GS Đặng Phùng Quân (sinh năm 1930), nguyên quán Thái Bình, từng giảng dạy môn Triết tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, là nhà nghiên cứu văn chương, triết học có uy tín. Đối với Đặng Phùng Quân, triết học là một hành động trong khi viết bởi vì từ viết, từ văn bản, tư tưởng sẽ được cấu trúc nên. Đã có lúc Đặng Phùng Quân tự hỏi: triết học có thể như văn chương nghệ thuật không?. Rồi chính ông tự trả lời: không, nó không hấp dẫn giác quan con người để ngấu nghiến hưởng thụ. Nó có thể là độc dược, là thuốc phiện và cần phải có một hành cung tri thức để tiếp cận.
Một số tác phẩm tiêu biểu của Đặng Phùng Quân: Hiện hữu tha nhân với G. Marcel (1969); Triết học và văn chương (1974); Hành trạng tư tưởng giữa hai thế kỉ (2002); Tấu khúc văn chương/ triết lí (2004); Từ điển triết học giản yếu và Triết học nào cho thế kỉ XXI (2010).
Thưa GS Đặng Phùng Quân. Là một người kiên trì xác lập và xây dựng hệ thống lý thuyết mỹ học và lý luận văn học đi từ Triết học và Văn chương, tới Hành trạng tư tưởng giữa hai thế kỷ, Tẩu khúc văn chương/ triết lý…và gần đây nhất (2012) là cuốn Đường vào văn chương: phê bình lý trí văn chương…, qua “hành trạng ấy” của tư tưởng mà Giáo sư thể nghiệm trong các văn bản của mình, cho thấy dấu ấn của triết học trong quan hệ với văn chương là rất rõ. Phải chăng, ông đang xây dựng cho mình một hệ hình triết học văn chương? Với tầm quan trọng của triết học, đặc biệt là trong kỷ nguyên khủng hoảng của đời sống số hóa, phải chăng, theo Giáo sư, văn học cần hướng trọng tâm vào suy nghiệm hơn là giải thích những vận động của đời sống xã hội?
Chắc chắn là có một triết học của văn chương, như đã có triết học của sử học, của sinh vật học v.v…tuy nhiên mối quan hệ giữa triết học và văn chương khá phức tạp, như tôi đã chỉ ra “sự khác biệt giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ triết học trong việc diễn đạt kinh nghiệm vũ trụ được tri giác nơi con người” khi xét đến mối quan hệ này ngay từ quyển sách “Triết học và Văn chương” xuất bản năm 1974. Kể từ đó trong những quyển sách kế tiếp, tôi đã phác họa quá trình tiến triển của triết học và văn chương trong suốt một thế kỷ qua. Về mặt triết học, chủ nghĩa chống nhân bản như một tuyên ngôn của tư trào triết học nổi lên chung quanh thập niên 60 dưới một hình thái mới mệnh danh là cấu trúc luận bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau (nhân học, phân tâm học, phê bình văn học v.v..). Triết học trong thời kỳ này là triết học khái niệm thay thế cho triết học ý thức để đi tới một học thuyết về khoa học, sáng tạo ra những khái niệm mới. Về mặt văn học, sự xuất hiện của phong trào “Tiểu thuyết mới/Nouveau Roman” ở Pháp, phong trào “Tiểu thuyết thực nghiệm/ Experimental Novels” ở Mỹ, luận điểm về “cái chết của tác giả” trong phê bình văn học mới, thuyết huỷ tạo/ Deconstruction của Jacques Derrida xâm nhập văn học Mỹ. Một nét đặc thù của thế kỷ XX là phê bình luận văn chương trở thành một khoa học; nhà phê bình phải trang bị những kiến thức triết học và ngữ học.
Trong quyển sách “Đường vào văn chương” vừa mới xuất bản, tiêu đề là: phê bình lý trí văn chương. Tại sao lại gọi là “phê bình lý trí văn chương”? Khi đặt vấn đề phê bình lý trí, đã có nhiều tác giả trên thế giới, tuỳ vào quan điểm của mỗi người, trình bày lý trí dưới góc cạnh lý trí sử, lý trí biện chứng, lý trí thơ, lý trí phân tâm học, lý trí hiện tượng học, lý trí chính trị v.v…Đương nhiên phải kể Kant là nhà triết học đã mở ra con đường phê bình lý trí thuần tuý, nghĩa là đi tìm phương pháp mới của tư tưởng, ngõ hầu nhận ra những thành tố của lý trí thuần tuý. Mục đích của Kant là đi tìm khả năng tri thức của con người mang tính tổng hợp, song lại có tính tiên nghiệm. Nhưng, tại sao lại gọi là “phê bình”, chính vì không phải chỉ đi tìm cơ sở cho một khoa học trong triết học, quen gọi là siêu hình học, vì đó là một khoa nghiên cứu đối tượng là cái gì vượt lên trên cái thường nghiệm thuộc về vật lý, mà còn định giới hạn khả năng của tri thức siêu nghiệm này. Phê bình lý trí văn chương cũng vậy, không phải chỉ tìm xem văn chương như thể một khoa học ở những mặt lập thành của nó, mà còn tìm hiểu thế nào là ý thức văn chương để xác định một khoa học văn chương, khả năng sáng tạo ra tác phẩm văn chương.
Có nhiều mái nhà trong tư tưởng của con người. Thế giới đa biệt ngày nay chứng tỏ: chúng ta không sống cùng dưới mái nhà, nhưng sống trong nhiều căn nhà, điều quan hệ là không phải những “ốc đảo cô lập”. Mọi căn nhà đều tọa lạc trên cùng một nền: trái đất. Trái đất chúng ta như một sinh giới, thế giới của đời sống, cho nhân loại sống thành cộng đồng và ở đó, con người có thể thoả hiệp trong một niềm thông cảm về mọi sự vật trên đời này.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX cho đến thập niên đầu thế kỷ XX, sự bùng phát của khoa học thực nghiệm đã kéo theo sự bùng phát của các lý thuyết khoa học. Những lý thuyết ấy, dường như có sự “tranh giành” lẫn nhau về mức độ ảnh hưởng của nó trong việc giải mã những vấn đề của khoa học nói chung và khoa học xã hội nói riêng, trong đó có văn chương. Tuy nhiên có một nghịch lý là, đáng ra, lý thuyết nhiều thì thực tiễn đánh giá văn chương – nghệ thuật cũng phải được nâng lên về giá trị theo tỉ lệ luận, song thực trạng phê bình văn học dường như đi ngược lại với thang bậc ảnh hướng ấy. Phê bình, giải mã đời sống thẩm mỹ của văn học nghệ thuật hiện đại dường như thiên về lý trí hơn là mô tả cảm xúc tiên nghiệm của chủ thể trước văn bản – tác phẩm. Ông đánh giá như thế nào về điều này?
Khủng hoảng của phê bình văn học có thể đánh dấu qua những tranh biện về biên giới giữa hiện đại và hậu hiện đại, phê bình cũ và mới là một hiện tượng bình thường trong quá trình chuyển biến tri thức. Ngay trong nhưng cuộc bút chiến biểu hiện sự xung đột giữa phê bình cổ điển và phê bình mới, giữa phê bình nhà trường và phê bình phi hàn lâm, giữa phê bình khuôn mẫu điển hình và phê bình sáng tạo thường đi vào bế tắc nếu như không đi tìm bản chất của phê bình. Từ một trường hợp phê bình theo huỷ tạo một giai đoạn trở thành phong trào, tôi đưa ra nhận xét trong việc đặt vấn đề “cơ sở phê bình luận vị lai” là: khi đi tìm hiểu thuyết huỷ tạo là một trong những lý luận phê bình chủ đạo của nửa sau thế kỷ hai mươi, không thể không đặt mối quan hệ giữa văn chương và triết lý. Có phải những nhà phê bình văn chương thường bị triết học bức xúc phần nào vì bị từ khước những lạc thú văn chương (như vận động cảm tính của ngôn ngữ, những sự cố của hài kịch, thăng giảm của thuyết thoại [tự sự]) để nhường bước cho những trừu tượng của tư duy thuần tuý, những tiến triển của luận lý khô khan? Có phải trên quy mô rộng lớn của sự vật, thực tiễn văn chương chỉ tô điểm hương vị cho miếng thực phẩm vĩ đại là công trình triết lý? Trong viễn tượng đàn áp đó, lý luận huỷ tạo của Derrida đã xây dựng một cơ sở phong phú cho thực hành văn chương.
Mấy năm sau, nhân có người đưa ra một luận cứ rất giáo điều chung quanh quyển sách “Phê phán phê bình luận văn học” của Tzvetan Todorov [nguyên tác tiếng Pháp là “Critique de la critique”] tôi nêu “mấy tiêu chí để tiếp cận lý luận văn học hiện đại”, trong đó nhận xét tại sao Todorov quan niệm văn chương khởi sinh từ một đối lập với ngôn ngữ thực dụng, văn chương là một diễn ngôn tự nó có thẩm quyền – từ cuộc cách mạng văn học của chủ nghĩa lãng mạn đến cuộc cách mạng của chủ nghĩa hình thái chỉ ra “dân chủ thay thế cho hệ thống đẳng cấp”, “phục tùng nhường chỗ cho bình đẳng”. Trong bài viết nói trên, tôi kết luận “vượt qua biên giới kiềm tỏa của chính trị và lạc hậu, những lý luận văn học [hiện đại] nhập cuộc với tiến bộ của khoa học xã hội hiện đại để nhập vào giòng đối thoại chung của con người, từ tiếng nói của con người trong hoàn cảnh đời sống hàng ngày đến những điều kiện thủ đắc của tác gia viết lên tác phẩm văn chương.
Phê bình lý trí văn chương phải chăng là dự án phác thảo phê phán hệ hình tư tưởng phê bình văn học thế kỷ XX và thập niên đầu XXI, khi quá đề cao logic diễn giải hơn là tìm về bản chất của văn chương là siêu hình học? Ông đánh giá như thế nào về vai trò cảm thụ thẩm mỹ và mô tả hiện tượng học văn học trong khuynh hướng duy lý trí của lý thuyết phê bình văn học thế kỷ XX?
Khẳng định hay phủ nhận khoa học văn chương, hay đặt vấn đề về tính khoa học hay tính văn chương, thực sự cũng là trở về với câu hỏi: phê bình lý trí văn chương có khả hữu?
Vấn đề của văn chương đặt ra những tranh luận liên quan đến thực và giả, chẳng hạn một tác phẩm văn chương là tiểu thuyết, cái gì thuộc về thực (sự kiện), cái gì là ảo giả (như ý niệm, nhân vật v.v…)?
Phạm vi của văn chương xác định giá trị của tác phẩm văn chương: nếu không có bảng thang giá trị mỹ học, không phân biệt được nghệ thuật hay, dở, ấu trĩ hay trưởng thành.Song tiêu chuẩn đó như thế nào? Có phụ thuộc vào thời gian? Vào cảm quan? Chẳng hạn, có những tiểu thuyết được đón nhận sôi nổi lúc mới xuất hiện song không được nói đến nữa theo thời gian, một nhà phê bình Đức gọi đó là một nhậy cảm văn chương, một nhà phê bình Pháp nói đến kinh nghiệm văn chương là một kinh nghiệm toàn diện.
Lấy một ví dụ khác, như quyển sách in ra trên giấy, với quyển sách ảo, Ebook, liệu quyển sách in có thể tồn tại, hay phải nhường bước cho Ebook? Hỏi như vậy, phải chăng lẫn lộn giữa phương tiện sản xuất văn hoá với phương thức sản xuất văn hoá?
Trong khi phê bình lý trí văn chương, chúng ta sẽ quay trở về với vấn đề nền tảng của nhận thức luận văn học là siêu hình học trong vai trò cá nhân tính (metaphysics of individuality – như cách nói của H. Gadamer). Vậy có lý nào, chúng ta đang qua trở lại khám phá bản chất tiên nghiệm của chủ thể sáng tạo văn học và chủ thể phê bình văn học? Và phải chăng, một lần nữa chúng ta cần thiết phải trở về với mái nhà xưa của Hiện tượng học trong nhận thức luận văn học?
Tôi nghĩ đến hiện tượng học như một đóng góp lớn lao trong lĩnh vực phê bình lý trí hiện đại trong “Đường vào văn chương”. Tôi đã đề cập trong sách, cuộc tranh biện giữa người học trò của Husserl là Roman Ingarden, người Ba lan với Käte Hamburger, đến học thuyết mỹ học văn chương của nhà hiện tượng luận Mikel Dufrenne người Pháp, đến lý luận về tầng bên trong những đối tượng mỹ học của Nicolai Hartmann và sự khác biệt với lý luận của Ingarden chỉ ra phân chia hữu thể luận giữa giá trị nghệ thuật của tác phẩm với giá trị mỹ học của đối tượng liên hệ tới tri giác, hay giá trị mỹ học của tác phẩm chỉ đắc thủ với người nào tri giác giá trị nghệ thuật trong biểu hiện mỹ học, phương cách nào có khả năng hơn? Điều đó chỉ đề ra chọn lựa, khi chúng ta nói về hữu thể luận văn chương.
Tôi đặc biệt quan tâm đến phần cuối của Đường vào văn chương: Phê bình lý trí văn chương, khi GS đi tìm hiểu bản chất mối quan hệ giữa mỹ học và văn chương, trong đó có đoạn: “Mỹ học và văn chương là hai khoa học phân biệt song có một điểm chung đó là thuộc về cảm tính”, phải chăng, phê bình lí trí văn chương, xét đến cùng là để trở về với điểm chung “cảm tính” này? Phê bình lý trí văn chương, theo GS phải chăng là “sự khiêu khích” với chủ nghĩa duy vật luận trong văn học, “khiêu khích” với Chủ nghĩa hiện đại (Chủ nghĩa duy lý) để trở về với siêu hình học truyền thống và trực giác luận?
Mối quan hệ giữa mỹ học và văn chương thực sự chỉ đặt ra trong chương II của Phê bình lý trí văn chương, và tới chương XI của tập Hai sẽ xuất bản mới luận về mỹ học văn chương, cho nên tôi có nhắc nhở là từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cứu thảo luận về mỹ học không phân liệt rõ đâu là ranh giới của mỹ học nói chung và mỹ học văn chương nói riêng, cho nên trong việc đi tìm cơ sở phê bình lý trí văn chương ở đây, xác định khu biệt giữa hai phạm vi để tới cuối đường khai phá, có thể hình thành một hữu thể luận văn chương. Tôi có dẫn ra một ví dụ của một nhà triết học phân tích, Urmson để cho thấy cái đẹp của một quyển tiểu thuyết [như Chiến tranh và Hoà bình của L. Tolstoi] với cái hay không hẳn đồng nhất, cái hay của tiểu thuyết ở đây thuộc về đạo lý, tư tưởng song chưa hẳn được coi là đẹp về mặt mỹ học. Tôi có thể gợi ý ở đây, như Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là một ví dụ khác về hay và đẹp, chẳng hạn.
Trong bài viết về “mấy tiêu chí để tiếp cận lý luận văn học hiện đại”, tôi có nêu ra tính tự trị của chức năng nghệ thuật, không phải tính thoát ly của nghệ thuật, nguyên lý đối thoại có tầm nhìn lịch sử, đáp ứng từ lý luận cổ đại đến hiện đại, nên nghiên cứu văn chương muốn trở thành khoa học, phải để ý đến chiều thứ ba thay vì chỉ nhìn mọi sự trên một mặt phẳng. Cho nên như thông diễn học thường được nói nhiều đến ngày nay, vì nó phục hồi tính chủ thể, song điều đó không có nghĩa là phủ nhận tính liên chủ thể, ở thời đại kỹ thuật khoa học này, còn nói đến liên bản, thay vì chỉ có đơn bản. Cho nên sự khủng hoảng của tri thức cũng là cảnh báo về sự trấn áp giáo điều. Có thể người đọc cũng nhận thấy, đưa ra một đường hướng phê bình lý trí văn chương cũng có nghĩa là đang bảo vệ sự tồn tại của văn chương, trả lời cho câu hỏi: tại sao lại phải quan trọng/ có vấn đề văn chương [what literature matters?]
Xin trân trọng cám ơn Giáo sư về sự trao đổi thú vị này!
Ngô Hương Giang thực hiện
Nguồn: Vannghetre