Những nhà văn và độc giả nữ luôn phải làm trái ngược với thói đời. Nhà triết học Aristotle tuyên bố rằng: “Đàn bà là đàn bà bởi một sự thiếu thốn nhất định về những phẩm chất”, và Thánh Thomas Aquinas tin rằng “phụ nữ là một người đàn ông không hoàn hảo”.

Khi thi sĩ John Donne viết “Không trung và các thiên sứ” ông đã ám chỉ (nhưng không phải phản bác) đến lí thuyết của Aquinas rằng hình thể (form) là tính dương và vật thể (matter) là tính âm: Cái trí tuệ của phái nam giống như Thượng đế thì cao hơn in dấu cái hình thể của nó vào vật thể phái nữ bất động và có thể nhào nặn được. Trong thời kì trước thuyết di truyền Mendel (1822-1886) đàn ông xem tinh trùng của họ như những hạt giống chủ động ban hình thể cho cái trứng đang chờ đợi mà vốn không có cá tính cho đến khi nó nhận được dấu ấn của nam giới. Trong tác phẩm bộ ba bi kịch của Aeschylus, Oresteia, nữ thần Athena ban chiến thắng cho lập luận của nam giới. Lập luận này do thần Apolo đưa ra, rằng người mẹ thì không là kẻ sinh thành ra con cái của chị. Sự chiến thắng của nguyên tắc nam giới về trí tuệ chấm dứt sự trị vì của những nữ thần Báo thù (Furies) tràn trề nhục dục và chiến thắng này xác lập chế độ phụ quyền trên mẫu quyền. Phê bình nữ quyền thỉnh thoảng gọi dậy cơn giận dữ của những nữ thần Báo thù để làm xáo trộn những sự đinh ninh đắc ý của nền văn hóa phụ quyền và tạo ra một khí hậu ít ngột ngạt hơn cho những nhà văn nữ và độc giả nữ. Thỉnh thoảng những nhà phê bình nữ quyền áp dụng sự sắc sảo để “giải cấu trúc” những cách nhìn bị nam giới thống trị. Marry Ellmann, chẳng hạn, đề xướng rằng chúng ta có lẽ thích xem cái trứng như là dũng cảm, độc lập và chủ nghĩa cá nhân (hơn là “vô cảm”) và tinh trùng như là tuân thủ, và ngoan ngoãn như bầy cừu (hơn là “hồ hởi”). Sự tưởng tượng của Woody Allen về một tinh trùng đầy kinh hoàng đang chờ đợi một cách bị động cuộc du hành đi vào cõi không biết thì cũng chẳng anh hùng gì về sự thụ tinh như là bất cứ nhà nữ quyền nào có thể ao ước!

Những vấn đề của lí thuyết nữ quyền

Vài nhà nữ quyền không muốn ôm lấy “lí thuyết” chút nào. Có quá nhiều lí do cho điều này. Trong những thiết chế hàn lâm, “lí thuyết” thì thường mang tính nam giới, thậm chí kiêu hùng; nó là đội tiên phong trí thức, cứng cỏi trong những nghiên cứu văn học. Những phẩm chất nam tính của sự nghiêm khắc, mục đích thúc đẩy và tham vọng quá độ tìm thấy ngôi nhà của chúng trong “lí thuyết” hơn là trong nghệ thuật mềm yếu thông thường về cách thông diễn phê phán. Những nhà nữ quyền thường phơi bày ra tính khách quan giả trá của khoa học nam giới. Những lí thuyết của Freud bị chỉ trích bởi sự phân biệt giới tính rành rành của nó, chẳng hạn, vì giả định của chúng rằng tính dục nữ giới hình thành bởi sự ganh tị “dương vật”. Nhiều phê bình nữ quyền mong ước tránh được “những sự cố định và xác quyết” của lí thuyết và phát triển một diễn ngôn nữ giới không thể bị ràng buộc về khái niệm như là thuộc về một truyền thống lí thuyết được thừa nhận (và bởi vậy có lẽ do nam giới tạo ra). Tuy nhiên, những nhà nữ quyền đã bị thu hút bởi những lí thuyết hậu cấu trúc kiểu Lacan và Derrida, có lẽ bởi vì chúng thật sự từ chối xác nhận một quyền lực hay chân lí “nam tính”. Những lí thuyết phân tâm học về những thúc đẩy bản năng đã hữu ích một cách đặc biệt với những nhà phê bình nữ quyền từng cố gắng để phát biểu sự đề kháng lật đổ và dường như vô dạng của vài nhà văn và phê bình nữ đối với những giá trị văn học do giống đực thống trị, mặc dù, một vài nhà nữ quyền đã tìm cách gợi lên những chiến lược khả dĩ về sự đề kháng của giống cái mà không lí thuyết hóa tỉ mỉ.
Simone de Beauvoir, trong tác phẩm Giới tính thứ hai (1949), đã thiết lập rất minh bạch những câu hỏi căn bản của chủ nghĩa nữ quyền hiện đại. Khi một người đàn bà cố gắng để tự định nghĩa, chị bắt đầu bằng cách nói “tôi là một đàn bà”. Không người đàn ông nào sẽ làm như vậy. Sự kiện này bộc lộ tính bất đối xứng cơ bản giữa thuật ngữ “nam tính” và “nữ tính”. Đàn ông định nghĩa nhân tính, chứ không phải đàn bà. Sự mất cân đối này trở lại thời Cựu Ước. Bị phân tán giữa đám đàn ông, đàn bà không có một lịch sử phân li, không có sự đoàn kết tự nhiên; họ không kết hợp như những nhóm bị áp bức khác đã làm. Đàn bà bị siết chặt vào một mối quan hệ chênh lệch với đàn ông. Đàn ông là kẻ Một, đàn bà là kẻ Khác. Sự thống trị của đàn ông củng cố một khí hậu ý hệ về sự phục tùng: “Những nhà lập pháp, giáo sĩ, triết gia, nhà văn và nhà khoa học đã phấn đấu để chỉ ra rằng vị thế phụ thuộc của đàn bà thì được muốn từ trên trời và thuận lợi trên trái đất”. De Beauvoir dùng tài liệu minh chứng lập luận của mình với sự uyên bác. Đàn bà bị tạo thành những kẻ dưới và sự áp bức được phức hợp bởi niềm tin của đàn ông rằng đàn bà những kẻ-dưới-bởi-bản-tính. Quan niệm trừu tượng về “sự bình đẳng” nhận được sự nói đãi bôi, nhưng những đòi hỏi cho sự bình đẳng thực sự sẽ thường bị đề kháng. Chính những người đàn bà, không-phải-những-người-đàn-ông-thuận-tình, thì-ở-trong-vị-trí-tốt-đẹp-nhất để đánh giá những khả năng tồn tại chân thực của nữ giới.
Dường như có năm tiêu điểm chính dính líu trong hầu hết những thảo luận về sự khác biệt giới tính:

Sinh học
Kinh nghiệm
Diễn ngôn
Vô thức
Những điều kiện kinh tế và xã hội
Những lập luận đề cập tới sinh học như nền tảng và giảm nhẹ sự xã hội hóa được sử dụng chủ yếu bởi đàn ông để giữ người đàn bà trong “vị thế” của họ. Tục ngữ có câu “Tota mulier in utero” (Đàn-bà-không-là-gì-ngoài-một-tử-cung) tổng kết cho thái độ này. Nếu cơ thể của một người đàn bà là số mệnh của chị, vậy thì tất cả những toan tính chất vấn những vai trò giới tính được gán cho đập vào mặt với cái trật tự tự nhiên. Mặt khác, một số nhà nữ quyền cấp tiến ngợi ca những thuộc tính sinh học của phụ nữ như những căn nguyên của thế hơn hơn là thế kém. Bất cứ sự tranh luận cực đoan nào về cái bản tính đặc biệt của đàn bà có nguy cơ đáp vào, bởi một tuyến đường khác, cùng vị trí với những nhà cực độ bênh giống đực (sô-vanh). Nguy cơ này cũng đến với những người viện ra kinh nghiệm đặc biệt của đàn bà như căn nguyên của những giá trị nữ giới tích cực trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Lập luận này cho rằng, vì chỉ có đàn bà, đã trải qua những kinh nghiệm đời của phụ nữ một cách chuyên biệt đó (rụng trứng, kinh nguyệt, sinh đẻ), chỉ họ mới có thể nói về cuộc sống của một người đàn bà. Hơn nữa, kinh nghiệm của một người đàn bà, bao gồm một cuộc sống tri giác và cảm xúc khác; đàn bà không nhìn thấy sự vật trong cùng những cung cách như đàn ông, và có những ý tưởng và cảm xúc khác về cái gì là quan trọng hay không quan trọng. Một tuyển tập sớm gồm những bài tiểu luận nữ quyền, “Hình tượng về phụ nữ trong tiểu thuyết” (Images of Women in Fiction) (1972) do Susan Cornillon biên soạn, bị sa lầy trong sự phân tích về nội dung, biện luận rằng hầu hết tiểu thuyết thế kỉ 19 và 20 thì không trung thực đối với kinh nghiệm có thật của đàn bà. Một lối tiếp cận có ảnh hưởng hơn mà Elaine Showalter gọi là “gynocritics” (phê bình nữ) tập trung vào sự đại diện văn học về những sự dị biệt giới tính trong văn viết của phụ nữ. Tiêu điểm thứ ba, diễn ngôn, nhận được nhiều sự chú ý bởi những nhà nữ quyền. “Ngôn ngữ do đàn tạo ra” (Man-Made Language) của Dale Spender, như cái nhan đề gợi ý, cứu xét rằng phụ nữ bị đàn áp một cách nền tảng bởi một ngôn ngữ bị nam giới thống trị. Nếu chúng ta chấp nhận lập luận của Foucault rằng cái gì là “chân thực” phụ thuộc vào người kiểm soát diễn ngôn, vậy thì hợp lí để tin rằng sự ngự trị của đàn ông về diễn ngôn đã đánh bẫy đàn bà bên trong một “chân lí” giống đực. Từ quan điểm này thì tạo nghĩa cho những nhà văn nữ tranh chấp với sự kiểm soát ngôn ngữ của đàn ông hơn là đơn thuần rút vào một cấm khu của diễn ngôn phái nữ. Quan điểm ngược lại được đưa ra bởi nhà ngôn ngữ xã hội học Robin Lakoff người tin rằng ngôn ngữ của phụ nữ thật sự là thấp kém hơn, bởi vì nó chứa đựng những dạng thức về “yếu đuối” và “bất định”, tập trung vào “cái tầm thường”, cái tầm phào, cái không nghiêm túc và nhấn mạnh những đáp ứng cảm xúc cá nhân. Bà lập luận rằng, sự phát ngôn của giống đực, là “mạnh hơn” và phụ nữ nên áp dụng nếu họ muốn đạt được sự bình đẳng xã hội với đàn ông. Hầu hết các nhà nữ quyền cấp tiến có quan điểm rằng phụ nữ đã bị tẩy não bởi loại hệ ý thức phụ quyền này nó tạo ra những khuôn sáo về đàn ông mạnh mẽ và đàn bà yếu đuối. Những lí thuyết phân tâm học của Lacan và Kristeva đã cung cấp một tiêu điểm thứ tư – tiến trình của vô thức. Một vài nhà văn nữ quyền đã đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa sinh học bằng cách kết hợp giống cái với những tiến trình có khuynh hướng phá nền quyền lực của diễn ngôn giống đực. Bất cứ gì khuyến khích hay khởi xướng một trò diễn tự do về những ý nghĩa và ngăn cản “sự khép kín” được xem như là của “giống cái”. Tính dục giống cái là cách mạng, lật đổ, dị chủng và “mở rộng”. Cách xúc tiến này thì ít có nguy cơ bị cấm khu hóa và bị khuôn sáo hóa, bởi vì nó từ chối định nghĩa tính dục giống cái; nếu có một nguyên lí giống cái, đơn giản là nó phải nằm bên ngoài định nghĩa của giống đực về giống cái. Virginia Woolf là nhà phê bình phụ nữ đầu tiên bao gồm cả kích thước xã hội học (tiêu điểm thứ năm) vào phân tích của bà về cách viết của phụ nữ. Kể từ sau đó, những nhà nữ quyền Mác-xít, nói riêng, đã cố gắng để liên hệ những thực trạng kinh tế và xã hội biến đổi với sự cân bằng biến đổi của quyền lực giữa những giới tính. Họ đồng ý với những nhà nữ quyền khác trong việc bác bỏ khái niệm về một nữ tính đại đồng.

Kate Millett và Michèle Barrett: Thuyết nữ quyền chính trị
Những bản viết nữ quyền hiện đại ở Hoa Kì được kích động từ những phong trào dân quyền, hòa bình và những phong trào phản kháng khác. “Chính trị về giới tính”/ Sexual Politics (1969) của Kate Millett đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong bản viết nữ quyền “chính trị” về văn học. Bà sử dụng từ “phụ quyền” (sự cai trị của người cha) để mô tả nguyên nhân của sự áp bức phụ nữ. Chế độ phụ quyền phụ thuộc giống cái vào giống đực hay đối xử giống cái như một giống đực thấp kém hơn. Quyền lực được thi triển trực tiếp hoặc gián tiếp trong đời sống dân sự và gia đình, để chế ngự phụ nữ. Millett lập luận rằng, mặc dù có những tiến bộ về dân chủ, phụ nữ vẫn tiếp tục bị cưỡng chế bởi một hệ thống về khuôn sáo trong vai trò giới tính mà họ bị bắt phải chịu từ buổi đầu thơ ấu. Bà vay mượn từ khoa học xã hội sự khu biệt quan trọng giữa “giới tính” (sex) và “phái tính” (gender). Giới tính bị quyết định về mặt sinh học, nhưng “phái tính” là một khái niệm tâm lí quy chiếu về căn cước tính dục hấp thụ qua văn hóa. Margaret Mead, nhà nhân loại học, đã chỉ ra rằng trong những xã hội phi phương Tây thì những thuộc tính chỉ định cho đàn ông và đàn bà có thể khác nhau rất xa; đàn ông có thể là yêu chuộng hòa bình, còn đàn bà hiếu chiến. Millett và những nhà nữ quyền khác đã công kích những nhà khoa học xã hội xử lí những đặc trưng “giống cái” học tập qua văn hóa (sự thụ động, vân vân) như tự nhiên. Bà thừa nhận rằng đàn bà cũng góp phần như đàn ông kéo dài những thái độ này trong những tạp chí phụ nữ và hệ tư tưởng về gia đình. Trong quan điểm của bà, “những vai trò” giới tính bị kéo dài trong xã hội là mang tính đàn áp. Việc thi triển những vai trò này trong mối quan hệ bất bình đẳng về thống trị và phụ thuộc là điều mà Millett gọi là “Chính trị về giới tính”.
Trong giai đoạn đầu của bản viết nữ quyền hiện đại về văn học (Kate Millett, Germaine Greer, Mary Ellmann) sự nhấn mạnh rất thường là chính trị trong cái nghĩa là những người viết đang diễn đạt những cảm nhận giận dữ về sự bất công và dấn mình vào việc nâng cao nhận thức “chính trị” của phụ nữ về việc họ bị áp bức bởi đàn ông. Đáng ghi nhận là những sự giống nhau giữa loại nữ quyền này và những dạng khác của thuyết chính trị cấp tiến. Đàn bà như một nhóm bị áp bức có thể được và đã được so sánh với những người da đen và với tầng lớp lao động; mặc dù, như Simone de Beauvoir vạch ra, không giống những người da đen, đàn bà không phải là một thiểu số, và không giống như giai cấp vô sản, đàn bà không phải là một sản phẩm của lịch sử. Người ta đã từng nói rằng phạm trù bị áp bức nhất của tất cả là người da đen, tầng lớp lao động và đàn bà. Những lập luận của mỗi nhóm bị áp bức mang những dạng giống nhau: kẻ đàn áp bị xem như nỗ lực một cách ý thức để duy trì sự đàn áp không biết đến bao giờ qua hệ tư tưởng (phân biệt chủng tộc, tư sản hay gia trưởng); mỗi nhóm bảo vệ những thành viên của nó khỏi đại diện sai lạc và rập khuôn trong tiểu thuyết và những phương tiện thông tin đại chúng; và mỗi nhóm dẫn dắt một cuộc đấu tranh “chính trị” để nâng cao sự nhận thức trong những người bị áp bức và để thực hiện một sự thay đổi triệt để trong những mối quan hệ quyền lực giữa người đàn áp và người bị đàn áp. Trong những lí thuyết thô sơ về mặt chính trị này hệ tư tưởng bị giảm trừ thành một khí giới thống trị hoàn toàn một chiều. Với Millett, như Cora Kaplan diễn đạt, “hệ tư tưởng là chiếc dùi cui dương vật phổ quát mà với nó đàn ông của mọi tầng lớp sử dụng để đánh đập đàn bà”. Đàn ông đơn giản phóng chiếu lên đàn bà những thuộc tính của sự yếu đuối và sự khổ dâm. Điều này phớt lờ những tiến trình tâm lí vô thức của sự hình thành phái tính và những động cơ xã hội và kinh tế khách quan hơn về sự áp bức của phụ nữ.
Điều này ảnh hưởng đến văn học như thế nào? Trước hết, chính những giá trị và qui ước văn học hình thành bởi đàn ông, và đàn bà thường tranh đấu để diễn đạt những mối quan tâm của chính họ trong những dạng thức có thể là không thích hợp. Trong văn tự sự, chẳng hạn, những quy ước hình thành về cuộc phiêu lưu và sự đeo đuổi lãng mạn có một khởi động và tính mục đích của “giống đực”. Thứ hai, nhà văn nam đề đạt với độc giả như thể người đọc toàn là đàn ông. Quảng cáo cung cấp những ví dụ song song rành rành trong văn hóa đại chúng. Quảng cáo ti-vi cho một vòi sen điện, trình ra một người phụ nữ khiêu khích buông rơi khăn tắm chỉ quá trễ cho người xem (đàn ông) thoáng thấy cơ thể trần truồng của chị, hiển nhiên loại trừ người xem đàn bà. Tuy nhiên, rõ ràng từ ví dụ này ta thấy rằng cũng có thể đối với người xem đàn bà lại câu kết trong việc loại trừ này và để xem “như một người đàn ông”. Cũng giống như vậy người độc giả nữ có thể bị ép buộc (vô thức) vào trong việc đọc như một người đàn ông. Để chống lại sự nhồi sọ này của độc giả nữ Kate Millett, trong “Chính trị về giới tính” (Sexual Politics), phơi bày những biểu hiện áp bức của giới tính được tìm thấy trong tiểu thuyết đàn ông. Vì làm cận cảnh cố ý cái quan điểm của một độc giả nữ, bà làm nổi bật sự thống trị đàn ông tràn ngập những sự miêu tả giới tính trong những tiểu thuyết của D. H. Lawrence, Henry Miller, Norman Mailer và Jean Genet. Chẳng hạn, bà chỉ trích một đoạn trong tác phẩm Tính dục (Sexus) của Miller (“Tôi tụt xuống quỳ gối và vùi đầu trong mớ lông của cô”, vân vân) và biện luận rằng nó “mang theo giọng… của một người đàn ông thuật lại một chiến tích với một người đàn ông khác trong từ ngữ phái nam với quan điểm của nó”. Bà mô tả những hành động trọng tâm trong Giấc mơ Mĩ (American Dream) của Mailer, trong đó Rojact đầu tiên giết vợ ông và rồi kê gian (sodomy) [làm tình kiểu con gà, tục gọi là lắp đít] với người hầu gái Ruta, như “một cuộc chiến phát động” chống lại phụ nữ “bằng chết chóc và kê gian”. Cuốn sách của Millett cung cấp một sự phê phán đầy quyền lực về văn hóa phụ quyền, nhưng vài nhà nữ quyền tin rằng sự lựa chọn của bà về những tác giả đàn ông thì quá không tiêu biểu, và số khác nghĩ rằng bà không hiểu một cách đầy đủ quyền lực dấy loạn của trí tưởng tượng trong tiểu thuyết. Bà bỏ lỡ, chẳng hạn, bản chất phản thường (deviant) sâu sắc của tác phẩm Nhật kí của kẻ cắp (The Thief’s Journal) của Genet, và chỉ thấy, trong thế giới đồng tính được miêu tả, một hàm ý về sự khuất phục và hạ cấp người đàn bà; sự thống trị và sự lệ thuộc trong những người đồng tính bị cho là chỉ như là phiên bản khác về khuôn mẫu dị tính áp bức. Trong Tù nhân của tính dục (The Prisoner of Sex, 1971) Norman Mailer phóng ra một sự công kích hiếu chiến vào Millett và thường tính ăn điểm chống lại những sự thất bại của bà đối với ngữ cảnh tiểu thuyết của những đoạn đặc thù. Dường như, đối với Millett, những tác giả đàn ông bị ép buộc bởi phái tính của họ để tái sản xuất cái chính trị về giới tính áp bức của thế giới thực trong tiểu thuyết của họ. Cách xúc tiến này sẽ không công bằng, chẳng hạn, đối với cách đối xử của Joyce về tính dục đàn bà. Không chỉ Mailer mà ngay cả vài nhà nữ quyền cũng thấy rằng Millett vì giữ một quan điểm một chiều về sự thống trị của đàn ông; bà đối xử với hệ tư tưởng phân biệt giới tính như một tấm màn tổng quát về sự đàn áp mà tất cả người viết đàn ông chắc chắn đề cao.
Millett và Shulamith Firestone (Biện chứng về tính dục/ The Dialectic of Sex, 1979) quan niệm sự thống trị của đàn ông như sơ cấp và hoàn toàn độc lập với những dạng xã hội và kinh tế khác của sự đàn áp. Mục đích lí thuyết của Firestone là để thay thế giới tính cho giai cấp như yếu tố quyết định lịch sử chính. Chính “cuộc đấu tranh giai cấp” là một sản phẩm của sự tổ chức đơn vị gia đình sinh học. Michèle Barrett đã biện luận rằng khái niệm về “phụ quyền” như được Millett và Firestone sử dụng để gợi ý một sự thống trị phổ quát chẳng với nguồn gốc hoặc biến thiên lịch sử nào. Bằng cách không biết đến sự nối khớp của phụ quyền với chủ nghĩa tư bản, bà biện luận, họ đơn giản hóa quá độ một tiến trình phức tạp. Vài nhân tố phải được liên hệ với nhau. Chúng bao gồm: sự tổ chức kinh tế của những hộ gia đình và kèm theo hệ tư tưởng gia đình của nó; sự phân chia lao động trong hệ thống kinh tế; những hệ thống về giáo dục và nhà nước; những tiến trình văn hóa trong đó đàn ông và đàn bà được thể hiện một cách khác nhau; và bản chất của căn cước phái tính và mối quan hệ giữa tính dục và sản dục sinh học.
Barrett trình ra một sự phân tích nữ quyền Marxist về đại diện phái tính. Trước hết, bà khen ngợi sự biện luận duy vật chủ nghĩa của Virginia Woolf rằng những điều kiện mà dưới chúng đàn ông và đàn bà sản xuất văn học thì khác nhau về vật chất và ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của cái họ viết. Chúng ta không thể tách biệt những câu hỏi về sự khuôn sáo phái tính với những điều kiện vật chất của chúng trong lịch sử. Điều này có nghĩa rằng sự giải phóng sẽ không đến một cách đơn thuần từ những sự thay đổi trong văn hóa. Thứ hai, hệ tư tưởng về phái tính ảnh hưởng cung cách mà những văn bản của đàn ông và đàn bà được đọc và cách những quy điển (canon) kiệt xuất được thiết lập. Thứ ba, những nhà phê bình nữ quyền phải kể đến bản chất hư cấu của những văn bản văn học và không đắm mình trong “luân lí học thịnh hành” bằng cách kết tội toàn bộ tác giả đàn ông vì tất cả sự phân biệt giới tính trong những cuốn sách của họ và tán đồng những tác giả đàn bà vì nêu lên những đề xuất về phái tính. Những văn bản không có những nghĩa cố định: những sự diễn giải phụ thuộc vào tình huống và hệ tư tưởng của người đọc. Tuy nhiên, đàn bà có thể và nên cố gắng để khẳng định sự ảnh hưởng của họ trên cung cách mà ở đó giới tính được định nghĩa và thể hiện một cách văn hóa.
Trong bài giới thiệu cho cuốn “Phê bình nữ quyền và thay đổi xã hội” (Ferminist Criticism and Social Change, 1985) Judith Newman và Deborath Rosenfelt biện luận cho một sự phê bình nữ quyền duy vật chủ nghĩa tránh chủ nghĩa yếu tính bi thảm của những nhà phê bình nữ quyền kia đang phóng chiếu một hình ảnh về đàn bà như bất lực một cách phổ quát và ngoan ngoãn một cách phổ quát. Họ chỉ trích cái họ cho là tính nghĩa đen hẹp hòi của tác phẩm có thế lực “Người đàn bà điên trong rầm thượng” (The Madwoman in the Attic) của Gilbert và Gubar, và đặc biệt là họ sao nhãng về những thực tế xã hội và kinh tế đóng một phần quan trọng trong việc xây dựng vai trò phái tính (xem dưới đây về Gilbert và Gubar). Penny Boumehla, Cora Kaplan và những thành viên của tập thể văn học nữ quyền Marxist đã đưa những văn bản văn học vào phân tích hệ tư tưởng đã được Althusser và Macherey khai triển để hiểu sự hình thành lịch sử của những phạm trù phái tính.

Bản viết phụ nữ và những nhà nữ phê bình
“Một nền văn học riêng của họ” (A Literature of Their Own, 1986) của Elaine Showalter khảo sát những nữ tiểu thuyết gia vương quốc Anh từ thời những chị em nhà Bronte với quan điểm về kinh nghiệm của phụ nữ. Bà đưa ra quan điểm rằng, trong khi không có tính dục đàn bà hay trí tưởng tượng đàn bà cố định hoặc bẩm sinh, nhưng vẫn có một sự khác biệt sâu sắc giữa bản viết của đàn bà với đàn ông, và rằng một truyền thống trọn vẹn về văn viết đã bị sao nhãng bởi những nhà phê bình đàn ông: “Cái lục địa mất đi của truyền thống nữ giới dâng lên giống như đảo Atlantics từ biển của văn học Anh vậy”. Bà phân chia truyền thống này thành ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là giai đoạn “phái nữ” (the feminine phase), 1840-1880, bao gồm Elizabeth Gaskell và George Eliot. Những người viết nữ đã bắt chước và nhập nội những tiêu chuẩn thẩm mĩ đàn ông ưu thế, điều này bắt buộc những người viết nữ vẫn còn là quý bà. Phạm vi chính về công việc của họ đã là vòng gia đình và xã hội trực tiếp của họ. Họ đã chịu đựng tội lỗi về sự dấn thân ích kỉ của họ đối với việc sáng tác và chấp nhận những hạn chế nhất định trong cách biểu hiện, tránh xa sự thô lậu và nhục dục. Tuy nhiên, tôi sẽ biện luận rằng thậm chí George Eliot có phần Thanh giáo cũng xoay xở để ngụ ý nhiều sự nhục dục trong Nhà máy xay lúa trên Lụa Sồi (The Mill on the Floss). Trong bất cứ trường hợp nào, sự thô lậu và nhục dục đã không dễ dàng được chấp nhận trong tiểu thuyết của đàn ông; Tiểu thuyết Cô Tess ở vùng D’Urbervilles (Tess of the D’Urbervilles) gây tranh cãi của Hardy phải dùng đến sự ngụ ý và hình tượng thi ca để truyền đạt tính dục của nhân vật nữ chính.
Giai đoạn “nữ quyền” (the feminist phase), 1880 – 1920, bao gồm những người viết như Elizabeth Robins và Olive Schreiner, phản đối những giá trị của đàn ông. Những nhà nữ quyền cấp tiến của thời kì này đã đề xướng những xã hội không tưởng về kiểu Amazon tách biệt và những kết đoàn phụ nữ đòi quyền bầu cử. Thứ ba, giai đoạn “giống cái” (từ 1920 trở đi) đã thừa hưởng những đặc tính của những giai đoạn trước và đã phát triển ý tưởng về văn viết đàn bà và kinh nghiệm đàn bà chuyên biệt trong giai đoạn về tự khám phá. Rebecca West, Katherine Mansfied và Dorothy Richardson là những nữ tiểu thuyết khởi đầu quan trọng nhất trong giai đoạn “giống cái” này, theo Showalter. Trong cùng giai đoạn mà Joyce và Proust đang viết những tiểu thuyết dài về ý thức chủ quan, tiểu thuyết dài Cuộc hành hương (Pilgrimage) của Richardson đã lấy chủ đề là ý thức phái nữ. Những quan điểm của bà Showalter về bản viết đã tiên đoán được những lí thuyết nữ quyền mới đây. Bà đã ủng hộ một kiểu năng lực âm, một “sự tiếp nhận đa chiều” mà bác bỏ những quan điểm và ý kiến xác định mà bà đã gọi là “những sự việc phái nam”. Showalter viết rằng ‘bà cũng hợp lí hóa cho vấn đề về “những sự tuôn trào chẳng nên hình dạng” của phụ nữ bằng cách vạch ra một lí thuyết mà đã xem sự chẳng nên hình dạng như biểu hiện tự nhiên của đồng cảm phái nữ, và khuôn thức như kí hiệu về tính một chiều của đàn ông’. Bà cố gắng tự giác để tạo ra những câu tỉnh lược và phần mảnh để mà truyền đạt điều bà cứu xét là hình dạng và kết thức của tâm trí đàn bà. Sau Virginia Woolf, một sự chân thực mới về tính dục (ngoại tình, đồng tính nữ, vân vân) đi vào tiểu thuyết của phụ nữ, đặc biệt trong tác phẩm của Jean Rhys. Một thế hệ mới của đàn bà được giáo dục đại học, những người không còn cảm thấy nhu cầu biểu hiện những sự bất bình phái nữ, bao gồm A. S. Byatt, Margaret Drabble, Christine Brooke-Rose và Brigid Brophy. Tuy nhiên, trong những năm đầu thập niên 1970 một sự chuyển hướng về một giọng giận dữ hơn xảy ra trong những tiểu thuyết của Penelope Mortimer, Muriel Spark và Doris Lessing.
Virginia Woolf đã viết nhiều về văn viết của đàn bà và, giống như Richardson, là một người tiên phong quan trọng của phê bình nữ quyền hiện đại. Trong khi bà không bao giờ chấp nhận một thế đứng nữ quyền, nhưng bà liên tiếp xem xét những vấn đề đối diện những người viết nữ. Bà tin rằng phụ nữ đã luôn đương đầu với những trở ngại xã hội và kinh tế đối với những tham vọng văn học của họ. Chính bản thân bà cũng nhận thức rõ về nền giáo dục bị hạn chế mà bà nhận được (bà không được dạy tiếng Hi Lạp, chẳng hạn). Bằng cách áp dụng đạo lí tính dục về “lưỡng tính” (androgyny), của nhóm Bloomsbyry, bà đã chấp nhận việc rút êm đềm khỏi cuộc tranh đấu giữa phân biệt giới tính đàn ông và đàn bà. Bác bỏ một ý thức nữ quyền, bà hi vọng đạt được một sự cân bằng giữa một sự tự thực hiện “nam tính” với sự tự hủy diệt “nữ tính”. Những cơn tấn công lặp đi lặp lại về điên loạn và sự tự sát sau rốt của bà có lẽ gợi ý rằng cuộc tranh đấu để vượt qua tính dục bị thất bại, mặc dù theo phân tâm học chúng có thể cũng được cho là những triệu chứng về sự kháng cự của bà với một nền phụ quyền đàn áp. Bà đã muốn nữ tính của bà là vô thức để mà bà có thể “tránh được cuộc đối đầu với giống cái hay giống đực” (Căn phòng riêng/ A Room of One’s Own). Toril Moi đưa ra một sự diễn giải khác hẳn về quan niệm lưỡng tính của Woolf. Áp dụng sự liên kết của Kristeva giữ nữ quyền với văn viết tiên phong (xem dưới đây) Moi biện luận rằng Woolf thì không chú ý một “sự cân bằng” giữa những mẫu phái nam và phái nữ nhưng trong một sự chuyển chỗ trọn vẹn về những căn cước phái tính cố định, và rằng bà tháo rời những khái niệm bản chất luận về phái tính bằng cách phân tán những quan điểm bền vững trong những tiểu thuyết theo chủ nghĩa hiện đại của bà. Woolf, theo Moi biện luận, đã bác bỏ duy nhất loại nữ quyền mà đơn giản là một chủ nghĩa sô-vanh đàn ông đảo ngược đó. Bà đã chỉ ra nhận thức sâu sắc về sự riêng biệt của văn viết của phụ nữ. Sự tường thuật của bà về Nữ công tước Newcastle lập dị hóm hỉnh lôi cuốn sự chú ý tới sự sáng tạo rất “phái nữ” của một nhà văn nữ thế kỉ 17.
Mặc dù những triết lí của bà thì phù phiếm, và những vở kịch của bà quá quắt, và những câu thơ của bà chủ yếu ngớ ngẩn, nhưng đại bộ tác phẩm của nữ công tước đã lên men vì một mạch nguồn của ngọn lửa đích thực. Người ta chẳng thể không theo đuổi sự cám dỗ của cá tính thất thường và đáng yêu của bà khi nó lan man và lấp lánh từ trang này qua trang khác. Có một điều cao quý, hào hiệp rởm kiểu Dônkixôt và quả cảm, cũng như gàn dở và ngớ ngẩn, về bà ấy.
Virginia Woolf dường như đang nói rằng sự nghiệp “phái nam” ngớ ngẩn của nữ công tước (“đại bộ tác phẩm”) bừng sáng bởi một sự bướng bỉnh “đàn bà” bỡn cợt (“thất thường”, “lan man”). Câu cuối cùng thì bộc lộ một cách đặc biệt: “cao quý và hào hiệp rởm kiểu Dônkixôt” nghe có vẻ như những thuộc tính phái nam, trong khi “gàn dở và ngớ ngẩn” nghe có vẻ phái nữ. Bằng cách kết hợp những hàm ý tương phản, bà chạm tới một kiểu phát tán lưỡng tính của căn cước giới tính cố định.
Tiểu luận có ảnh hưởng và lôi cuốn nhất của bà về những người viết nữ là “Những chuyên ngành cho phụ nữ” (Professions for Women). Bà đã coi sự nghiệp của chính mình như bị cản trở trong hai cách. Trước hết, cũng như nhiều người viết thế kỉ 19, bà bị cầm tù bởi hệ tư tưởng về thân phận phụ nữ. Lí tưởng về “Thiên sứ trong nhà” (the Angel in the House) [thuật ngữ kẻ cả của Coventry Patmore] hô hào phụ nữ nên biết cảm thông, không ích kỉ và trong sạch; để sáng tạo thời gian và không gian cho văn viết, một phụ nữ phải sử dụng những mưu mẹo và sự nịnh nọt đàn bà. Thứ hai, sự cấm kị về diễn đạt dục vọng đàn bà đã ngăn cản bà “nói lên sự thật về những kinh nghiệm của chính cá nhân như một thân thể”. Sự khước từ giới tính đàn bà và vô thức thì chẳng hề được vượt thắng trong tác phẩm hay cuộc sống của bà. Quả thực, bà đã không tin vào một vô thức đàn bà, nhưng đã nghĩ rằng đàn bà viết khác đàn ông không vì họ khác nhau về tâm lí mà bởi vì những kinh nghiệm xã hội của họ khác nhau. Những toan tính của bà để viết về những kinh nghiệm của đàn bà thì có ý thức và nhằm khám phá những cách thức ngôn ngữ của việc miêu tả cuộc sống chật hẹp của phụ nữ. Bà tin rằng cuối cùng tới khi nào đàn bà đạt được sự bình đẳng xã hội và kinh tế với đàn ông, sẽ không còn gì để ngăn cản đàn bà khỏi việc phát triển tự do những tài năng nghệ thuật của họ.
Văn bản nữ giới phê bình sơ kì gây ấn tượng nhất với tôi là cuốn Nghĩ về đàn bà (Thinking about women,1986) của Mary Ellmann. Bà thuộc về giai đoạn “chính trị” sơ kì của chủ nghĩa nữ quyền hiện đại, nhưng báo trước những sự phát triển tinh tế hơn. Luận điểm chính của bà là văn hóa phương Tây thì hoàn toàn tràn ngập bởi cái mà bà gọi là “tư duy bằng sự tương tự giới tính” – một sự áp dụng phổ biến của những khuôn sáo phái tính cho gần như mọi thứ trong vũ trụ bao gồm cả nghệ thuật. Bà tấn công một cách hóm hỉnh vào “phê bình dương vật”, chế nhạo quan niệm phi lí về “Tính nam nhi trong nghệ thuật” của Walter Pater mà ông định nghĩa như một sự kĩ xảo nghệ thuật có ý thức hoàn toàn, một “sự bền bỉ của trực quan và chủ định, tinh thần của cấu trúc như đối lập với cái rõ là không mạch lạc hay sẵn sàng rơi thành mảnh vụn, và sự đối lập với cái cuồng loạn hay những tác phẩm ngẫu nhiên”. Trong chương cuối Ellmann khảo sát những cung cách mà trong đó những người viết nữ đáp lại ngọn trào tràn dâng của văn hóa phụ quyền. Không giống Showalter, Ellmann không có khuynh hướng đồng nhất văn viết đàn bà với kinh nghiệm đàn bà, nhưng tương quan nó với những phong cách văn học nhất định. Bà biện luận rằng, người viết nữ, thường thiết lập một viễn cảnh khác biệt có tính lật đổ bằng cách bào mòn những xác định về sự phán xét và sự cố định của tiêu điểm. Những tiểu thuyết của Ivy Compton Burnett giảm trừ “những quan điểm” xác định thành những nhận xét bên lề, chối bỏ chúng quyền uy của những phán xét phái nam. Mẫu này của văn viết thường sản xuất ra một hiệu ứng về tĩnh thái khôi hài, mà trong đó những phán xét được dự bị và những kết luận không được đẩy tới. Trong quan điểm của bà, không phải mọi người viết nữ đều áp dụng một phong cách văn viết đàn bà; Mary McCarthy viết với quá nhiều quyền uy và Charlotte Bronte với quá nhiều sự dấn thân và say mê nghiêm túc. Ngược lại, sự kiểu cách trong văn phong bào mòn một cách tinh tế đó được coi trọng bởi Ellmann thì đã được tìm thấy trong Oscar Wilde và, người ta có thể cộng, Joe Orton, cả hai thì đều không chính thống về giới tính.
Ellmann lưu ý tới cuốn Hai quý bà nghiêm túc (Two Serious Ladies, 1943) của Jane Bowles, một tiểu thuyết hài kì quái về hai người đàn bà sa sút vào một thế giới thứ cấp của trụy lạc trong khi vẫn duy trì một sự hợp thức lịch thiệp trong cách phát âm và cách ứng xử. Đàn bà ăn mừng trong một cung cách hoàn toàn không tự giác những niềm vui tế nhị về sự độc lập của đàn bà. Cuốn tiểu thuyết này là một khảo sát sơ kì tuyệt vời về sự lật đổ của đàn bà với những giá trị đàn ông. Frieda Copperfield khao khát một khách sạn tiện nghi ở Panama mà bà viếng thăm cùng với chồng mình. Ông ưa thích hơn việc xài tiền vào “những đồ vật” sẽ lâu bền và, khi Frieda không đồng ý, ông cau có:
“Nếu em sắp khốn khổ, chúng ta sẽ đến khách sạn Washington,” ông Copperfield nói. Đột nhiên, ông đánh mất uy thế của mình. Mắt ông đục ngầu và ông bĩu môi. “Nhưng anh sẽ trở nên đáng thương ở đó, anh có thể đảm bảo với em. Nó sẽ trở thành quá buồn chán chết tiệt.” Ông giống như một trẻ nít và bà Copperfield buộc phải dỗ dành ông. Ông có một cái mẹo để khiến bà cảm thấy có trách nhiệm.
Chỉ một tiểu thuyết gia nữ mới có thể dùng sự trả thù độc ác như vậy trên uy thế của đàn ông và “tinh thần xây dựng” của ông ta! Bowles sử dụng những nhân vật chính của mình để khảo sát một ý thức và hệ thống giá trị “đàn bà”. Họ bị thu hút vào cái cấm bởi vì nó thách thức quyền uy đàn ông. Họ tìm kiếm một cách vô tư và vô trách nhiệm niềm hạnh phúc và “sự bình yên bên trong”. Christina Goering bỏ rơi sự khả kính giai cấp thượng lưu của bà và sau cùng trở thành một gái gọi cao cấp ở Panama. Trong tiến trình “suy tàn” của mình bà quan sát những sự phòng thủ và sự mâu thuẫn kì quặc của bọn đàn ông hâm mộ mình. Cha của Arnold, người cạnh tranh khá trắng trợn với con trai để ve vãn Christina, tự nhiên nhắc đến những hi vọng của ông rằng cô ấy sẽ đứng “về phía tôi”. Cô hỏi “Điều này bao hàm những gì?” Ông đáp lại, “nó bao hàm… việc em là một người đàn bà chân chính. Đồng tình và sẵn lòng bảo vệ tất cả những điều anh nói và làm. Đồng thời sẵn sàng mắng nhiếc anh chút xíu thôi”. Sáng hôm sau, ông xuất hiện với một cổ áo không gài và mái tóc rối, cố gắng gạt bỏ những trách nhiệm hôn nhân với một sự vô tư kiểu người Bohêmiêng, và tuyên bố, không nhận thấy những sự bất nhất của ông, “Vẻ đẹp của người nghệ sĩ nằm trong tâm hồn như trẻ thơ.” Trong sự theo đuổi hạnh thánh của cô, Christina cuối cùng tự hỏi câu hỏi của “đàn ông”, “Có khi nào một phần của tôi đã bị che đậy mà tôi nhìn không ra cũng đang mau chồng chất tội lỗi như bà Copperfield không?” Người tường thuật điềm tĩnh kết luận: “Cô Goering nghĩ cái khả năng sau này thật đáng quan tâm nhưng chẳng có gì quan trọng.”
Hai quý bà nghiêm túc (Two Serious Ladies) chỉ hướng về một phê bình nữ quyền vượt quá những cuộc luận chiến nghiêm khắc của Kate Millett và tuy vậy vẫn xói mòn một cách tinh tế tất cả những giá trị và khuôn sáo “đàn ông”. Chẳng hạn, bà Copperfield tuyên bố “Tôi luôn là một người sùng bái thân thể… nhưng điều đó không có nghĩa rằng tôi phải lòng những người có thân thể đẹp. Vài thân thể tôi thích thì kinh khủng.” Ở đây điều đàn ông có thể coi như tính bất thường của đàn bà là được chuyển dịch âm thầm thành sự khác biệt của đàn bà làm ta sáng mắt.
Trong cuốn Người đàn bà điên trong rầm thượng (The Madwoman in the Attic, 1979) Sandra Gilbert và Susan Gubar biện luận rằng những người viết nữ chủ chốt kể từ Jane Austen đã đạt được một tiếng nói đàn bà khu biệt bằng cách “cùng một lúc tuân thủ và phá vỡ những chuẩn mực văn học phụ quyền”. Những khuôn mẫu đàn bà về “thiên sứ” và “quái vật” (người đàn bà điên) đồng thời được chấp nhận và giải cấu trúc. Tuy nhiên, như Mary Jacobus đã vạch ra, Gilbert và Gubar có khuynh hướng giới hạn tự do của những người viết nữ bằng cách xây dựng họ như “những nạn nhân có tài ăn nói khác thường của một cốt truyện do phụ quyền gây ra”. Một quan điểm triệt để hơn về sự khác biệt của đàn bà được mở ra bởi phân tâm học hiện đại.

Hồ Thị Dương Liễu dịch
Nguyễn Tiến Văn hiệu đính

________________
(*) – Trích trong chương 6 cuốn sách Độc bản hướng dẫn lí thuyết văn học đương đại (A Reader’s Guide to Contemporary Literary Theory), Nxb Đại học Kentucky (The University Press of Kentucky), 1989.

Nguồn: Tạp chí Sông Hương.