Phê bình sinh thái với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế kỉ 20, tiếp đó xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới. Trong số rất nhiều giới định về thuật ngữ “phê bình sinh thái”, định nghĩa được nhiều người tiếp nhận là định nghĩa của một trong những người chủ chốt trong việc khởi xướng và phát triển phê bình sinh thái Mĩ – Cheryll Glotfelty: “Phê bình sinh thái là phê bình bàn về mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên”(1)
Từ nghĩa mặt chữ có thể thấy Phê bình sinh thái dường như là đem sinh thái học và văn học nghệ thuật kết hợp lại, giống như kết hợp giữa phê bình phân tâm học và phê bình mẫu gốc thần thoại. Kì thực không phải như vậy. Tuy có nhà phê bình đã dẫn dụng một số thành quả nghiên cứu sinh thái học, căn cứ số học của nghiên cứu môi trường học, nhưng trên chỉnh thể, cái mà phê bình sinh thái hấp thu không phải là thành quả nghiên cứu cụ thể của khoa học tự nhiên mà là tư tưởng cơ bản của sinh thái học, hoặc nói chính xác hơn là tư tưởng triết học sinh thái. Triết học sinh thái là khởi điểm lí luận và căn cứ của phê bình sinh thái. Karl Kroeber đã luận thật rõ ràng về điểm này. Ông nói: “Phê bình sinh thái không phải đem phương pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hoặc phương pháp nghiên cứu của bất kì khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích văn học. Nó chỉ dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học mà thôi”(2)
Đem phê bình sinh thái định nghĩa thành nghiên cứu văn học, thậm chí thành phê bình toàn bộ quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên, đã làm lộ ra đặc trưng cơ bản nhất của loại phê bình này. Với tư cách là khuynh hướng phê bình văn hóa văn học, phê bình sinh thái có nhiệm vụ chủ yếu mang giá trị đặc thù và đặc trưng bản thể luận của nó, đó là thông qua văn học để thẩm định lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán – nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, mô hình phát triển xã hội của loài người đã ảnh hưởng như thế nào đến thái độ và hành vi của nhân loại đối với tự nhiên, đã dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường và nguy cơ sinh thái như thế nào. Jonathan Levin đã chỉ ra: “Tất cả phương diện văn hóa xã hội của chúng ta cùng quyết định phương thức độc nhất vô nhị của sinh tồn của chúng ta trên thế giới này. Không nghiên cứu những điều này, chúng ta không thể nhận thức sâu sắc quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên, mà chỉ có thể biểu đạt những lo lắng nông cạn…Vì thế, ngoài nghiên cứu văn học biểu hiện tự nhiên như thế nào, chúng ta tất yếu còn phải dùng rất nhiều tinh lực để phân tích tất cả các nhân tố văn hóa xã hội quyết định thái độ đối đãi của con người đối với tự nhiên và hành vi tồn tại trong môi trường tự nhiên, đồng thời kết hợp những phân tích này với nghiên cứu văn học”. Phê bình sinh thái phải “làm lộ ra một cách có tính lịch sử văn hóa ảnh hưởng như thế nào đến sinh thái địa cầu”(3). Nhà nghiên cứu tư tưởng sinh thái nổi tiếng Donald Worster chỉ ra: “ Nguy cơ sinh thái mang tính toàn cầu mà ngày nay chúng ta phải đối mặt có nguồn gốc không phải ở bản thân hệ thống sinh thái mà ở hệ thống văn hóa của chúng ta. Muốn vượt qua nguy cơ này, tất yếu phải ra sức lí giải minh bạch ảnh hưởng của văn hóa của chúng ta đối với tự nhiên. Nhà sử học, nhà phê bình văn học, nhà nhân loại học, nhà triết học nghiên cứu quan hệ giữa văn hóa và sinh thái, tuy không thể trực tiếp thúc đẩy cách mạng văn hóa, nhưng lại có thể giúp chúng ta lí giải, mà sự lí giải này chính là tiền đề của cách mạng văn hóa”(4)
Phê bình sinh thái manh nha vào những năm 70 của thế kỉ 20. Năm 1974, học giả người Mĩ Joseph W. Meeker cho xuất bản chuyên luận Sinh thái học của văn học đề xuất thuật ngữ “sinh thái học văn học” (literary ecology), chủ trương phê bình nên bàn đến “quan hệ giữa nhân loại và các vật chủng khác, phải “phải nhìn nhận và khám phá một cách tỉ mỉ chân thành ảnh hưởng của văn học đối với hành vi nhân loại và môi trường tự nhiên”(5). Tác giả còn thử phê bình kịch Hi La cổ đại, Date, Shakespeare và một số tác phẩm văn học đương đại. Cũng năm đó, một học giả người Mĩ khác Karl Kroeber đã viết một bài trên tạp chí có ảnh hưởng rất lớn trong giới phê bình phương Tây – Tạp chí của hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại, dẫn nhập khái niệm “sinh thái học”(ecology) và “tính sinh thái”(ecological) vào phê bình văn học(6).
Năm 1978, William Rueckert trên tạp chí Bình luận Iowa số mùa đông, đã đăng một bài viết với tiêu đề Văn học và sinh t hái học:Một phác thảo thử nghiệm phê bình sinh thái (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism) lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “phê bình sinh thái”(ecocriticism), đề xướng một cách rõ ràng “kết hợp hợp văn học và sinh thái học”, nhấn mạnh rằng nhà phê bình “phải có cái nhìn sinh thái học”, cho rằng nhà lí luận văn nghệ nên “xây dựng được một hệ thống thi học sinh thái”(7)
Năm 1985, Hội ngôn ngữ học hiện đại cho xuất bản một cuốn sách do Frederick O. Waage chủ biên mang tên Dạy văn học môi trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm năng phát triển (Teaching Environmental Literature: Materials, methods, Resources). Cuốn sách này phát huy tác dụng lớn trong việc kích thích các giáo sư ở Mĩ mở các môn học liên quan đến văn học sinh thái và tiến hành nghiên cứu lĩnh vực này.
Năm 1989 trong Đại hội “Hội văn học miền Tây” nước Mĩ, có hai vị học giả đề xướng phê bình sinh thái. Một vị là Cheryll Glotfelty với báo cáo Vì một nền phê bình văn học sinh thái (Toward an Ecological literary criticism); một vị khác là Lough hội trưởng của hội này, báo cáo của ông có tiêu đề Định giá lại tự nhiên: Vì một nền phê bình sinh thái học) (Revaluing Nature: Toward an ecological criticism)
Năm 1990 Robert Finch và John Elder chủ biên cuốn The Norton: Cuốn sách viết về tự nhiên (The Norton: book of nature writing). Bộ sách này có dung lượng gần 1000 trang giới thiệu những tác phẩm quan trọng viết về tự nhiên của Âu Mĩ từ thế kỉ 18, cung cấp một số lượng lớn bài viết, trong đó phần lớn là văn học sinh thái.
Năm 1991 giáo sư Jonathan Bate Đại học Liverpool nước Anh cho xuất bản chuyên luận Sinh thái học của chủ nghĩa lãng mạn: Wordsworth và truyền thống môi trường, nghiên cứu văn học lãng mạn từ góc độ sinh thái học. Trong cuốn sách này, Bate cũng sử dụng thuật ngữ phê bình sinh thái, ông gọi nó là “phê bình sinh thái của văn học” (literary ecocriticism)(8). Có học giả cho rằng, sự xuất hiện của chuyên luận này đánh dấu bước mở đầu của phê bình sinh thái Anh (9). Cuốn sách có tính nền tảng cho phê bình văn sinh thái ở Anh này đã “trở thành kinh điển”(10). Cũng năm đó, Hội Ngôn ngữ học hiện đại tiến hành hội thảo khoa học với chủ đề “Phê bình sinh thái: xanh hóa nghiên cứu văn học”.
Năm 1992, “Hội nghiên cứu văn học và môi trường” (The Association for the Study of literature and Environment), gọi tắt là ASLE được thành lập ở trường đại học Nevada Mĩ. ASLE là một tổ chức học thuật phê bình sinh thái mang tính quốc tế, có hơn nghìn hội viên đến từ các nước khác nhau, hai năm tổ chức hội thảo thường niên một lần. Ngoài ra, ASLE còn thường tổ chức các cuộc thảo luận quy mô nhỏ, xuất bản tạp san của hội, giới thiệu những thành quả phê bình sinh thái mới nhất, gửi đi “Danh sách những vấn đề thảo luận học thuật” (The ASLE disccussion list). Scott Slovic được bầu là hội trưởng đầu tiên của ASLE là hoàn toàn có lí do. Năm 1989 ông đã bắt đầu nghiên cứu phê bình sinh thái, năm 1992 ông cho xuất bản chuyên luận Đi tìm nền nhận thức toàn triển cho lối viết tự nhiên ở Mỹ (Seeking Awareness on America Nature writing), có ảnh hưởng rất lớn ở Mĩ. Trong cuốn sách này ông nghiên cứu các nhà văn sinh thái nổi tiếng như Annie, Edward, Abbey, Wedell Bery, Bary Lopez. Ông quan tâm đến sách viết về tự nhiên và nguyên nhân tâm lí của văn học sinh thái, quan tâm đến cơ chế bên trong của giao lưu giữa con người và tự nhiên.
Mùa xuân năm 1993, Tạp chí phê bình sinh thái của ASLE đầu tiên được xuất bản phát hành mang tên Nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường (Interdisciplinary studies in literature and environment, gọi tắt là ISLE). Tạp chí này sau đó trở thành tạp chí học thuật có tính hạt nhân trong lĩnh vực phê bình sinh thái, mỗi số đều có dung lượng hàng trăm trang.
Năm 1994, Kroeber cho xuất bản chuyên luận Phê bình văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và sinh thái học tinh thần(Ecological literary criticism; romantic imagining and the Biology of mind), đề xướng “phê bình văn học sinh thái”(ecological literary criticism) hoặc “Phê bình mang khuynh hướng sinh thái”(ecological oriented criticism), và tiến hành bàn luận những vấn đề chủ yếu của phê bình sinh thái như đặc trưng, nguyên nhân ra đời, tiêu chuẩn phê bình, mục đích, sứ mệnh…(11). Tuy nhiên trong thời kì này, phần lớn giới phê bình văn học vẫn chưa biết phê bình sinh thái rốt cuộc là cái gì. Vì thế, năm 1994, trong Hội văn học miền Tây, Blanche và Sean O Grady đã tổ chức hội nghị bàn tròn mời khoảng 20 học giả đến để giới thuyết khái niệm “phê bình sinh thái”.
Tháng 6 năm 1995, ASLE lần đầu tiên tổ chức hội thảo khoa học tại trường đại học Colorado, hội nghị nhận được hơn 200 báo cáo. Mọi người thường coi đại hội lần này của ASLE là tiêu chí đánh dấu sự hình thành của khuynh hướng hoặc trào lưu phê bình sinh thái. Cùng năm, giáo sư Buell khoa Anh văn đại học Harvard cho xuất bản chuyên luận Tưởng tượng môi trường: Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự cấu thành của văn hóa Mĩ. Ông dùng thước đo sinh thái để nhìn nhận lại văn học và văn hóa Mĩ, viết ra một chuyên luận được vinh danh là “tấm biển đánh dấu mốc của phê bình sinh thái”(12). Ông là chuyên gia về Thoreau, “ông bắt đầu từ tiến trình nghiên cứu Thoreau và từ cống hiến của Thoreau để nghiên cứu , từ góc độ sinh thái cung cấp cho “văn học xanh” một số chỉ đạo có tính tổng thể về phương pháp luận và lí luận”(13).
Năm 1996, tuyển tập Văn bản phê bình sinh thái do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên được xuất bản. Cuốn sách này được công nhận là tài liệu nhập môn của phê bình sinh thái. Cuốn sách chia làm ba phần, phân biệt thảo luận sinh thái học và lí luận văn học sinh thái, phê bình sinh thái của văn học và phê bình của văn học sinh thái. Cuối sách còn liệt kê và giới thiệu sơ lược tính đến cuối năm 1995 những bài báo và chuyên luận phê bình sinh thái quan trọng nhất. Nữ sĩ Cheryll Glotfelty là học giả đầu tiên nhận được danh hiệu “giáo sư văn học và môi trường” (professor of literature and environment). Vị giáo sư trường đại học Nevada này có 20 năm theo đuổi phê bình sinh thái, là một trong những người khởi xướng “Hội nghiên cứu văn học và môi trường”, đồng thời là hội trưởng, cũng là một trong những thành viên sáng lập ra “Nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường”. Cùng năm, tài liệu tham khảo về phê bình sinh thái chủ yếu khác cũng xuất hiện như Những bài viết về tự nhiên của Mĩ, chủ biên chính là John Elder – chủ biên của cuốn Tuyển tập các bài viết về tự nhiên Norton.
Năm 1998, tại Luân Đôn, tuyển tập Viết về môi trường: phê bình sinh thái và văn học do nhà phê bình người Anh R. Kerridge và N. Sammells chủ biên được xuất bản. Đây là bộ tuyển tập phê bình sinh thái đầu tiên ở Anh. Sách được chia thành ba phần: lí luận phê bình sinh thái, lịch sử phê bình sinh thái và văn học sinh thái đương đại, tổng cộng 15 chương, tác giả là những nhà phê bình sinh thái Âu Mĩ. Trong lời mở đầu cuốn sách R. Kerridge viết: Phê bình sinh thái là “một môn phê bình văn hóa chủ nghĩa môi trường mới”. “Phê bình sinh thái cần bàn luận về biểu hiện của môi trường và quan niệm môi trường trong văn học”(14). Cùng năm, tập báo cáo của hội nghị thường niên lần thứ nhất của ASLE cũng được chính thức xuất bản với tên Đọc về trái đất: khuynh hướng mới của nghiên cứu văn học và môi trường.
Nhà phê bình người Mĩ William Slaymaker từng thốt lên trước sự phát triển nhanh như vậy của nghiên cứu văn học sinh thái: “Từ những năm 80, 90, văn học môi trường và phê bình sinh thái dần dần trở thành hiện tượng văn học mang tính toàn cầu. Hai từ mới “Văn sinh thái”(ecolit) và “phê sinh thái”(ecocrit) xuất hiện với số lượng nhiều trong tạp chí, sách vở xuất bản, hội thảo khoa học, hạng mục học thuật và vô số chuyên đề nghiên cứu, luận văn, và lan nhanh như nước lũ”(15). Murphy – nhà phê bình danh tiếng, giáo sư đại học Indiana, cho rằng: quốc tế hóa, toàn cầu hóa là đặc điểm nổi bật của sự phát triển những năm gần đây của phê bình sinh thái. Murphy còn cho rằng: “Tất nhiên không nhất thiết mỗi người đều trở thành nhà phê bình sinh thái, nhưng trong tất cả các khoa mà hội viên Hội ngôn ngữ học hiện đại giữ chức vụ, đều nên đem phê bình sinh thái vào việc mở môn học, cho dù chỉ là để thỏa mãn hứng thú và nhu cầu của sinh viên và nghiên cứu sinh cũng cần phải làm” (16). Tình hình thực tế đúng là như vậy. 10 năm gần đây, trong đại học ở Mĩ, các môn học có liên quan đến văn học sinh thái hoặc văn học và môi trường đều tăng lên mạnh mẽ. Ví dụ, chuyên luận phê bình sinh thái của Lawrence Buell được dẫn dụng rộng rãi trong giới học thuật, chính là cuốn sách được viết ra trên cơ sở những bài giảng của ông về “văn học mĩ và môi trường Mĩ” tại đại học Harvard. Tại khoa Anh văn đại học Yale, từ sinh viên năm thứ nhất đến nghiên cứu sinh, đều có những môn học liên quan đến văn học sinh thái để sinh viên tham gia tiến tu. Giáo sư Peterson tiền chủ nhiệm của khoa này từng nói: “Hứng thú của sinh viên đối với văn học sinh thái ngày càng sâu sắc, rất nhiều nghiên cứu sinh chọn đề tài luận án liên quan đến lĩnh vực văn học và tự nhiên – phê bình sinh thái”(17). Đại học Naveda là trung tâm giảng dạy và nghiên cứu văn học sinh thái của toàn nước Mĩ. Ở đây, tập hợp nhiều giáo sư, thực tập sinh và nghiên cứu sinh chuyên nghiên cứu văn học sinh thái. “Hạng mục bồi dưỡng nghiên cứu sinh văn học và môi trường” mỗi năm tuyển khoảng 2-30 thạc sĩ và nghiên cứu sinh. Đại học Virginia, đai học Arizona, đại học Georgia, đại học Oregen, đại học Utah, và đại học Wisconsin đều là cơ sở quan trọng của phê bình sinh thái.
Tân văn học sử (new literary history) mùa hè năm 1999 là chuyên đề phê bình sinh thái, tổng cộng in 10 bài chuyên luận về phê bình sinh thái, dùng đến 210 trang, trong đó, với bài Khởi nghĩa của sinh thái Buell ví sự trỗi dậy của phê bình sinh thái như sự khởi nghĩa đầy thanh thế của các nhà phê bình đối với văn hóa truyền thống trong thời đại nguy cơ sinh thái. Tháng 10 cùng năm, tạp chí có quyền uy hơn là Tạp chí của hội ngôn ngữ học hiện đại cũng mở một diễn đàn đặc biệt, sưu tập các bài viết của hơn 10 học giả hàng đầu, chuyên thảo luận về phê bình sinh thái. Trong số 1 của tạp chí đã in 14 bài của các chuyên gia có uy tín (bao gồm Buell, Murphy và Glotfelty).
Năm 2000 cũng là năm phát triển mạnh của phê bình sinh thái, xuất hiện những chuyên luận và hàng loạt các tuyển tập quan trọng. Tháng 6 năm 2000 tại đại học Cork tiến hành hội thảo khoa học quốc tế đa ngành với chủ đề “Giá trị của môi trường”. Tháng 10 năm đó, tại đại học Danjiang Đài Loan đã tổ chức hội thảo quốc tế phê bình sinh thái với chủ đề “Diễn ngôn sinh thái”. Trong hội nghị, giáo sư Gifford đại học Leeds nước Anh đã kêu gọi học giả các nước: “Đem phê bình sinh thái vào trong giảng đường đại học”.
Năm 2000, trong những chuyên luận phê bình sinh thái tiêu biểu được xuất bản có chuyên luận Tính đa ngành trong nghiên cứu văn học viết về tự nhiên (Farther afield in the study of nature – oriented literature. Charlottesville: university press of Virginia, 2000) của giáo sư Murphy, cuốn sách bàn về văn học sinh thái, trong đó gồm tiểu thuyết, văn xuôi phi tiểu thuyết, và thơ ca. Chuyên luận Chủ nghĩa môi trường trong văn học Mĩ của Meisel bàn luận về lí luận phê bình sinh thái và môi trường, phong cảnh, hoang dã.., và Bài ca của trái đất của Bate… Khác với trước tác của 9 năm về trước, trong bộ chuyên luận về phê bình sinh thái này, Bate mở rộng góc nhìn phê bình từ văn học chủ nghĩa lãng mạn, từ cổ đại Hi La đến toàn bộ văn học phương Tây thế kỉ 20, hơn nữa còn đi sâu bình luận về lí luận phê bình sinh thái. Giáo sư Kupe đại học Manchester chủ biên cuốn Văn bản nghiên cứu xanh: từ chủ nghĩa lãng mạn đến phê bình sinh thái do nhà xuất bản nổi tiếng Routledge xuất bản. Không giống với các học giả Mĩ, học giả Anh ngay thời kì đầu đã nghiêng hơn về “nghiên cứu xanh” chứ không phải “phê bình sinh thái”. Cuốn sách này chia làm 3 phần: “truyền thống xanh”, “lí luận xanh” và “đọc hiểu xanh”. Cũng năm 2000 tập hợp các báo cáo tại đại hội lần thứ 2 của ASLE được xuất bản với tiêu đề Đọc dưới sự chỉ đường của tự nhiên: tuyển tập mới về phê bình sinh thái.
Bước sang thế kỉ 21, phê bình sinh thái phát triển sâu rộng hơn. Năm 2001, Buell cho xuất bản cuốn Viết vì thế giới đang lâm nguy: văn học , văn hóa, môi trường nước Mĩ và các quốc gia khác. Cuốn sách này có điểm khác so với các trước tác khác là không chỉ đơn phương bàn luận văn học có khynh hướng tự nhiên nữa, mà tuyển chọn cùng thảo luận tác phẩm văn học có khuynh hướng tự nhiên tiêu biểu và những tác phẩm văn học có khuynh hướng văn hóa, làm rõ quan điểm tư tưởng khác nhau trên hệ thống diễn ngôn luân lí sinh thái, hiện đại hóa, phát triển, tài nguyên, ô nhiễm. Phương pháp nghiên cứu như vậy có lợi đối với việc thúc đẩy sự hình thành những tri thức chung cơ bản trong quá trình đối thoại của những quan điểm khác nhau, đồng thời làm cho phê bình sinh thái càng có tính sắc bén, mang đến mô hình có ý nghĩa gợi ý cho văn học truyền thống theo cái nhìn sinh thái. Meisel chủ biên cho xuất bản cuốn Một trăm năm của phê bình sinh thái thời kì đầu, tiến hành nhìn lại và tổng kết toàn diện về phê bình sinh thái, đẩy phê bình sinh thái về giữa thế kỉ 19. Tuyển tập Viết về tự nhiên siêu việt: biên giới của phê bình sinh thái rộng lớn do Armbruster và Wallace đồng chủ biên tập hợp bài viết của 23 học giả nổi tiếng.
Năm 2002, Tạp san nghiên cứu văn học uy tín Nghên cứu văn học liên ngành năm đó cũng liên tục giới thiệu hai kì đặc san về phê bình sinh thái: Thi học sinh thái (số 3) và Phê bình văn học sinh thái (số4). Roosendaal chủ biên tuyển tập Xanh hóa nghiên cứu văn học: văn học, luân lí và môi trường, Dries cho xuất bản chuyên luận Phê bình sinh thái: sáng tạo tự ngã và hoàn cảnh trong văn học Indian Mĩ và môi trường. Cuốn sách này bắt đầu bằng phân tích tác phẩm của nhà văn Indian Mĩ, bàn về phương thức tồn tại của sinh thái. Tác giả của cuốn sách phát biểu một cách rõ ràng mục đích của bà là “xây dựng sự tồn tại đẹp đẽ mang tính chỉnh thể sinh thái. John Pamu chủ biên cuốn tuyển tập Truyền thống môi trường trong văn học Anh ngữ, trong đó sưu tầm 15 bài bàn về phê bình sinh thái từ góc độ lí luận và thực tiễn. Cuốn giáo trình Lí luận khởi điểm: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa do Peter Barry soạn được xuất bản lần thứ 2 ở Nhà xuất bản đại học Manchester, cuốn giáo trình này có thêm một chương mới là “Phê bình sinh thái”, giới thiệu một cách toàn diện sự ra đời, thuật ngữ, hàm nghĩa, thành tựu chủ yếu, nhiệm vụ của phê bình sinh thái, còn thêm một bài liệt kê thực tiễn phê bình sinh thái. Cùng năm, cuốn Dẫn luận phê bình sinh thái thể kỉ 21 do Julian Wolfreys chủ biên do nhà xuất bản Edinburgh xuất bản, cuốn sách cũng dùng một chương giới thiệu về phê bình sinh thái. Như vậy, sự giới thiệu của các giáo trình tài liệu cho thấy phê bình sinh thái đã nhập vào dòng chính của học thuật.
Năm 2003 giáo sư Lough đại học Oregon cho xuất bản chuyên luận Phê bình sinh thái thực dụng: văn học, sinh thái học và môi trường. Lough bàn luận một cách sâu sắc về tính tất yếu của phê bình sinh thái, quan hệ giữa phê bình sinh thái và khoa học, đồng thời, từ góc độ văn hóa sinh thái đương đại tiến hành bình luận hàng loạt các văn bản văn học, đặc biệt là của Willa Cather, William Dean Howells, hi vọng với những bình luận này có thể “thúc đẩy phê bình sinh thái được vận dụng rộng rãi hơn, mở rộng biên giới ảnh hưởng của phê bình sinh thái”. Cũng trong năm này, Blanche và Scott Slovic chủ biên cuốn Văn bản ISLE : phê bình sinh thái 1993-2003 tuyển chọn những văn bản nghiên cứu tiểu biểu trong 10 năm của “Nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường”. Trong cuốn này chú trọng bình giá lại giá trị của văn học đặc biệt là văn học truyền thống từ góc độ sinh thái, chỉ ra phê bình sinh thái cần phải “có cách đọc mới về những nhà văn viết về môi trường quen thuộc”.
Năm 2004 Garrard đại học Bath Spa Anh xuất bản chuyên luận Phê bình sinh thái bàn về diễn ngôn chủ yếu của phê bình sinh thái từ 8 phương diện như ô nhiễm, tư tưởng (như chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, tư tưởng chủ nghĩa môi trường của nhân loại trung tâm), điền viên, hoang dã, ghi chép thông báo, nhà ở, động vật, trái đất.
Thành tựu quan trọng nhất của năm 2005 là bộ chuyên luận phê bình sinh thái thứ 3 của Lawrence Buell mang tênTương lai của phê bình môi trường: nguy cơ môi trường và tưởng tượng văn học. Buell đặt phê bình sinh thái vào chỉnh thể lĩnh vực nghiên cứu văn hóa và văn học để khảo sát, chỉ ra một cách rõ ràng “sự chuyển hướng của sinh thái môi trường trong những nghiên cứu về văn học và văn hóa” (the environment turn in literary and cultural studies), “diễn ngôn sinh thái của văn học”(literary ecodiscourse) được sử dụng rộng rãi hơn, hình thành hệ thống toàn cầu hóa hơn, được thảo luận liên ngành nhiều hơn, được cấu thành từ nhiều phương diện hơn”. Cuốn chuyên luận này đã tổng kết sự ra đời, phát triển, thành tựu cũng như hạn chế của phê bình sinh thái; bàn luận về quan hệ giữa thế giới, văn bản, và phê bình sinh thái, đặc biệt là tưởng tượng và biểu hiện của môi trường phân tích quan niệm không gian, địa điểm và tưởng tượng bản địa hóa và toàn cầu hóa; nhấn mạnh luân lí phê bình sinh thái và nhiệm vụ chính trị; cuối cùng đưa ra một loạt quan điểm mang tính xây dựng đối với sự phát triển tương lai của phê bình sinh thái. Cuối cùng của cuốn sách còn có một phụ lục thuật ngữ, giải thích tường tận những thuật ngữ thường dùng nhất của phê bình sinh thái, có tính thực dụng cao.
Năm 2006 học giả Hayes đại học Stanford đã đăng một bài dài trên Tạp chí hội ngôn ngữ học hiện đại mang tên Dẫn luận phê bình sinh thái cho những người tham dự sau , bình giá sự phát triển mới nhất của phê bình sinh thái..
Phê bình sinh thái cũng nhận được sự chú ý cao độ của những học giả từ những quốc gia Âu Mĩ không dùng tiếng anh làm ngôn ngữ chính. Murphy cho rằng, quốc tế hóa hoặc toàn cầu hóa là đặc điểm nổi bật của phê bình sinh thái. Ngoài phạm vi văn học Anh ngữ, phê bình sinh thái các nước, Nhật Bản, Ấn Độ, Mexico, Australia, Nigeria, Malta, Estonia, khu vực Caribbean… cũng có những thành tựu đáng ghi nhận. Để phát huy đặc điểm này, năm 1998 Murphy đã chủ biên cuốn Văn học về tự nhiên: một bộ bách khoa thư mang tính quốc tế, tuyển chọn bài viết về phê bình sinh thái của các học giả đến từ hơn 10 quốc gia. Ông nói: “Sự phát triển của phê bình sinh thái cần tiến hành nhìn nhận mang tính quốc tế đối với văn học biểu hiện tự nhiên trong phạm vi toàn thế giới”, mà cuốn sách ông chủ biên chính là bước đầu tiên của hành trình đó”(Patrick D. Murphy (ed) Literature of nature: An international Sourcebook, chicago: Fitzroy Dearborn Publishers, 1998, p xiv). Năm 1997 Svend Erik Larsen, Annelise Ballegaard Petersen cùng chủ biên chuốn Về tự nhiên: văn học và ngoài văn học (Nature: Literature and its otherness, Odense University Press, 1997). Năm 1998 học giả Đức Jan Hollm xuất bản chuyên luận Chủ nghĩa lí tưởng của người Mĩ: văn học trong thế giới xanh (Die Angloamerikanische Okotopie: Literarische entwurfe einer grunen welt, Bern: P Lang, 1998). Năm 2002, học giả người Pháp Alain Suberchicot xuất bản chuyên luận Văn học Mĩ và sinh thái học ( Littérature américaine et écologie, Paris, L’Harmattan, 2002). Năm 2004, học giả Mĩ Latinh Walter Rojas Perez xuất bản chuyên luận Phê bình sinh thái đương đại (La ecocritica hoy, San José Costa Rica: San José, 2004). Năm 2005 Elizabeth M. DeLoughrey, Renee K. Gosson, và George B. Handley cùng soạn cuốn Văn học và Sinh thái môi trường Caribbean (Caribbean literature and the Environment, Charlottesville: University of Virginia Press, 2005) …
Hội nghiên cứu văn học và môi trường (ASLE) hiện nay đã trở thành tổ chức học thuật có tính quốc tế về phê bình sinh thái. Chỉ trong vòng 10 năm, tổ chức này đã phát triển và gây ảnh hưởng nhanh và rộng trong phạm vi thế giới, đã thành lập 8 phân hội ở Nhật Bản (1994), Anh (1996), Hàn Quốc(2001), Australia và New Zealand (2003), Đại lục châu Âu (2003), Ấn Độ (2004), Canada(2005) gồm hàng nghìn hội viên, ASLE mỗi lần đại hội đều có 4-500 người tham gia. Năm 2004 “Hội nghiên cứu văn học, văn hóa và môi trường châu Âu” (European Association for the study of literature, culture and environment) tổ chức học thuật phê bình sinh thái châu Âu độc lập so với ASLE được thành lập, gọi tắt là EASLCE. Tôn chỉ của hội nghiên cứu này là mang đến một diễn đàn châu Âu để cho các học giả nghiên cứu và giao lưu, suy nghĩ về quan hệ giữa văn học và tự nhiên và những biểu hiện của nó trong văn hóa, văn học.
Có thể nói, hiện này, trào lưu phê bình sinh thái đang dần dần lan rộng trên toàn thế giới.
Đỗ Văn Hiểu dịch từ tiếng Trung
Ngô Hương Giang hiệu đính thuật ngữ từ tiếng Anh
Chú thích
(1) Cheryll Glotfelty & Harold Fromm, The ecocriticism Reader: Landmarks in literary ecology. The university of Georgia Press, 1996, P18
(2) Karl Kroeber, Ecological literary Criticism: Romantic Imagining and the Biology of Mind, Columbia University, Press, 1994, p25.
(3) Jonathan Levin On Ecocriticism (Aletter), PMLA 114.5 oct, p1098
(4) Donald Worster, The Wealth of Nature: Environmental History and the Ecological Imagination, Oxford University Press, 1993, p27
(5) Joseph W. Meeker, The comedy of sunvival: studies in literary ecology, Charles Scribner’s Sons, 1974, pp.3-4
(6) Karl Kroeber Home at Grasmere: ecological holiness, PMLA 89 (1974) pp132-41
(7) Cheryll Glotfelty & Harrold Fromm, The Ecocriticism Reader: Landmarks in literary Ecology, pp114-15
(8) Jonathan Bate, Romantic Ecology, wordsworth and the environmental tradition, Routledge, 1991, p11
(9) R.Kerridge & N.Sammells (ed), Writing the Environment: ecocriticism and literature, Zed books ltd.1998, p9
(10) Peter Bary, Beginning theory: An introduction to literary and cultural theory, Machester: Manchesters university press, 2002, p270
(11) Karl Kroeber, Ecological Literary criticism: Romantic Imagining and the Biology of Mind, p1-9
(12) R.Kerridge & N.Sammells (ed), Writing the environment: ecocriticis and literature, p32.
(13) Julian Wolfreys(ed), Introducing Criticism at the 21st century, Edinburgh: edinburgh university press, 2002, p 173
(14) Ibid, p5
(15) William Slaymaker, On Ecocriticism (a letter), PMLA 114.5 (oct 1999), p 1100
(16) Patrick D. Murphy, On Ecocriticism (Aletter), PMA 114.5 (oct 1999), p. 1099
(17) Steve Grant “Finding nature in literature”, The Hartford Courant 16, (dcc 1998), F1
Nguồn: Vanvn.net