Xin vái cụ Tiên Điền Nguyễn Du một vái mà mạo muội thay từ thương bằng khen để nói về một tác phẩm của một nhà giáo với lời bạt của một nhà văn, cả hai đều nổi tiếng. Đó là cuốn sách Vấn đề dạy văn của Hồ Ngọc Đại vừa tặng tôi và lời bạt là của Ma Văn Kháng. Chẳng phải thấy sang bắt quàng làm họ, nhưng quả thật cả hai đều là bạn, mà là bạn thân cơ đấy, vì cùng học với nhau cách nay đã hơn nửa thế kỷ, tính từ 1951. Nhân câu chuyện sách giáo khoa lớp ba né tránh việc chỉ rõ tên kẻ thù đang gây nên sự phẫn nộ mà lượm lặt trong món quà vừa được tặng để lấy ra vài ý, ngõ hầu có thể góp đôi điều với người phẫn nộ và người biện minh cũng đều là chỗ bạn bè cả.

Người phẫn nộ thì có cái lý thật vững chắc khi thái độ đối với giặc ngoại xâm đang là điểm quy chiếu chính tà mọi hành động của người Việt Nam xưa nay. Nghĩ kỹ ra, đây là điều thật đáng mừng vì nó biểu tỏ tâm trạng và sự nhạy bén của công chúng về thời cuộc. Thế nhưng lời biện minh của người viết sách giáo khoa Tiếng Việt lớp ba ấy cũng có cái lý khi nói về mục tiêu quy định nội dung biên soạn. Quả thật bên tình bên lý… khó để nặng hơn bên nào. Nói vậy không phải định lựa chọn thái độ lập lờ sư nói sư phải, vãi nói vãi hay lúc mà sự tranh cãi chưa đến hồi kết thúc. May mắn là dư âm của Vấn đề dạy văn của nhà giáo, bạn tôi, với lời bạt của nhà văn cũng là bạn thân tình, đang còn xao động đủ để bàn góp đôi điều vượt khỏi tầm vóc của chuyện sách giáo khoa đang tranh cãi.

Nhà văn thì nhã nhặn lưu ý “Đại ơi! Quan tâm tới mức lo lắng đến việc dạy văn trong nhà trường là tâm trạng của xã hội ta trong những ngày này. Huống hồ là bọn tôi, một số những nhà văn có đoạn văn và bài văn hiện có mặt trong sách giáo khoa của học sinh từ bậc tiểu học đến trung học”. Nhưng trước sự nhã nhặn đó đã có một lời “nhắn nhủ nghiêm trang” “… nói thì nói vậy thôi, chứ ở đời muôn sự là chung, giữa anh và cánh nhà văn chúng tôi vẫn có một mẫu số chung đấy anh ạ. Thành ra, đọc sách này của anh, cảm tưởng đầu tiên là thấy như đang đọc một áng văn, một áng văn đầy cá tính”…

Nhà giáo thì ngang ngược nói toẹt ra: “Văn chẳng là gì hết. Văn chỉ là văn thôi. Văn tức là cuộc sống nói một cách văn mà thôi!… “Theo cách ấy, tôi khoanh cái vùng “vấn đề dạy văn” ở chỗ nào có văn… Đối tượng nghệ thuật có cái lý của nó là những quan hệ người đời. Văn là “sự vật thể hóa” cái lý ấy theo kiểu văn … Thế rồi nhà giáo hạ một câu có sức nặng ngàn cân của triết lý về chuyện dạy văn, học văn từ đó mà quy định việc soạn sách giáo khoa: “Dạy văn là nhằm tạo cho trẻ em một nhu cầu nhân văn, một năng lực thuần túy người”!

Đến đây thì quả là việc dạy văn và “chuyện sách giáo khoa” được đặt ra ở cái tầm của tư duy triết lý trong sự nghiệp trồng người. Mà với sự nghiệp này thì theo tác giả, “thời tiểu học là thời hình thành nhân cách, với chất người và chất cá nhân, làm nên cái gốc văn hóa của đời người. Từ 0 đến 11/12 tuổi, em có chất văn hóa gì thì sau này văn hóa cá nhân em đặc trưng bởi tính chất ấy”. Quan điểm này Hồ Ngọc Đại trình bày trong Giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Cụ thể hơn, ở trang 15 của cuốn sách chỉ vỏn vẹn 35 trang kể cả mục lục, in khổ nhỏ, kiểu bỏ túi, mà lại chữ to để cho mắt kèm nhèm cũng đọc được mà tác giả tặng người viết này cách đây mấy tháng. Cầm cuốn sách trên tay mà nghĩ bụng “hắn chơi chua với đời đây, theo kiểu Voltaire: “Hai mươi tập sách khổ lớn không bao giờ làm nổi một cuộc cách mạng; chính những quyển sách nhỏ giá ba mươi xu mới thực sự đáng sợ” (Jamais vingt volumes in-folio ne feront de révolution ; ce sont les petits livres portatifs à trente sous qui sont à craindre).

Mà quả thật, với Giải pháp đổi mới… mà trước đó, Vấn đề dạy văn với số trang gấp mười lần hơn mà Ma Văn Kháng viết rất rành rọt trong Lời Bạt: “Văn chỉ là văn thôi. Chà! Cái mệnh đề đơn giản này, cái định nghĩa, cái giới thuyết giản dị này, với ai thì tôi không biết, nhưng với tôi thì nó đã giúp tôi thoát ra khỏi bao nhiêu là ràng buộc không nên có đấy giáo sư ạ. Ôi cái nghĩa đời, nghĩa văn giản đơn mà sâu xa là vậy. Giáo sư bạn tôi ơi…tôi thấy rất cần biểu lộ sự đồng tình, hơn nữa, niềm cảm hứng tràn trề của một tri kỷ trước rất nhiều câu văn anh viết vừa phản ánh trình độ tư duy thấu đáo, khoa học, vừa mang hơi ấm nồng nàn của trái tim anh; chẳng hạn khi anh nhấn mạnh: Cuộc sống là nguồn gốc cuối cùng, là nơi xuất phát, nơi đi nơi đến của quá trình hình thành tiếng nói và văn”!

Từ lập luận ấy, Hồ Ngọc Đại khẳng định: “Điều quan trọng là trở lại sự biến hóa trong hiện thực, lấy đó làm gốc văn, tức là phải lấy sự sống thực, sự cảm nghiệm của chính mình làm nền tảng. Sự phong phú về tâm hồn, về văn chỉ là bông hoa của cây đời, mà lúc đầu chỉ là hạt giống được gieo trên mặt đất phù sa đầy nhựa sống của cuộc đời” để từ đó mà đưa ra một kết luận chắc nịch kết thúc cho chương Dạy Văn ở trang 18: “Cuộc sống là nguồn gốc cuối cùng, là nơi xuất phát, nơi đi, nơi đến của quá trình hình thành tiếng nói và văn”, điều mà Ma Văn Kháng rất tâm đắc dẫn ra. Rồi cũng để từ đó mà ông nhà văn hạ một lời khen chắc nịch: “Cuốn sách của anh như một tảng đá bật ra từ cuộc sống… Đó là một kết cấu đẹp với những câu văn và ý tưởng đẹp. Sức quyến rũ của nó với tôi là sức quyến rũ của cái đẹp!”.

Thế là cách đặt vấn đề về chuyện dạy văn và soạn sách giáo khoa về văn trong cuốn sách tôi cầm trên tay đã vượt xa khuôn khổ của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đây là chuyện của cả xã hội theo đúng cái nghĩa “cái lớn thì đủ sức bao dung cái nhỏ, mà cái nhỏ không đủ sức nâng đỡ cái lớn” như vị danh sĩ triều Nguyễn đã chỉ ra. Mà “cái lớn” thì lại đang còn quá nhiều vấn đề, ở đây, xem ra “những vết thương ngoài da” đã chuyển vào “bên trong nội tạng” như lời cảnh báo của M. Gorki. Mà đã ở trong “nội tạng” thì phải được cứu chữa bằng sự “trui rèn trong ngọn lửa cháy không bao giờ dứt của văn hóa” như người viết này trình bày trên Văn nghệ số trước.

Vả chăng, trong chuyện sách giáo khoa thì đâu chỉ có văn? Gần đây, trên báo Tuổi Trẻ ra ngày 20-8-2012 người ta còn đòi hỏi Phải “lột xác” môn sử nữa cơ! Mà đây lại là lời của vị giáo sư đứng đầu ngành sử học Việt Nam. Những người nghiên cứu lịch sử, theo ông, “sẵn sàng cộng tác với Bộ GD-ĐT trong hành trình “lột xác” dạy và học môn lịch sử này”. Mà vì thế mà vị Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử khuyến cáo phải “rà soát lại toàn bộ chương trình, từ sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy đến công tác đào tạo giáo viên…”.

Nhưng nếu chỉ thế thôi thì e sẽ rơi vào tình thế của cái nhỏ không đủ sức nâng đỡ cái lớn mà từ thế kỷ XVIII Nguyễn Văn Siêu đã chỉ ra. Để làm được tốt việc soạn sách giáo khoa môn sử, phải chăng là phải rà soát lại chất lượng của các công trình nghiên cứu lịch sử, đặc biệt là phải dám thẳng thắn nhìn lại tính trung thực lịch sử của các công trình nghiên cứu đã được xuất bản. Để làm gì? Để các nhà sử học dám nhìn thẳng vào sự thật và nói lên sự thật về những sự kiện lịch sử đã được công bố với những lời phán xét của các nhà sử học chưa thật khách quan và trung thực, đặng nhặt ra những nhầm lẫn, xuyên tạc!

Chỉ xin nhắc lại ví dụ cập nhật về chuyện sách giáo khoa Tiếng Việt lớp ba lẩn tránh một chuyện lịch sử: chỉ rõ tên kẻ thù xâm lược những năm 40 thời Hai Bà Trưng “Ngàn Tây nổi áng phong trần, ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên” để rồi “Đô kì đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta” (Đại Nam quốc sử diễn ca) đã gây bức xúc trong công luận và người viết sách giáo khoa Tiếng Việt đã có lời biện minh, cứ cho là chuyện này hãy tạm gác lại. Thế nhưng không thể không thấy rằng, không phải ngẫu nhiên mà có sự phẫn nộ kia.

Đã đến lúc lịch sử cần phải thật sòng phẳng và tường minh. Vấn đề đang đặt ra chính là các nhà sử học phải đối diện với những đòi hỏi của lương tâm và trách nhiệm của chính mình. Vậy thì liệu có phải “lột xác” những công trình nghiên cứu lịch sử, trả về cho chúng giá trị thật của chính nó không? Có vậy mới mong có những sách giáo khoa lịch sử hay, cách dạy sử hấp dẫn khiến cho học sinh thích học sử, dần dần loại bỏ hiện tượng đáng xấu hổ về điểm 0 môn Sử trong các kỳ tuyển sinh vừa qua!

Điều cần đặc biệt quan tâm phải là chuyện lịch sử nằm ngay trong tính thời sự cập nhật của nó khi mà các bản đồ cổ của Trung Quốc cũng như các văn kiện chính thức của nhà nước phong kiến Trung Quốc trước năm 1909, như Đại Nguyên nhất thống chí (1294), Đại Minh Nhất thống chí (1461), Đại Thanh Nhất thống chí (1842) đều khẳng định “cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là Nhai huyện, đảo Hải Nam”. Thế nhưng báo chí, loa đài khắp nước họ lại ra rả ngày đêm tuyên bố Trung Quốc đang sở hữu 2.000.000 km vuông lãnh thổ đại dương, nằm trong “đường chín đoạn” của biển Nam Hải (tức là biển Đông). Đây là một kịch bản đã được tính toán rất kỹ từ rất lâu, được đưa vào sách giáo khoa để nhồi vào đầu trẻ em Trung Quốc “ý thức về chủ quyền lãnh thổ” mà họ đã vẽ ra. Họ cho phát hành 23.527 bản của tạp chí nghiên cứu Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) để loan truyền rộng rãi nội dung trên. Trong 10 năm, họ đã khuyến khích làm 238 luận văn tiến sĩ về Biển Đông và các quần đảo với nội dung xác định chủ quyền Trung Quốc. Cũng trong thời gian đó, họ tổ chức 516 cuộc hội thảo về Biển Đông, biển Đông Bắc và các quần đảo đang tranh chấp.

Xem ra, vấn đề của chuyện “lột xác môn sử” không thể chỉ dừng lại chuyện viết sách giáo khoa sử và việc dạy sử mà còn là là phải nhìn thẳng vào vấn đề đôi khi được gọi một cách mơ hồ là “vấn đề nhạy cảm”. Đúng, sự nhạy cảm bậc nhất lúc này là khơi dậy tinh thần dân tộc nhằm cổ vũ lòng yêu nước, sát cánh cùng với các chiến sĩ Trường Sa và các vùng biên viễn giữa trời biển của Tổ quốc.

Cần biết bao một cuốn sách “về vấn đề dạy sử” na ná như cuốn sách về “vấn đề dạy văn” của bạn tôi đây. ở đó, vấn đề sách giáo khoa phải được đặt ở tầm tư duy chiến lược nhằm vun đắp “cái gốc văn hóa của đời người” mà “điều quan trọng là trở lại sự biến hóa trong hiện thực, lấy đó làm gốc văn, tức là phải lấy sự sống thực, sự cảm nghiệm của chính mình làm nền tảng”. Mà trong sự sống thực thì làm sao có thể tách chuyện dạy văn khỏi chuyện dạy sử cho trẻ nhỏ nhằm tạo ra trong chúng “một nhu cầu nhân văn, một năng lực thuần túy người”, người Việt Nam “có cứng mới đứng đầu gió”, gió Biển Đông!

Nguồn: Văn nghệ số 41/2012

Exit mobile version