bàn luận, gửi gắm, dường như không thoát khỏi trường ảnh hưởng của những huyền thoại. Không khó để nhận ra ở đây những trăn trở, suy tư về nhân tình thế đạo của người viết. Tuy nhiên, như một biểu đạt nằm ngoài chủ ý của tác giả, những đại tự sự đó đang tố giác một kiểu tư duy xây cất trên nền tảng “sử thi”, đúng hơn, đó là một dạng huyền thoại phái sinh trên huyền thoại. Thế đạo, nhân tâm, hành tàng xuất xử, tranh vương đoạt bá, được mất hơn thua,… trong không gian văn hoá – lịch sử – xã hội Việt Nam (và phương Đông) vốn là những phạm trù mang phẩm cấp đại tự sự. Do vậy, việc luận đàm về nó dễ có cảm giác “cao đàm khoát luận” mà sự thật chưa hẳn đã đánh thức được thế đạo nhân tâm. Tính chất cằn cỗi của huyền thoại, của đại tự sự đã không thu hút được chú tâm của người đọc, bị tuột trôi trong mạch tự sự, suy tư của tác giả. Nhưng như thế, những lo âu, “ưu thời mẫn thế” của tác giả vẫn được hiện diện, dù nó phảng phất một vẻ quyền uy gây nên bởi chính sự tự mãn của các huyền thoại, các đại tự sự. Không khí của những huyền thoại, vô tình trở thành không khí của truyện kể và Đỗ Trọng Khơi bị quy thuộc vào không khí lịch sử, huyền thoại. Khi mượn sử, dù là “tá thi hoàn hồn”, nhưng, không khí của truyện kể lại bị chính cái không khí vốn đã lạnh lẽo, đông cứng của lịch sử – hư cấu chi phối. Vì thế mà khó cảm nhận ra được không khí riêng, giọng điệu riêng của truyện kể. Hư cấu lịch sử đã hoà vào không khí lịch sử, và người viết dường như không nhận ra mình bị huyền thoại lôi cuốn đi. Bản chất của huyền thoại, từ chính quyền lực của nó, áp chế và tạo nên dạng thức tồn tại không có tính truyện kể. Nó là giá trị được cô kết, được tôn vinh hay tạo dựng, hướng đến việc xác lập chân lý, niềm tin hay quy tụ những diễn ngôn khác. Nó được cấp cho thẩm quyền loại trừ cái phi chính thống, phi trật tự, cái nghịch luận. Điều rất đáng quan tâm và là điểm tạo nên hạt nhân, phong khí trong văn chương Đỗ Trọng Khơi chính là, cái huyền thoại phi truyện kể đã thao túng không khí tác phẩm. Nó gắng gượng đến tàn hơi duy trì không khí huyền thoại, đại tự sự. Nó gắng gượng trấn áp cái mạt thế, cái nghịch luận vốn là nơi khởi phát của truyện kể, cũng là không khí chủ đạo của thế sự. Đại đạo được đặt vào miệng các vĩ nhân hoặc ít nhất là những thức giả, bậc trí lự là một thất bại nhìn từ điểm nhìn của những kiến tạo – giải kiến tạo lịch sử, huyền thoại. Những nhân vật như Tuệ Trung Thượng Sỹ, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Võ Chiếu, Chu Hy (học trò Lê Hữu Trác), Nguyễn Du, Nguyễn Khản, Xuân Hương,… vẫn là những đại tự sự mà Đỗ Trọng Khơi dù muốn cũng không đủ sức để vượt qua sự trì níu khủng khiếp đến từ huyền thoại. Những nhân vật thế sự khác, dẫu trong một ván tổ tôm, cô hàng thịt lợn, mẹ Gióng, cô Đẳng, ông Sến, anh bốc vác, cô sinh viên văn khoa thất nghiệp làm thơ, tay lính trận, nhà biên kịch, người mẹ già, nàng giáo viên… vẫn thường xuất hiện như là hiện thân của trí tuệ đại chúng. Đại đạo, vốn là một huyền thoại, đã tạo nên áp lực đối với chiến lược phát ngôn. Áp lực này giải toả, triệt tiêu không khí truyện kể, để tiếp tục hình thành một không khí huyền thoại khác. Diễn ngôn chủ đạo chỉ còn là những thuyết diễn tư tưởng thông qua con mắt, góc nhìn, cảm niệm của những kẻ được trao cho quyền lực quan sát, luận bàn và đánh giá, tổng kết thế thái nhân tình. Những diễn tiến hướng về phía thế sự là một động thái có tính giải huyền thoại, khiến cho lớp màn lịch sử được vén mở. Kỳ thực, đó là một lớp màn khác giăng lên trong hư cấu, tưởng tượng, trong tình thế không thể (cần) kiểm chứng. Chính sự vây bọc của các lớp màn đã tạo điều kiện cho những tưởng tượng, hư cấu trên nền sự kiện và nhân vật lịch sử. Qua đó, những tưởng tượng, hư cấu tường trình về cái chưa biết, chưa xuất hiện hay còn ẩn khuất trong màn bí mật. Nhưng, cũng ngay tại đó, dễ nhận ra lối “cao đàm khoát luận” trong lời của một số nhân vật mà lẽ thường, họ khó có thể là chủ nhân của những suy biện ấy. Nhân vật, như thế, đôi khi bị biến thành cái loa phát ngôn của người viết. Đỗ Trọng Khơi có chủ ý cho những nhân vật đời thường (người bốc vác, lái xe, anh lính trận, cô hàng thịt) phát ngôn. Họ, dẫu ít học hành nhưng lại sở đắc một tri thức bác nhã, lịch duyệt. Kỳ thực, vẫn là một dạng thức của “đại đạo” trong việc chuyển hoạt trí tuệ dân gian thông qua hình tượng người dân thường, người lao động chân tay, những người không bị sách vở (một dạng huyền thoại khác) chế ngự, ràng buộc. Dẫu như thế, không thể thoát khỏi nỗi băn khoăn của người đọc, các nhân vật “tầm thường” này luôn nói/làm những điều phi thường, khiến cho những kẻ được cho là phi thường cũng phải giật mình. Tấm gương Bá Nha – Tử Kỳ là điều đáng lấy làm trân quý trong cõi nhân gian ẩn chứa bao điều lạ lẫm. Nhưng, cũng vì thế, nhân vật của Đỗ Trọng Khơi, lại bị đẩy vào một cõi huyền thoại đầy màu sắc dị thường. Chính trong tác phẩm của mình, có lúc Đỗ Trọng Khơi bày tỏ, người ta thường phải có thứ gì đó để ngẩng mặt lên với cuộc đời. Những nhân vật phàm thường ẩn giấu những nét bất phàm. Đó là niềm tin còn đọng lại giữa nhân gian hay là một cách để giải toả trạng thái đạo mạo của huyền thoại. Cũng có thể lắm chứ. Và nữa, cái bộ phận phàm thường ấy mới chính là cái rộng rãi, mênh mông của cuộc đời. Đó là nhân gian, là nơi mà văn chương, xét cho cùng cần phải đến và sống, để kích hoạt giá trị, nghĩa lý của mình. Cứ ở mãi nơi lầu ngà, nơi những đánh giá khệnh khạng, văn chương xem chừng sẽ trở nên sáo rỗng và kiểu cách, nếu không nói là lố bịch, vô dụng. Nhưng, cũng lấy làm lạ, những kẻ phàm ấy lại có lối luận lí hệt các bậc thức giả (xem: Tản mạn chuyện phố Đầm, Câu chuyện văn chương – Nhà soạn kịch). Người viết đã để lộ mình quá nhiều trong những biểu thuật ấy, đã đặt vào miệng dân gian lối diễn đạt quá bác học, khác với lối nghĩ, lối nói của người dân lao động thường ngày. Đọc Đỗ Trọng Khơi, vì thế có cảm giác hơi nặng nề bởi tham vọng gửi gắm đại đạo vượt qua cái ngưỡng gián tiếp, kín đáo của hình tượng nghệ thuật (khởi thuỷ, chúng tôi mượn một câu thơ của Đỗ Trọng Khơi đặt tên cho tiểu luận này là: Khi tình quá một gang tay, về sau thấy nên sử dụng một tiêu đề khác để rõ hơn tư tưởng của tiểu luận: Thân phận của những huyền thoại). Việc cố gắng thể hiện đại đạo biến lời văn thành một chuỗi những thuyết giảng, đại luận. Từ những nhân vật như Tuệ Trung, Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Thị Lộ,… cho đến cô gái làm thơ, anh nhà báo, cậu bốc vác,… đều nói những điều cao thâm, uyên súc khiến cho truyện kể trở thành một thế thân của tiểu luận triết học nhân sinh, tiểu luận về quan niệm văn chương, nghệ thuật.
Lịch sử, đương nhiên là một huyền thoại, đại đạo trong quan niệm và biện giải của nhà văn cũng là huyền thoại, bởi vậy, sự trưng dụng, thẩm nhập hay chuyển hoá qua nhau mang ý hướng nghệ thuật của tác giả là điều quan trọng, thuộc về chiến lược diễn ngôn. Câu chuyện về Tuệ Trung Thượng Sỹ hay Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Thị Lộ, Võ Chiếu, Nguyễn Du, Nguyễn Khản, Xuân Hương,… chỉ là một mã ký hiệu mà qua đó, tác giả tạo dựng huyền thoại cá nhân về con người và lẽ sống ở đời. Muốn thực thi chiến lược này, vẫn trong cách lập luận của Iu.V. Satin, “hùng biện” trở thành phương pháp chủ đạo cho việc kiến tạo huyền thoại cá nhân. Ta hiểu vì sao, các nhân vật của Đỗ Trọng Khơi lại thường xuyên bày tỏ quan điểm, suy tư về thế thái nhân tình, về đời người, về lẽ sống. Các nhân vật ấy buộc phải thực hiện hành vi “hùng biện” để kiến tạo huyền thoại mới hoá giải huyền thoại lịch sử. Ngay cả khi, không ký trú vào lịch sử, những nhân vật của Đỗ Trọng Khơi vẫn phải mang vác sứ mệnh người phát ngôn – hùng biện, tạo dựng huyền thoại. Chính vì thế, đọc truyện của Đỗ Trọng Khơi, có cái thú trước những biện giải về lẽ sống nhân sinh, cái đại đạo trong đời, nhưng cũng từ đó mà luôn có cảm giác bị huấn thị hoặc chí ít là phải “lập nghiêm” để lĩnh hội chân lý, nếu không muốn tự xếp mình vào bộ phận suy đạo, vô đạo. Đại đạo, như đã nói là hạt nhân tạo nên khí quyển trong truyện kể của Đỗ Trọng Khơi. Tuy nhiên, không phải không có lúc nhận ra, đại đạo chỉ còn là xác vỏ. Đúng hơn, vì một lẽ nào đó trong hành trình nhận thức, chiêm nghiệm lẽ sống, những nhân vật trong tác phẩm đã để những vụn vặt, thường tình xâm chiếm. Trong bối cảnh mạt thế, tránh sao được sự hỗn đồng. Ấy là lẽ thường. Nhưng, hãy cẩn trọng, đôi khi, vì những dễ dãi nào đó, cái thường tình lại đắc thắng hay tự mãn mà cho mình dáng vẻ trịnh trọng của đại đạo (Truyện ngắn: Nàng).
Hệ lời, hay như các nhà chuyên môn gọi là ngôn ngữ trần thuật của truyện ngắn Đỗ Trọng Khơi khá cổ điển. Dĩ nhiên, khi trưng dụng huyền thoại lịch sử làm phương tiện, hệ lời phải phù hợp với đối tượng. Nhưng, điều đó cũng nói lên không gian mĩ học mà Đỗ Trọng Khơi đang thuộc về. Đó là không gian của mĩ học tiền – hiện đại (Đỗ Trọng Khơi có nhiều truyện viết từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX). Đồng thời, hệ lời đã cho thấy sức ép của cấu trúc luận lên tinh thần chủ thể khi cái biểu đạt và cái được biểu đạt luôn song hành và có xu hướng biện biệt trong từng diễn tiến của truyện kể. Người đọc có lẽ sẽ nhận ra (không khó) những ý đồ gửi gắm của tác giả. Như thế, về mặt cấu trúc hình tượng, diễn ngôn hư cấu lịch sử của Đỗ Trọng Khơi có phần bị bạch hoá. Một trong những điểm dễ thấy nhất chính là truyện ngắn của Đỗ Trọng Khơi thể hiện tư tưởng “đại đạo” của huyền thoại. Vốn dĩ, huyền thoại luôn được tạo dựng để chuyển đạt đại đạo. Đỗ Trọng Khơi tái dựng huyền thoại, ký bám vào huyền thoại cũng không thoát khỏi việc hướng đến đại đạo. Vì thế, truyện cứ vương vấn, quẩn quanh những triết lý về nhân lễ nghĩa trí tín, tam giáo, vương quyền, bá đạo, nhân tâm,… (trong truyện của mình, Đỗ Trọng Khơi cũng khá đề cao tư tưởng “Chính danh” trong học thuyết đạo đức xã hội của Khổng Tử – bản thân “Chính danh” mà rộng là Khổng giáo đã là một huyền thoại khổng lồ – một siêu diễn ngôn). Chính ở đây, những mốc thời gian sáng tác có vai trò hết sức quan trọng trong việc lần ra mối bận tâm của Đỗ Trọng Khơi. Nhiều câu chuyện được viết từ đầu những năm 90, nhưng, đã mang những suy tư về thời thế, về sự băng hoại của kỷ cương, sự ruỗng mục của rường cột, sự nghiêng ngả của chánh pháp, sự lơi lỏng của luân lý cương thường, sự lũng đoạn của thần quyền – vương bá, sự hỗn loạn của thế sự, sự hoang mang phiêu tán của nhân tâm,… Cho đến giờ, vẫn thấy dáng dấp của dạng thuật kể này trong nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết đương đại. Tuy nhiên, vì thế, cái mới mẻ của lối viết hiện đại ta ít gặp trong diễn ngôn của Đỗ Trọng Khơi. Cũng là dễ hiểu! Tạng văn chương của Đỗ Trọng Khơi dễ nhập vào cái không khí huyền thoại vốn được kiến tạo trong sự dài rộng của thời gian. Những câu chuyện vương – quyền, nhân tâm, thế sự thời Trần, Lê, những mẫu hình vương tôn, quan lại, học sĩ, trí thức phong kiến, những biến cố được tường thuật lại,… cũng nhằm hướng đến những ý niệm đương đại. Đỗ Trọng Khơi khéo léo lồng vào đó những câu chuyện của thời này, đó là cách làm phổ thông, có tính ngụ ngôn, ám dụ. Ngôn ngữ trần thuật gợi lại không khí của các tác phẩm truyền kỳ, dã sử, ngoại truyện, những ghi chép biên lục thuở trước. Đó là sự nhập thân của lời – lối kể vào thi pháp quá khứ, cái được ở đấy và chưa được tưởng cũng ở đấy. Không khó để nhận ra, giọng điệu, lối phô bày, biện minh, thuyết lý đều đậm màu sắc trung đại trong những diễn ngôn hư cấu lịch sử. Một số tham chiếu từ Ngọc phả hay sách vở, sử liệu khác có thể là những dấu vết nhằm tạo dựng những khả năng kiểm soát sự thật lịch sử, những rõ ràng, trong truyện kể của Đỗ Trọng Khơi, và trong loại hình hư cấu lịch sử nói chung, chúng chỉ có tác dụng là những manh mối dẫn đường cho những sự đào thoát khỏi lịch sử.
Một tập truyện ngắn, với những mảnh, miếng, lát cắt khác nhau, khó mà thâu tóm vào một biện luận tổng quát. Tuy nhiên, mạch ngầm trong cấu trúc truyện kể vẫn là những suy tư về thời cuộc, về con người và lẽ sống. Trong lẽ sống đã bao trọn cái lẽ hiện hữu của người, của nghiệp. Văn chương, xét đến cùng, vẫn là chỗ hiện ra một cách sâu kín quan niệm về nhân sinh, về cái lý do mà con người tồn tại. Đỗ Trọng Khơi bám vào các phạm trù của minh triết phương Đông, thông qua những cứ liệu lịch sử, đời sống để khai triển cảm niệm về giá trị, nhân sinh của mình. Các phạm trù âm dương, tiêu trưởng, sống chết, được mất, hơn thua,… cũng tựu vào cái bao quát – đại đạo, như đã nói ở trên. Lối viết của Đỗ Trọng Khơi vẫn là lối viết ẩn dụ truyền thống, gửi gắm tư tưởng, ý đồ nghệ thuật thông qua hình tượng, nhân vật, sự kiện. Như thế, trên bình diện tư duy thể loại, truyện ngắn Đỗ Trọng Khơi vẫn là “kể cái gì” nghĩa là ở phạm trù mĩ học tiền – hiện đại. Dù có chú ý đến cách kể, thông qua những hình thức tự sự xuyên thời gian, không gian giữa người kể chuyện và nhân vật lịch sử, hay sự đan cài của thể loại thơ và truyện trong mạch kể,… nhưng, lối ấy thực chưa phát triển đến mức thay đổi quán tính viết của anh. Nhưng, có một điều vẫn cần nhấn mạnh ở đây, như là sự lắng kết từ quá trình đọc, những huyền thoại, dù trong tư cách là phương tiện hay mục đích, được trưng dụng, giải toả hay kiến tạo, với quyền lực của nó, đều đồng thanh cất lời về tấm lòng trân trọng đối với đời sống, con người và nghệ thuật. Đó là huyền thoại cá nhân mà Đỗ Trọng Khơi mong muốn kiến tạo và lan toả thông qua văn chương.
Duong Thanh Minh đăng bài