Đổi mới và hội nhập quốc tế là một bối cảnh lịch sử xã hội có tính tất yếu. Cùng với sự bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống, văn học Việt Nam đương đại cũng đang hướng sự quan tâm của mình đến các giá trị mới, phản ánh đặc trưng, tinh thần thời đại. Điều gì là mới, mới so với cái gì, đó có phải là những giá trị không?…

Trong nền văn học trung đại, cận – hiện đại, văn học cách mạng và trước thời kỳ đổi mới, có thể nhận thấy rất rõ các chủ đề lớn của thời đại, chi phối chiến lược tự sự, trữ tình của chủ thể sáng tạo. Điều đó khiến cho những câu chuyện đời tư thế sự bị dạt ra ngoại biên, trở thành không thông dụng trong đời sống và văn chương. Thân phận người phụ nữ, bình đẳng giới, nữ quyền, dân tộc thiểu số, mặt trái của cơ chế thị trường… đã từng khuất lấp hoặc chưa từng xuất hiện trong các giai đoạn trước nay có dịp trở về, cất lời, nói lên tính toàn nguyên của con người bản thể. Trong đó, nữ tính, nữ quyền trong văn chương đang trỗi dậy, nỗ lực tạo lập những hệ giá trị mới nhằm hướng đến một cộng đồng nhân văn hơn.

Văn chương viết về nữ giới, mang sắc thái nữ tính hay nữ quyền đang trỗi dậy như một hệ giá trị của đời sống đương đại. Sở dĩ, sự trở lại này gây được chú ý, tạo nên những làn sóng trong sáng tác, lý luận, phê bình văn học nghệ thuật những năm qua, chính ở quá khứ bị phân biệt đối xử bởi tâm lý trọng nam khinh nữ do ảnh hưởng của Nho giáo. Di sản tinh thần của quá khứ đã gạt bỏ người nữ ra khỏi những địa vị làm nên tri thức, giá trị, chân lý. Văn chương cổ điển cùng với những quan niệm, định kiến của xã hội phụ quyền, nam quyền dành rất ít điều kiện để người phụ nữ được cất lời như một giá trị, một diễn ngôn đầy đủ tư cách bình đẳng trong cuộc sống. Sự tưởng tượng và kiến tạo nữ giới kỳ thực lại nằm ở trí tưởng tượng, tinh thần của nam giới. Truyền thống tòng thuộc và địa vị thứ phụ đã khiến cho văn chương nữ giới, nữ tính, nữ quyền biến thành một sắc thái ngoại vi, thành một phản đề cho giá trị trung tâm.

Điểm lại những sáng tác văn học đương đại Việt Nam trên cả ba điểm hội tụ: Tác giả nữ, viết về phụ nữ, tuyên xưng nữ quyền; có thể điểm ra những tác phẩm của Lê Minh Khuê, Y Ban, Lý Lan, Dạ Ngân, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Vi Thùy Linh… Có thể nói, sự phát triển của văn học nữ (bao hàm các bộ phận như đã nêu, không chỉ là văn học viết về phụ nữ hay sáng tác của tác giả nữ) là một sự kháng cự về tình trạng “mất tiếng nói” như Tiến sĩ Trần Thiện Khanh đã nhận xét. Vấn đề của văn học nữ nằm ở chỗ, “phác đồ” nữ giới, nữ tính hay bản thân nội hàm của khái niệm này hoàn toàn được xác lập từ phía nam giới. Thậm chí, bản thân nữ giới cũng trở nên quen thuộc với cái nhìn bằng đôi mắt kẻ khác. Sự tòng thuộc đôi khi đến như tự nguyện. Văn chương kim cổ vẫn nhắc đến những tác phẩm thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, thân thể người nữ. Tuy nhiên, những “biểu thuật” ấy không truy cầu sự hiện hữu như là một giá trị, một quyền lực, mà lại như một sản phẩm để tuyên xưng, phụ họa cho nam quyền. Nhìn lại di sản của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, sự anh hùng dẫu được nhìn nhận thế nào cũng luôn bị chi phối bởi ham muốn: Đổi phận. Đổi phận là sự bày tỏ yếu đuối nhất về thân phận nữ giới. Ngay câu thơ: “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” cũng đã đủ để nói lên tính tòng thuộc, sự thoái lui và chấp nhận thân phận của người nữ. Như thế, ý thức nữ giới, nữ tính trong sáng tạo, kiến tạo của Hồ Xuân Hương không phải là để tranh giành địa vị, quyền lực, mà để được ân sủng, được chiếu cố: “Một tháng đôi lần”.

Văn chương đương đại với những cách cất tiếng như:  “Linh”, “Khát”, “Vili in love” hay những khao khát đầy nữ tính như: “Lửa hoàng cung”, “Bóng đè”, “Vu quy”, “Phim đôi – tình tự chậm”… đã bày tỏ được nhiều hơn sắc thái của giới tính thứ hai, dù biết rằng, bất kỳ sự tuyên xưng, phủ nhận, bác bỏ nào đồng thời cũng là một sự thừa nhận. Ngay cả cách gọi văn chương nữ, nữ tính, nữ quyền đã là một thất bại từ trong ý niệm. Từ đầu thế kỷ XX, với những sáng tác của nữ văn hào Anh Viếc-gi-ni-a Gúc-phơ (1882-1941) với tác phẩm “Căn phòng riêng” (1929), tác phẩm “Nữ giới” (1949) của nữ văn hào Pháp Xi-mông đờ Bô-voa (1908-1986) là những tiếng nói can thiệp sự bất bình đẳng về giới trong những khả năng thực thi nhân quyền. Giải cấu trúc không gian nam quyền, góc nhìn nam quyền chính là điều kiện để người phụ nữ đặt mình vào vị thế chủ thể của lịch sử (trong tính đa chủ thể, liên chủ thể của không gian văn hóa đương đại). Tác động của văn học Việt Nam đương đại đến việc tạo nên những nhận thức mới, những hành động mới trong cộng đồng đối với vấn đề nữ tính có thể nhận thấy thông qua việc truyền thông đại chúng, các hội thảo khoa học, các diễn đàn về giới, về gia đình, các tổ chức nhân quyền ngày càng để ý hơn đến việc phát triển bình đẳng của người nữ. Hội thảo “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học đương đại” của Viện Văn học tổ chức, các công trình, bài viết về ý thức phái tính và nữ quyền trong văn học đương đại, các triển lãm nghệ thuật về giới… đang chứng tỏ sự trỗi dậy của sắc thái nữ như một giá trị nhân văn của xã hội.

Từ ý thức hệ đến hành vi là một quá trình lâu dài, nhưng trước hết, có thể nhận ra sự vận động của sắc thái nữ tính trong văn chương, nghệ thuật. Tương lai của văn hóa Việt Nam, dẫu biết được quyết định bởi nhiều thành tố, nhưng trong đó, văn học, với vị thế là một hình thái ý thức, một loại hình nghệ thuật, tư tưởng, sẽ luôn ở vị trí hàng đầu, tiên phong cho sứ mệnh xây dựng con người.

 

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tâm – VNQĐ