Vào những thập niên đầu của thế kỉ XX, nhà thơ Tản Đà, sau những thất vọng trong đời sống tình cảm đã bỏ nhà ra thành phố. Cuộc sống thành thị lúc bấy giờ đã ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng, tình cảm và thái độ trước cuộc sống hiện tại của Tản Đà. Chúng ta biết, sinh thời Tản Đà từng coi văn chương là một thú chơi – một cuộc chơi tùy hứng. Bởi vậy, cũng là điều dễ hiểu khi bàn đến vẻ đẹp của tác phẩm văn chương Tản Đà quan tâm nhiều đến vẻ đẹp của ngôn từ và cho đó là vẻ đẹp đích thực của văn chương hơn là những nội dung xã hội được đề cập trong tác phẩm. Khi dấn thân vào cuộc sống mới ở thị thành, Tản Đà là người đầu tiên mạnh dạn thay đổi quan niệm của mình về nghề văn. Khi đã xem công việc viết văn cũng là một nghề như bao nghề khác để kiếm sống, cũng là lúc ông quyết định dấn thân vào nghề này và sau đó “đem văn chương đi bán phố phường” (Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng). Với hành động này, có lẽ Tản Đà là một trong những nhà văn đầu tiên coi tác phẩm văn chương là một sản phẩm hàng hóa đích thực. Từ Tản Đà trở đi, các nhà văn Việt Nam đã ý thức sâu sắc hơn về điều này. Khi tác phẩm văn chương trở thành hàng hóa thì nó phải chịu tác động của thị trường là điều tất yếu. Vậy thị trường đã tác động tới sự phát triển của văn học Việt Nam như thế nào?

Nhà nghiên cứu Phan Quý Bích, trong một công trình nghiên cứu về văn chương từng viết: Khi ngắm nhìn những công trình lớn như Nhà hát Lớn, Phủ Toàn quyền và cầu Long Biên, đặc biệt là cầu Long Biên – cây cầu đầu tiên được bắc qua sông Hồng, nối liền hai vùng dân cư, nhiều nho sĩ của buổi cựu học đã về nhà bẻ bút lông để bắt tay vào học cầm bút sắt. Những gợi ý này của nhà nghiên cứu đã phần nào cho chúng ta thấy tác động trực tiếp của kinh tế thị trường (mà có thể hiểu là toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội) đến văn chương ra sao.

Khảo sát sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại qua một vài giai đoạn tiêu biểu, đặc biệt là giai đoạn Đổi mới (sau 1986) ta sẽ thấy rất rõ điều này.

1. Tác động của thị trường tới nhà văn

Sau 1975, trước thời kì Đổi mới, nhà văn Nguyên Ngọc có lần bày tỏ rằng, văn học giai đoạn này, vì vẫn “trượt theo quán tính cũ” nên có một sự chênh lệch rất lớn giữa yêu cầu của bạn đọc và thực trạng văn học vì vậy sách viết ra không được bạn đọc đón nhận, họ đi tìm đọc sách dịch hoặc đọc văn chương cổ điển trong nước. Cái gọi là “quán tính cũ” mà Nguyên Ngọc nhắc đến ở đây chính là văn học vẫn nằm ngoài quy luật của kinh tế thị trường, khi mà nhà văn vẫn coi văn học chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền, động viên cổ vũ – một nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước thời chiến. Sau 1986, đất nước bước vào thời kì Đổi mới. Nền kinh tế thị trường với tất cả những phức tạp của nó khiến chúng ta không thể nhìn cuộc sống bằng nhãn quan sử thi thuần khiết như những năm chiến tranh. Những thước đo giá trị cũ, những chuẩn mực cũ khi cọ xát với cuộc sống xô bồ hỗn tạp của thời hiện tại đã không còn giữ nguyên giá trị. “Trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con người dồn lại và thu hẹp vào một quan hệ duy nhất: sống – chết… Ngọn lửa chiến tranh thiêu cháy cả những cái nhỏ nhen, nhiêu khê của cuộc sống thường ngày. Hòa bình thì khác hẳn. Hòa bình tức là đối mặt với cái bình thường hàng ngày, cái bình thường của muôn thuở” (Nguyên Ngọc, Văn xuôi sau 1975 – thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, tạp chí Văn học số 4 – 1991). Điều này không chỉ tác động trực tiếp đến đời sống xã hội mà còn tác động đến mọi mặt của đời sống văn học từ khâu sáng tác đến khâu xuất bản. Trước hết đối với nhà văn, khi những giá trị trong đời sống biến thiên một cách mạnh mẽ, bản thân nhà văn cũng phải không ngừng tìm tòi đổi mới cách viết của mình để phù hợp với thời cuộc. Đời sống kinh tế thị trường thời mở cửa buộc người cầm bút phải có những thay đổi trong đối tượng phản ánh cũng như trong diễn ngôn để phù hợp với tâm lí, nhu cầu, thị hiếu của người đọc hôm nay. Đời sống thị trường cũng tạo những điều kiện tối ưu để nhà văn bung phá, khai thác: “Thời nay rộng cửa, gợi được nhiều thứ để viết. Tôi thích cái hôm nay, ngổn ngang, bề bộn, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ mới thật là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ”(Nguyễn Khải, Tâm sự văn chương, báo Văn nghệ Trẻ số 56 – 1997). Có thể nói “cái bình thường hàng ngày” lên ngôi đã như một cú hích làm thay đổi tư duy của người sáng tạo, giúp họ tránh được cái nhìn phiến diện một màu đậm chất lí tưởng hóa trước đây. Đó cũng là nền tảng để người cầm bút thiết lập một cái nhìn “phi sử thi”, “giải tượng đài” mà chúng ta vẫn thường nói đến trong văn học hôm nay khi kiến tạo hình ảnh người anh hùng để nó chân thực hơn, đậm chất “người”. Một quan niệm mới mẻ về chiến tranh: chiến tranh là đồng nghĩa với chết chóc và hủy diệt, “là cõi lang thang không nhà không cửa” (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh). Một ý nghĩ chân thực đến tận đáy lòng của một tiểu đoàn trưởng khi nghĩ về mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ “Về với Hân rồi ra sao thì ra, đóng góp cho đất nước cho quân đội biết mấy cho vừa. Mình ở quân đội chừng ấy năm là được rồi. Nhà cửa thì vậy, vợ con thì vậy. Mình không lo lấy thân mình, ai lo cho đây” (Thượng Đức – Nguyễn Bảo) chỉ có thể được nói to, được chấp nhận trong đời sống dân chủ hôm nay, khi con người cá nhân thấy mình “có đủ mọi thứ quyền”. Bình thường hóa hình ảnh người anh hùng, không “phong thánh” cho những nhân vật lịch sử – đó là cách mà các nhà văn đương đại rút ngắn khoảng cách giữa văn chương và cuộc đời, tạo sự kết nối giữa văn chương đặc tuyển và văn chương bình dân. Trong tiểu thuyết lịch sử Hội thề, nhà văn Nguyễn Quang Thân đã miêu tả khá tỉ mỉ hình ảnh đầy chất dân dã có phần thô lậu của vị vua Lê Lợi trong ngày chiến thắng: “Nguyên Hãn thấy nhà vua cầm đùi gà nhai, uống rượu cần cùng với tướng sĩ, khuy áo không cài hết cúc hở cả rốn…” đến mức Nguyên Hãn phải “quay mặt bỏ đi”. Trong Phẩm tiết, Nguyễn Huy Thiệp không để Quang Trung xuất hiện trong những chiến công hiển hách mà được nhìn từ con mắt của Vinh Hoa, từ mối quan hệ với người đàn bà này. Bậc anh tài lẫy lừng trời đất, khi gặp Vinh Hoa “đẹp mơn mởn như lộc mùa xuân” lại “thốt nhiên rùng mình, hoa mắt, đánh rơi cốc rượu quý cầm tay”, và khi nghe tin cha Vinh Hoa bị xử tội, nhà vua cuống cuồng “đang đêm xõa tóc, đi chân đất, vừa đi vừa vấp, chạy vào báo cho Vinh Hoa việc Khải mất”. Khi Nỗi buồn chiến tranh, Phẩm tiết, Hội thề ra đời, đã từng có những cuộc tranh cãi lớn với những luồng ý kiến trái chiều, người tung hô, kẻ phản ứng dữ dội. Điều này là một minh chứng sinh động cho sự tác động của kinh tế thị trường tới văn học. Suy cho cùng, vấn đề chính nằm ở thị hiếu của người tiếp nhận.

Tiếp nhận là một khái niệm của lí luận văn học chỉ mối quan hệ giữa nhà văn – tác phẩm – bạn đọc. Tiếp nhận cũng là vấn đề then chốt của đời sống kinh tế thị trường. Sản phẩm không được tiếp nhận trên thị trường cũng đồng nghĩa với việc nó sẽ bị loại bỏ. Sự phản ứng dữ dội thuộc về những người coi trọng và tôn thờ những giá trị truyền thống mà họ cho là thiêng liêng, vĩnh cửu, và đúng là “không thể trách người đọc” – nói như một nhà văn – khi “tình cảm thờ cúng” của họ bị xúc phạm. Những ý kiến ủng hộ của số đông bảo vệ quan điểm “chúng tôi đang viết, đọc văn chứ không phải đang chép, đọc sử” lại cho thấy tinh thần cầu tiến, ý thức đổi mới tư duy của tác giả và độc giả khi cho rằng việc miêu tả như trong các tác phẩm trên mới là chân thực, mang tính biện chứng, thể hiện tinh thần dân chủ chỉ có được ở thời kì hội nhập. Đó cũng là điều làm nên sự khác biệt, đổi mới của văn học hôm nay.

Thực tiễn văn học luôn cho thấy, nhà văn nào đáp ứng kịp thời những yêu cầu đặt ra từ đời sống thì tác phẩm của họ sẽ được bạn đọc đón nhận với tất cả sự hứng thú, say mê. Trường hợp Nguyễn Nhật Ánh – nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi là một điển hình. Đã có khá nhiều bài viết giải mã hiện tượng Nguyễn Nhật Ánh. Mỗi người đều có những lí giải riêng về hiện tượng này, nhưng tựu chung lại, ai cũng khẳng định một điều: sức hút của tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh chính là sự kết hợp hài hòa hai yếu tố giáo dục và giải trí. Nhà văn đã giáo dục các em (và cả người lớn) lòng yêu quê hương đất nước, sự trân trọng tình bạn, sự gắn kết với gia đình, làng xóm không phải bằng những lời giáo huấn mang tính áp chế, mệnh lệnh mà bồi đắp cho các em những phẩm chất này qua những hành động, lời nói, trò chơi đậm chất hồn nhiên, tinh nghịch, sinh động của tuổi thơ. Có thể nói nhà văn đã cho các em có một tuổi thơ đúng nghĩa khi được “chơi mà học, học mà chơi”, còn người lớn được trở về với tuổi thơ mà ai cũng từng ước mong, hoài niệm.

2. Tác động của thị trường đến ngôn ngữ văn chương

Nếu cho rằng ngôn từ là chất liệu cơ bản của tác phẩm văn học thì dễ nhận thấy ở bình diện này, sự thay đổi diễn ra khá triệt để trong văn chương đương đại dưới tác động của kinh tế thị trường.

Trước đây, lớp ngôn từ trang trọng, đậm chất ngợi ca dày đặc trong các tác phẩm rất phù hợp với một thời đại sử thi, thì hôm nay nó trở thành lạc điệu trước một xã hội mà mọi giá trị đã biến thiên không ngừng. Trong nhiều tác phẩm văn xuôi đương đại, chúng ta thấy sự hiện diện của một lớp sóng ngôn từ mới, đậm chất thế tục, mang nhiều dấu ấn của ngôn ngữ hàng ngày. Các kiểu nói suồng sã thậm chí thô tục tràn ngập trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Thuận… sở dĩ được bạn đọc chấp nhận không chỉ vì nó phá vỡ những khuôn mẫu đậm chất thi vị hóa và nghiêm trang hóa thường gặp trong văn học sử thi, xóa nhòa khoảng cách giữa văn học đặc tuyển và văn học đại chúng, mà quan trọng hơn, nó diễn tả khá trung thực đời sống phồn tạp và mối quan hệ đa chiều giữa con người với con người trong xã hội đương đại.


“Mẫu thượng ngàn” – một tác phẩm tiêu biểu của văn học giai đoạn Đổi mới

Không phải ngẫu nhiên mà trong một số tác phẩm văn xuôi đương đại đã xuất hiện nhiều câu nói tục, tiếng chửi thề ở đủ các hạng người. Với cách diễn tả đặc biệt này, nhà văn không chỉ muốn thể hiện văn chương là bản sao của đời sống mà còn bày tỏ niềm lo âu về một trạng thái nhân tính nghèo nàn, xuống cấp đang diễn ra hàng ngày hàng giở ở mọi lứa tuổi, trong mọi không gian sống.

Ngoài việc sử dụng các kiểu nói thô tục, sống sượng, văn học hôm nay còn tràn ngập ngôn ngữ thân thể mà chúng ta vẫn thường gọi là ngôn ngữ sex. Sự xuất hiện ngôn ngữ sex trong văn học phản ánh những tác động lớn từ đời sống xã hội hiện đại. Vẻ đẹp của cơ thể con người, đặc biệt là cơ thể người phụ nữ nếu trước kia phải che đậy, giấu kín hoặc chỉ được mô tả bằng những hình ảnh ẩn dụ thì ngày nay được tôn vinh như một nét đẹp hoàn hảo của con người cá nhân. Vẻ đẹp này cũng luôn là đối tượng được các nhà văn quan tâm. Họ đã không ngần ngại miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ những bộ phận gợi dục của phái đẹp. Trong tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương, người phụ nữ được miêu tả ở vẻ đẹp phồn thực: “Dưới mái nhà đó là những người đàn bà lưng ong, tay vượn, tóc xổ tung với đôi chân ngắn mở rộng và núm vú như hai hòn than màu hồng rực đặt ngay ngắn trên đỉnh bộ ngực trần màu nâu nhạt”. Ở Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh – một tiểu thuyết lịch sử, các nhân vật nữ như cô Ngơ, vợ ba Lý Cón… cũng được miêu tả gắn với vẻ đẹp “phong nhũ phì đồn” (vú to, mông nẩy). Bản năng tính dục của người đàn bà cũng được các nhà văn thể hiện không chút giấu giếm: “Tiệp thấy mình bạo dạn và lão luyện, sự nhịp nhàng của thịt da đằm thắm ngọt ngào. Từ thế động nàng ào sang thế chủ, một cực khác với lần đầu, nàng bốc cháy từ gót chân đến đỉnh đầu và thật sự không biết mình đang bồng bềnh ở đâu, chính danh hay không chính danh, tà dâm hay không tà dâm, chỉ thấy mình đúng là mình trong tưởng tượng, thỏa mãn một cách hài hòa sâu sắc” (Gia đình bé mọn – Dạ Ngân). Cũng phải thấy rằng ham muốn tình dục là một nhu cầu tự nhiên ở con người bình thường, nó thể hiện một phần của bản năng sống mạnh mẽ. Nhưng trước đây nó không được thể hiện một cách công khai. Không khí dân chủ trong văn chương từ Đổi mới đã cho phép nhà văn dám nói thẳng, nói thật những điều họ nghĩ.

3. Tác động của thị trường đến người tiếp nhận

Không chỉ tác động đến người sáng tác, nền kinh tế thị trường còn tác động đến người tiếp nhận. Ngoài những ảnh hưởng tiêu cực do sự xuống cấp của văn hoá đọc hiện nay thì tác động sòng phẳng của quy luật cung – cầu với những yêu cầu ngày càng cao của người đọc cũng trở thành một động lực không nhỏ kích thích sự đổi mới cách viết của nhà văn cũng như việc xuất bản sách. Nguyễn Huy Thiệp nói: “Công việc của nhà văn bắt đầu từ đâu? Tôi nghĩ rằng phải bắt đầu từ việc nghiên cứu bạn đọc, đúng hơn là phải nghiên cứu tâm lí dân tộc trong cả một khoảng thời gian dài. Trên cơ sở đó nhà văn dọn món ăn tinh thần cho cả thời đại mình” (Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn, trong tiểu luận Giăng lưới bắt chim). Người tiếp nhận hôm nay ở mọi lứa tuổi không chỉ đòi hỏi những cuốn sách có nội dung hay mà còn cần những ấn phẩm trình bày đẹp, bắt mắt, được in trên những loại giấy trắng, nhẹ với kiểu chữ sắc nét, dễ đọc. Về chất lượng tác phẩm, phải thấy rằng những giải thưởng hàng năm của các hội văn học nghệ thuật có uy tín đã góp phần định hướng rất lớn cho độc giả tìm đọc. Cách đây vài năm khi tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng ra đời, bạn đọc có thể dễ dàng tìm thấy tác phẩm ở các quầy bán sách, nhưng khi Hội Nhà văn Hà Nội trao giải thưởng cho tác phẩm thì chỉ vài ngày sau đã không thể tìm mua nổi cuốn sách này và sau đó nó đã được nối bản liên tục. Tương tự là trường hợp tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh, sau khi được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng, cuốn sách dù có độ dày trên tám trăm trang cũng đã được bạn đọc tìm mua với con số kỉ lục.

Như vậy, nền kinh tế thị trường trong thời kì Đổi mới từ 1986 đã có tác động rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. Sự tác động này có cả mặt tốt và mặt xấu. Nó nghiêng về mặt nào là tuỳ thuộc vào tài năng, bản lĩnh của nhà văn cùng thị hiếu lành mạnh hay hạn chế của độc giả. Việc chạy theo kinh tế thị trường đã khiến một số tác giả có sự thể hiện lệch lạc, dung tục về cuộc sống, nhưng cũng chính kinh tế thị trường là tác nhân giúp nhà văn có cái nhìn “đời” hơn để từ đó viết ra những tác phẩm gần gũi với cuộc sống. Sự tương tác này góp phần không nhỏ cho sự phát triển của văn học Việt Nam trong thời kì mới – vừa đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường vừa phản ánh chân thực đời sống con người Việt Nam đương đại.

Lê Dục Tú

(Nguồn: Văn nghệ Quân Đội)

Phạm Thuý Quỳnh đăng bài