Trời xanh quen thói má hồng
đánh ghen”
(Truyện Kiều)

Minh họa: Nhím

1.

Đêm Thuận Hóa, trời đầy sao và giá buốt!

Đã hai đêm ròng, Chúa Hiền(1) không thể chợp mắt vì bức mật thư của người cô ở Vương quốc Chân Lạp gửi hỏa tốc xin viện binh cứu đất nước chồng. Chúa Hiền đắn đo suy nghĩ: Ta đang trong thế giằng co mãnh liệt với quân Chúa Trịnh ở mạn Lam Giang, Tuần Lễ và Nghi Xuân(2). Nếu, rút một phần binh mã vào đất Chân Lạp lúc nầy, khác chi ta tạo thế ‘’Lưỡng đầu thọ địch’’ hoàn toàn có lợi cho quân Trịnh. Bằng không, công nữ Ngọc Vạn và bao người Việt lưu dân sẽ bị chúng tàn sát?

Sống thời chinh chiến, Chúa Hiền hiểu cái lẽ thường tình: ‘’Lấy súng gươm làm bầu bạn, lấy vó ngựa sa trường làm niềm vui’’ giữ gìn biên cương, mở mang bờ cõi. Sương khuya mờ phương Nam. Nơi đó, từng phút giây người thân và đồng bào của Chúa đang ngóng chờ và hy vọng đoàn quân cứu mạng đến từ quê nhà!

Chúa ngập ngừng và nhớ lại:

Ngày trước, có lẽ Sãi Vương(3) theo dấu người xưa, gả con để củng cố giao hảo, giữ phiên giậu biên thùy, như Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân hoặc giả ở Trung Hoa, nhà Đường đưa công chúa Văn Thành sang làm dâu xứ Tây Tạng. Thời nhà Hán, nàng Vương Chiêu Quân đi cống Hồ nên Sãi Vương nuốt lệ rứt núm ruột mình giao cho người nơi đất khách.

Vì đất nước, vì miếng cơm manh áo cho dân lành, công nữ Ngọc Vạn vâng lời cha lặng lẽ bước xuống thuyền hoa… Và, công nữ Ngọc Vạn làm được điều mà bao đấng nam nhi chắc gì làm được. Đó là, vua Chey Chetta 2 xác lập và cho phép người Việt được tự do đến đất Chân Lạp khẩn hoang, xây dựng làng xóm ở Mỗi-xuy Bà Rịa.

Nghĩ đến đó, chúa Hiền thấy mình có trọng trách đối với dân, đối với công nữ Ngọc Vạn, chúa chẳng thể vì sự an nguy riêng mình mà làm ngơ. Việc cứu binh như cứu lửa!

Trên điếm canh vọng đài, tiếng kẻng buông từng tiếng theo tiếng vạc kêu sương bay về trời rựng sáng!

2.

Nhận mật lệnh chúa Hiền, ba ngàn tinh binh đồn trú tại Phú Yên – Khánh Hòa dưới quyền chỉ huy Nguyễn Phúc Yến(4) hành quân thần tốc vào đất Chân Lạp. Nặc Ong Chân đem quân thủy bộ ngăn chặn quân Nguyễn ở Mỗi-xuy Bà Rịa. Một trận thư hùng đã xảy ra, Nặc Ong Chân(5) bị giết và đám tàn binh Chân Lạp tan rã, quy hàng. Đất nước Chân Lạp thoát khỏi thời kỳ đen tối, dân Việt và công nữ Ngọc Vạn được bình an.

*

Sau tám năm mặn nồng ân ái, bà sinh cho vua Chey Chetta 2 một hoàng tử và một công chúa(6) mang hai dòng máu Việt – Chân Lạp cực kỳ thông minh và khôi ngô. Tưởng rằng hạnh phúc đang mỉm cười chẳng những cho riêng mình, mà còn cho thần dân Việt ngày đêm đổ mồ hôi, sôi nước mắt trên đường cày luống đất vỡ hoang; nào ngờ nửa chừng bà đứt gánh: Vua Chey Chetta 2 băng hà – Chồng chết! Và rồi, người vợ trẻ với hai đứa con nhỏ dại, côi cút sống giữa hoàng cung hừng hực lửa tranh ngôi thay chủ. Bà định đưa con về quê ngoại theo tập quán người Việt: ‘’Tiến về nội, thối về ngoại’’ nhưng, bà không thể cưỡng lại tập tục và qui định của triều đình Chân Lạp. Vả lại, nếu bà chỉ lo riêng mình thì ai lo cho những người Việt lưu dân trên đất khách? Muôn dân là hệ trọng. Cha bà đã nhắc nhớ bà lúc chia tay và bà cũng thấy điều đó là hệ trọng. Đi lấy chồng không vì hạnh phúc riêng bà mà vì, muôn dân đi mở đất!

Bà hiểu rằng, khi bước xuống thuyền hoa về quê chồng xứ Chân Lạp là bà chấp nhận làm chất keo kết dính tình nghĩa Việt – Chân, là bà có bổn phận góp phần cùng chồng đẩy lùi thế lực Xiêm La xâm lấn giang sơn gấm vóc nhà chồng(7). Nhưng, con tạo lá lay trêu cợt tấm chơn tình của bà, gây nỗi thống khổ đứt ruột xé lòng!

Hai đứa con yêu dấu của bà không thể sống dưới những nhát gươm bạo lực, tranh quyền cắt lìa huyết thống. Bà khóc chồng rồi lại khóc con, khóc cho sông núi quê chồng chìm trong máu, báo hiệu sự suy tàn!

Nhiều đêm trăng hoàng cung nhả từng sợi tơ lòng buộc ràng tâm hồn cô quạnh của bà, như nhắc nhớ bà ở lại để che chở và truyền lửa tin vào trái tim người Việt. Vắng bà, họ tránh sao khỏi xao động và khó khăn với người bản địa?

Tóc bà muối sương trên một đất nước đầy biến động!

3.

Xót thương bà, dân Việt không muốn bà gửi nắm xương tàn nơi quê người. Bà thì nghĩ khác, đây là quê chồng chớ đâu là quê người. Đã theo chồng, người vợ tự mình cắt đường quay lại.

Mơ ước và trông đợi bà vượt đường thiên lý quay về cố hương đã trở thành truyền thuyết trong dân gian, rằng: Bà trở lại đất Việt, sống trong vùng cai quản của Nặc Ong Nộn nơi gò Cây Mai. Sau đó, bà đi tu và dựng chùa Gia Lào trên núi Chứa Chan, xứ Đồng Nai (?!). Có người còn bảo: Mộ bà chôn cất ở chùa Kim Cang thuộc dòng Lâm Tế ở đất Vĩnh Cửu, Đồng Nai (?!). Thiệt hư, đời sau chưa làm sáng tỏ!

Công nữ Ngọc Vạn lá ngọc cành vàng của nhà Nguyễn, vì nghĩa lớn sẵn lòng bỏ lầu son gác tía ra đi ‘’thân gái dặm trường’’ để giúp lưu dân có đất khẩn hoang, giúp nước thêm bờ rộng cõi. Hậu thế bao nỡ quên ơn, kẻ hậu sinh bao nỡ hững hờ bạc bẽo?

——————-
(1) Nguyễn Phúc Tần (1620 – 1687).
(2) 1658 – 1660 (Theo Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim).
(3) Nguyễn Phúc Nguyên (1563 – 1635).
(4) Nguyễn Phúc Yến, Trấn thủ dinh Phú Yên – Khánh Hòa cùng Cai đội Xuân Thắng, Tham mưu Minh Lộc.
(5) Chant con thứ 3 của vua Chey Chetta 2, mẹ người Lào, vợ người Mã Lai. Chant được thế lực người Chiêm, đặc biệt người Mã Lai ủng hộ nổi loạn giết Prea Outey (phụ chính) và Ang Non 1, cướp ngôi vua xưng là Nặc Ong Chân cai trị Chân Lạp từ 1642 đến 1759.
(6) Hoàng tử Chau Ponhéa To, công chúa Néang Nhéa Ksattrey.
(7) “Vua Chân Lạp Chey Chetta2 muốn tìm một đối lực để chống lại lân bang Xiêm La nguy hiểm kia, đã xin cưới công nữ của chúa Nguyễn làm hoàng hậu, trông mong được sự ủng hộ của triều đình Thuận Hóa…’’ (Việt sử Đàng Trong, Phan Khoang).

Trần Bảo Định – Tạp chí sông Hương

Exit mobile version