Sang thế kỉ mới, kinh tế thị trường đã đi vào ổn định, phương tiện truyền thông phát triển mạnh, đặc biệt là sự phổ cập của internet, nhà văn tìm được sự thích ứng với không khí của thời đại tiêu dùng…Tất cả những điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến sáng tác khiến văn học thế kỉ mới trình diện một diện mạo riêng.
Về lĩnh vực tiểu thuyết. Tiểu thuyết thế kỉ mới có sự kế thừa tiếp nối của tiểu thuyết những năm 80, 90 như tiểu thuyết vết thương, phản tư, tả thực mới, tiên phong, tân lịch sử…Tuy nhiên, không thể phủ nhận những nét mới của tiểu thuyết Trung Quốc khi bước sang thể kỉ 21. Nó không có cái hiệu quả xã hội mạnh mẽ của những năm 80, cũng không có cái cô tịch khi bị đẩy ra bên lề văn hoá như những năm 90, mà trở về với quá trình phù hợp với quy luật phát triển tự thân, quay trở về với địa vị xã hội thực tế của mình. Tiểu thuyết nói riêng, văn học nói chung của thời kì này bắt đầu tìm được cách thích ứng, hoà hợp với thị trường. Cũng trong quan hệ đó đã định vị lại quan hệ thanh-tục, ngày càng xoá nhoà ranh giới giữa đại chúng và tinh anh. Trong các thể loại văn học của thế kỉ mới, tiểu thuyết vẫn dựa trên ưu thế tự sự của mình trở thành thể loại chủ đạo. Tiểu thuyết thế kỉ mới có một số đặc điểm chủ yếu sau:
Thân phận của người sáng tác có khuynh hướng đa cực hoá, thể hiện sự phân hoá rõ ràng trên quan niệm văn học và giá trị trị thẩm mĩ mà họ theo đuổi. Cùng với sự thay đổi của phương thức sản xuất và phương thức truyền bá, thân phận, tuổi tác trình độ chuyên nghiệp của người viết đều có nội hàm rộng rãi hơn so với thế kỉ trước, tỉ trọng nhà văn nghiệp dư tăng cao, những người viết trên mạng và tự do soạn thảo cũng trở thành đội ngũ sáng tác quan trọng.
Đây cũng hiển nhiên dẫn đến sự phân hoá trong quan niệm văn học và theo đuổi thẩm mĩ, rất nhiều nhà văn trong nội dung thể nghiệm, trong phương thức nhận thức và trên khuynh hướng giá trị khác so với đội ngũ tiểu thuyết gia của thế kỉ trước vốn được mệnh danh là tiên phong, trào lưu mới. Vì có sự ủng hộ của phương thức vật chất truyền thông, tiểu thuyết đề tài hiện thực có không gian sáng tác rộng hơn trước kia; tiểu thuyết nữ quyền phổ biến chuyển từ nhấn mạnh sự khác biệt giới tính sang sự hài hoà cân bằng giới tính; sáng tác trên mạng cũng tìm được cơ hội đi từ mạng xuống hiện thực thông qua con đường xuất bản; tiểu thuyết tiến thêm một bước điều chỉnh đặc tính biên duyên so với diễn ngôn quyền lực trung tâm chính trị, trở về địa vị chính đáng phù hợp hơn với quy luật tự thân của nghệ thuật.
So với thập niên 80, 90, đặc biệt là trên thái độ đối với lịch sử và trên phương thức tự sự về đời sống thường nhận có sự thay đổi từ góc độ sách lược. Thái độ của tiểu thuyết thế kỉ mới đối với lịch sử/thời gian có sự thay đổi mang tính lật đổ. Trước hết là giải cấu quan niệm thời gian của các nhà văn 8x, giống như sự chân thực trong trò chơi phản khủng bố – chân thực đến cực điểm- thao tác thành thục của rất nhiều nhà văn 8x là một “ảo thành”. Khái niệm thời gian trên ý nghĩ hiện thực không có ý nghĩa gò bó bên trong đối với những tác phẩm kiểu như thế, nó chỉ thuộc về thời đại internet, thời đại trò chơi điện tử, là sự tồn tại của thời gian, không gian bất kì lúc nào, bất kì đâu cũng có thể phát sinh. Kì thực, thay đổi thái độ đối với lịch sử còn thể hiện sâu sắc ở trong văn bản có tính hiện thực mạnh mẽ. “Thánh nhân” của Tiền Ninh, “Kẻ hạnh phúc” của Vương Vu… về thái độ đối với lịch sử/ thời gian rõ ràng giảm đi nhiều sắc thái hư vô trên phương thức tự sự của chủ nghĩa tân lịch sử, chuyển sang quan tâm đến việc xây dựng lại lịch sử.
Trên phương diện tự sự về cái hằng ngày, tiểu thuyết thế kỉ mới đã nhập vào đời sống mà “tả thực mới ” và “tân hiện thực chủ nghĩa” không có cơ hội biểu đạt. Làm thế nào để tự thuật lại trạng thái bình thường, khác thường của cuộc sống là mục tiêu chung của tiểu thuyết thế kỉ mới, các nhà văn suy nghĩ về những thứ dục niệm của con người, áp lực của cuộc sống, nhược điểm và sự phức tạp của nhân sinh… Nó không còn là sự ghi chép nguyên si của “tân tả thực” nữa mà đạt đến cao độ mới trong việc thẩm mĩ hoá tự sự thường nhật. “Hai tuần rưỡi yêu em” của Từ Khôn, “Nói với Lao La anh yêu em” của Đường Dĩnh, “Hai ba chuyện về bạn học nữ” của Tô Đồng đều là điển hình như vậy, còn “Tần Xoang” của Giả Bình Ao đã mang phong cách khác của sáng tác chủ nghĩa hiện thực thế kỉ mới. Ông chú trọng đưa vào trong cùng một tác phẩm tính hiện đại hiện thực và tính hàm súc truyền thống. Ngoài ra, trong một loạt tác phẩm truyện vừa của Tất Phi Vũ như “Ngọc Mễ”, “Ngọc Tú”, “Ngọc Ương” lại quan tâm đến lập trường dân gian trên phương diện trần thuật.
Các nhà văn 8x, tiểu thuyết mạng đã tạo nên thể nghiệm văn học và không gian mới. “8x” thể hiện tâm thế viết hoàn toàn khác so với truyền thống, trở thành nét riêng biệt của thế kỉ mới. Với tư cách là một quần thể sáng tác của những người trẻ tuổi, sự xuất hiện của 8x cho thấy văn học sử do tạp chí, hiệp hội và các nhà phê bình chủ lưu xây dựng đã bị đột phá. Phần lớn họ phản nghịch, loại khác (linglei), rất có năng lực biểu đạt ngôn ngữ , có trí tưởng tượng phong phú và tư tưởng và cá tính sáng tạo độc lập. Có thể nói, nhà văn 8x từng bị văn học sử bỏ ra ngoài tầm ngắm, nhưng cùng với sự thành công của tác giả và tác phẩm của họ Hàn Hàn, Quách Kính Minh, Trương Duyệt Nhiên, “ngủ hổ tướng của phái thực lực”…, 8x đã tiến vào phạm vi của văn học sử, thậm chí có kênh thông tin đã nói rằng văn đàn năm 2004 thuộc về các nhà văn 8x. Cho dù mở ra một phương thức sáng tác và một không gian văn học, nhưng cần phải nhìn thấy, sáng tác của 8x vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết, ví dụ không hề có được tác phẩm có trọng lượng, làm thế nào trong sáng tác vứt bỏ được những nông cạn, ấu trĩ. Tác phẩm tiêu biểu của 8x có : “Tam trùng môn”,”Âm một độ” của Hàn Hàn, “Ảo thành”, “Bao nhiêu hoa rơi trong mộng” của Quách Kính Minh, “Hoa đào xa xôi”, “Hoa hướng dương tiêu biến vào năm 1890”, “Mười yêu” của Trương Duyệt Nhiên.
Sự sống dậy của tiểu thuyết mạng là ví dụ điển hình của việc kĩ thuật công nghệ ảnh hưởng đến văn học. Internet vào Trung Quốc từ thập niên 90 nhưng văn học mạng thực sự xuất hiện vào năm 1999. Với tư cách là một hình thái văn học mới, văn học mạng đã có vai trò mang tính lật đổ với phương thức sản xuất và truyền bá văn học truyền thống. “Thảo dương niên hoa” của Tôn Duệ, “Lí công đại phong lưu vãng sự” của Trương Thao, “Ngày tốt nghiệp chúng ta cùng thất tình” của Hà Viên Ngoại, “Tiểu thuyết đêm hoa hồng thời đại internet” của Thái Tri Hằng, “Thành Đô, đêm nay xin hãy quên tôi đi” của Mộ Dung Tuyết Thôn đều có ảnh hưởng lớn trong độc giả, trở thành một bộ phận cấu thành không thể xem nhẹ của tiểu thuyết thế kỉ mới.
Tiểu thuyết thế kỉ mới đã gặt hái được chiến tích đáng tự hào. Tiểu thuyết “Tần Xoang” của Giả Bình Ao, “Phong nhã tụng”, “Thụ hoạt”, “Đinh Trang Mộng”, “Tứ thư” của Diêm Liên Khoa, “Vô tự” của Trương Khiết, “Ám thị” của Hàn Thiếu Công, “Hành trình hoang vắng” của Hà Đột, “Trái tim chúng ta mới ngoan cố làm sao” của Hiệp Triệu Ngôn, “Nhân diện đào hoa” của Cách Phi, “Bạch đậu” của Đổng Lập Bột, “Kiên ngạnh như thuỷ” của Diêm Liên Khoa, “Đàn hương hình” của Mạc Ngôn, “Thời đại anh hùng” của Liễu Kiến Vĩ… Còn một loạt tiểu thuyểt thể hiện nữ tính như “Thanh ly” của Vương Mông, “Phú Bình”, “Đào chi yêu yêu” của Vương An Ức, “Tiếp tục sống” và “Hoả Trạch” của Thịnh Khả Dĩ, “Người đàn bà tắm” của Thiết Ngưng… Nói chung, số lượng phong phú, đề tài thể hiện xu thế đa dạng hoá, đây là sự tiếp nối của tiểu thuyết những năm 90; nhưng xét về hiệu hứng, tiểu thuyết thế kỉ mới thiếu những tác phẩm gây hiệu quả lớn làm rung động xã hội, và chưa thể có được sức công kích văn hoá xã hội như tiểu thuyết cuối thế kỉ trước tạo ra. Về tổng thể vẫn giữ được sự ổn định đi lên.
Về phương diện thơ ca, Thế kỉ mới thơ ca quả thật có một màu sắc mới. Thơ ca thế kỉ mới là sự tiếp tục phát triển của thơ ca những năm 90 của thể kỉ 20. Những năm cuối của thập niên 90, cuộc tranh luận “Bàn phong thi hội” trở thành khởi điểm lịch sử của thơ ca thế kỉ mới, cuộc giao tranh giữa hai trận tuyến thơ ca lớn là “dân gian” và “phần tử trí thức” mang đến thời cơ cho sự bùng lên của quần thể thơ ca mới. Sự phổ biến của internet và sự hưng thịnh của tạp chí dân gian thơ ca là diễn đàn giao lưu tốt cho sự truyền bá thơ ca, trong bối cảnh văn hoá mà thơ ca ngày càng bị đẩy ra bên lề, thế kỉ mới đến làm cho thi đàn vốn trầm lắng được bùng lên sôi động trở lại. Sự phồn vinh của thơ ca trong thế kỉ mới được biểu hiện ở một số phương diện sau:
Tạp chí dân gian thơ ca và website trở thành nơi chuyển tải thơ ca chủ yếu. Theo thống kê năm 2004 những cơ sở xuất bản thơ ca dân gian có tới hơn 200, năm 2005 website thơ ca có hơn 250…Tạp chí thơ ca dân gian và website thơ ca thúc đẩy nhau phát triển. Có người cho rằng thơ ca Trung Quốc tiến vào “thời đại sáng tác của tạp chí dân gian”, hoặc “thời đại sáng tác của truyền thông”, tạp san thơ ca dân gian không lưu hành trên thị trường, chỉ là chỉ là sự tặng lẫn nhau giữa những bạn thơ, tạp chí mạng, diễn đàn thơ ca về cơ bản không thể bán lấy tiền, nhưng lại có môi trường phát biểu tự do, đăng tải không ít những thơ ca chất lượng cao. Tác phẩm trong tạp san dân gian và “thơ ca mạng” cũng bắt đầu xuất hiện trên những ấn phẩm thơ ca chính thức. Internet và tạp san dân gian trở thành phương thức chủ yếu tập kết quần thể thi nhân của thế kỉ mới. Năm 2005 dân cư mạng của Trung Quốc lên tới 1.11 tỉ, cho thấy sức lan toả khi phát tán trên mạng là rất lớn. Sáng tác trên mạng hoàn toàn khác so với môi trường sáng tác trên giấy, tự do hơn, tuỳ tiện hơn…thể hiện chân thực hơn cái tôi của nhà thơ, nhưng mặt trái của nó cũng là sự thô tục, bệnh nhổ nước bọt bừa bãi.
Sự xuất hiện trở lại của thi nhân. Tinh thần thơ ca vào cuối những năm 80 bị khiêu chiến chưa từng thấy, âm thanh “nhà thơ chết đói” lúc nào cũng ám ảnh nhà thơ. “Thi nhân mông lung” hồi đó phần lớn đều biến mất trên thi đàn, “thi nhân của thế hệ thứ 3” sau khi giải cấu mệnh đề “cao thượng”, “lí tưởng”, “trách nhiệm”, “trầm trọng”… của “thi nhân mông lung” phần lớn cũng không sáng tác nữa, họ hoặc là làm kinh tế, hoặc là làm sản nghiệp văn hoá, sống cuộc sống nhàn nhã sung túc. Nhưng sau khi cuộc sống vật chất đã được thoả mãn, họ vẫn không hề quên thơ ca, đầu thế kỉ 20 phần lớn nhà thơ sau những thăng trầm đã lại xuất hiện trên thi đàn như Bắc Đảo , Lý Á , Thư Đình …
Thơ về phần dưới cơ thể. Đầu thế kỉ mới, những nhà thơ 7x xuất hiện nổi bật trong giao tranh giữa sáng tác dân gian và sáng tác của phần tử trí thức, năm 2000, Thầm Hạo Ba, Lí Hồng Kì, Đoá Ngư, Doãn Lệ Xuyên đã lấy tạp san dân gian “Phần dưới cơ thể” và website “Giang hồ thơ” làm trận địa, chủ trương “lối viết phần dưới cơ thể”, trở thành sự kiện thơ ca nổi bật nhất của đầu thế kỉ mới. Chủ trương thi học của thơ ca “Phần dưới cơ thể là “trạng thái dán chặt lấy xác thịt của sáng tác thơ ca”, “cái họ theo đuổi là cảm giác hiện trường nhục thể”(Thẩm Hạo Ba), thơ ca của họ tràn đầy ý vị nhục dục, ngôn ngữ khẩu ngữ hoá một cách tuyệt đối, thiếu hàm súc, thiếu thi ý. Thơ ca “Phần dưới cơ thể” mang đặc điểm thơ ca mạng rất điển hình, tâm thế viết giấu mình của website mang đến ý vị “Cacnavan”, “mang mặt nạ” của không ít bài thơ.
“Thơ ca của người làm thuê” nổi lên.Sự xuất hiện của “thơ ca của người làm thuê” cũng là một một nét trên thi đàn thế kỉ mới, nó là thơ ca do những người công nhân bốc vác dưới đáy viết, mang những thể nghiệm mãnh liệt về cuộc sống dưới đáy và lập trường của kẻ yếu. Cống hiến của “Thơ ca của người làm thuê” ở chỗ nó là âm thanh được phát ra từ hơn 1 tỉ người nông dân công nhân đại lục, mà trước kia quần thể này bị chi đậy hoặc bị coi thường. Phần lớn tác giả của “thơ của những người làm thuê” đến từ đáy cùng xã hội, đẳng cấp văn hoá tương đối thấp. Nhân vật tiêu biểu có Tạ Xương Nam, Liễu Đông Vũ, Hứa Cường, La Viễn Đức, Trương Thủ Cương, Lưu Xuân, Trịnh Tiểu Quỳnh, An Thạch Lựu, Hà Chân Tông…Chủ đề thường gặp của loại thơ này là: nỗi sầu quê hương, khốn khổ, gian nan, phiêu bạt, băn khoăn, ưu tư dục vọng, đấu tranh… Thơ của họ thường nghệ thuật không cao, phần lớn thô ráp, nhưng có thể nghiệm cuộc sống xác thực và những trải nghiệm vất vả, nên có những chi tiết cảm động, có sự cảm nhận sinh động mới mẻ về cuộc sống, có nỗi đau do cuộc đời dày vò, đầy day dứt, tất nhiên cũng có những câu thơ, bài thơ tinh tế.
Nhóm những nhà thơ được gọi là “thế hệ trung gian”. “Thế hệ trung gian” chỉ “lớp nhà thơ sinh ra vào những năm 60 của thế kỉ, cuối thập niên 80 xuất hiện trên thi đàn và trở thành lực lượng trung kiên của giới thơ ca Trung Quốc từ thập niên 90 trở lại đây, bao gồm: Y Sa, Tang Đệ, An Kì, Chu Chu, Từ Giang… Những nhà thơ của “thế hệ trung gian” trên tổng thể có nét đặc sắc, họ vừa không giống với “thi nhân mông lung” cũng không giống với “thi nhân thế hệ thứ3”. “Thế hệ trung gian” không phải là tên của một trường phái, đội ngũ phức tạp, khác biệt tương đối lớn, không có chủ trương lí luận riêng.
Sự nhiệt náo của thơ ca chủ yếu vẫn là việc trong nội bộ thi đàn, viết thơ trở thành hoạt động tinh thần tự do hơn. Thơ ca trên mạng và tạp chí dân gian phần lớn vẫn không thể bán lấy tiền, cái gọi là sáng tác “bên lề thể chế” phần lớn là giao lưu giữa các nhân sĩ trong cùng lĩnh vực, giữa những người viết thơ, tham gia luận chiến, nhiều hơn cả là những người thích thơ thực sự và nghiên cứu nghệ thuật thơ. Trên ý nghĩa này, sáng tác thơ ca thế kỉ mới càng gần hơn với bản chất của nghệ thuật.
Nhìn chung, trong hai thập niên qua, văn học Trung Quốc phát triển dưới áp lực của kinh tế thị trường, trong sự tác động nhiều chiều của phương tiện truyền thông, và bối cảnh toàn cầu hoá. Vì thế, nó có xu hướng tìm cách thích ứng với cơ chế thương mại hoá văn hoá, xoá nhoà ranh giới thanh – tục, tận lực khai thác thế mạnh của truyền thông, cố gắng tìm một vị trí xứng đáng trên sân chơi văn hoá.
(Tổng hợp từ tài liệu tiếng Trung)
1. Trình Quang Vĩ: Tổng quan về 60 năm văn học đương đại, Văn nghệ tranh minh, số 10 năm 2009
2. Đinh Phàm…, Đối thoại về trào lưu văn học những năm 80, 90 của thế kỉ 20. Tạp chí khoa học học viện hành chính Giang Tô, số 4 năm 2001
3. Vương Vạn Sâm…(chủ biên), 50 năm văn học đương đại Trung Quốc, Nxb Đại học Hải Dương Trung Quốc, 2006
4. Lưu Chiêu, Bàn về đặc trưng văn học thập niên 90, Tạp chí khoa học học viện sư phạm Trường Xuân, số 2 năm 2004
5. Cát Hồng Binh, Phê phán tổng thể văn học Trung Quốc thập niên 90 của thế kỉ 20, Tạp chí Khoa học xã hội, số 5 năm 2012
6. Trình Bồi Anh, Sơ lược về đặc trưng sáng tác của nhà văn nữ đương đại Trung Quốc, Tạp chí khoa học trường cao đẳng sư phạm Bảo Sơn, số 6 năm 2009
Văn nghệ Trẻ