Nếu lấy mốc Đổi mới (1986), sẽ là rất tự làm khó khi lựa chọn một góc nhìn hạn hẹp như thế này vào sự phát triển đa dạng và phong phú của truyện ngắn Việt Nam đương đại: những làn sóng và đỉnh sóng của truyện ngắn từ ngày hai tiếng Đổi Mới được xướng lên. Tất nhiên, đã không bắt đầu ngay tức khắc chỉ từ việc một từ tiếng Việt thân quen giờ đây bất ngờ được cấp cho ý nghĩa cách mạng của một cuộc chuyển dạ lớn lao, một bước ngoặt văn hóa làm thay đổi số phận của cả một dân tộc, đổi mới manh nha từ trước đó, và sau đó là những vật lộn để đổi mới có thể thành tựu. Đổi mới trong văn học cũng vậy. Nó cũng không chỉ bắt đầu từ cái ngày mà hai tiếng Cởi Trói được xướng lên. Và cái từ quen thuộc ấy cũng không thể ngờ hết việc không khí đổi mới đã thổi bùng biên độ nghĩa của nó, cấp cho nó nội hàm về khát vọng muôn đời của văn nghệ sĩ: tự do và trách nhiệm trong sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ đã nhanh chóng lĩnh xướng cho cả một tư trào có ý nghĩa xã hội lớn lao ấy. Thời đại cật vấn lương tâm và trách nhiệm của người nghệ sĩ. Thời đại cũng mời mọc, thúc giục nhà văn dấn thân vào cuộc đời và cuộc viết. Tác phẩm của họ, theo đó, hiện lên như một sự tham dự sâu sát vào quá trình định hình diện mạo thời đại.

Thử hình dung cách nhìn cho một hình dung tóm gọn nhưng bao chứa tham vọng lột hiện sinh động và đầy đủ, về đời sống của truyện ngắn, và về đời sống của văn học Việt Nam hôm nay, bằng việc cân nhắc để đảm bảo ba tiêu chí: thời gian, nhà văn và tác phẩm xuất hiện trong thời gian ấy. Vậy điều gì có thể đem ra làm quy chiếu chung cho một lựa chọn như thế? Tại sao lại là tác giả này chứ không phải tác giả kia? Là tác phẩm đó chứ không phải tác phẩm nọ? Theo đó, như một thao tác bắt buộc, các tác giả và tác phẩm được nhìn nhận dựa trên sự cân nhắc đồng thời ba yếu tố: 1/ dư luận bạn đọc khi tác phẩm ra đời, 2/ thành tựu của nhà văn đối với thể loại và với văn học giai đoạn, và 3/ phong cách nghệ thuật tác giả. Đến đây, câu chuyện vẫn không thể trở nên giản đơn hơn bởi số lượng quá lớn của các tác giả và tác phẩm, nhất là sự phức tạp trong quá trình sáng tác của nhiều nhà văn gạo cội. Các phương án khác nhau được đặt ra. Chẳng hạn, chỉ để trả lời những câu hỏi rất thông thường nhưng đáp án nào đưa ra cũng rất khó lòng tạo được sức nặng thuyết phục: Có hay không những nhà văn đã thành danh từ trước nay “lột xác” để tỏa rạng những sắc màu nghệ thuật lung linh mới? Thậm chí, tiểu tiết hơn, Nguyễn Huy Thiệp hay Phạm Thị Hoài sẽ giữ một vị trí thế nào trong bảng tổng sắp này? Và nữa, sẽ cân đối ra sao giữa những giai đoạn phát triển khác nhau của thể loại, của các thế hệ những người cầm bút?

Như chúng ta đều biết, nhìn vào văn học Việt Nam từ Đổi mới, có thể nhận thấy ba “làn sóng” của sự vận động và phát triển: nửa sau thập niên 80, thập niên 90 của thế kỷ XX và thập niên đầu của thế kỷ XXI. Làn sóng thứ nhất là những nhà văn từ trong nền văn học lãng mạn cách mạng tự làm mới mình để thích ứng với đời sống thế sự đời tư nhiều đớn đau dằn vặt, những nhà văn đã sống trải trước và trong bước ngoặt Đổi mới như những người chứng cho một sự sinh thành mới mẻ, dù phần nhiều trong số họ là những người trực tiếp làm nên bước ngoặt Đổi mới. Làn sóng thứ hai và thứ ba là những nhà văn sống trong tâm thức Đổi mới. Họ là thành quả thực sự của Đổi mới, sinh ra từ trong Đổi mới và sáng tác trong khí quyển mà Đổi mới mang lại. Nhìn từ ba làn sóng ấy, với truyện ngắn, có hay không, qua thế hệ những nhà văn này, ta có thể tìm ra được chủ âm của văn học thời đổi mới và của sự đổi mới văn học. Tức điều gì đó làm cho văn học sau Đổi mới khác với văn học trước đó, và giả sử nếu văn học lúc này được cắt khúc, đặt riêng ra một chỗ, thì điều gì sẽ cố kết nó, cung cấp cho nó một diện mạo, một vài đặc trưng, để nó trở thành nó và có thể phân biệt với các khúc đoạn khác. Một góc nhìn văn học đương đại từ truyện ngắn luôn thường trực những cân nhắc này.

Theo đó, bây giờ, trên hành trình đến với những tác giả và tác phẩm được chọn lựa, hãy thử bắt đầu từ câu hỏi về Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, một câu hỏi chắc sẽ vẫn còn nhiều ám ảnh. Vì, sự thực là, nhắc đến văn học thời đổi mới không thể không nhắc đến họ. Mỗi cách mỗi kiểu, họ đều đã trở thành cô sơn dựng lên như bình biên của trước và sau Đổi mới. Sừng sững ở đấy tạo đà cho sự lan xa của cả một dãy núi tít tắp về phía chân trời. Bởi chảy trong nguồn mạch của nó, có dung nham của cả hai nửa của cùng một quá trình văn học mà Đổi mới vừa kịp tạo thành một đứt gẫy. Nguyễn Huy Thiệp đã không thể là Nguyễn Huy Thiệp của “khi ông tướng về hưu xuất hiện” nếu trước đấy không từng nghiền ngẫm đến dằn vặt, đau đớn về lịch sử dân tộc và những cách thức diễn giải lịch sử dân tộc. Phạm Thị Hoài đã không thể là Phạm Thị Hoài của “đứa trẻ trong thành phố” đam mê những trò chơi ngôn ngữ “vô tăm tích” nếu trước đấy không phải dùi mài, vật lộn với xác chết của các từ ngữ nội ngoại nơi những trang sách chất chồng trong thư viện. Đúng là đã có một trạng thái, một tình cảnh thúc giục nhà văn đổi mới từ trước Đổi mới, thảng hoặc trong những suy tư của Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến hay Nguyên Ngọc. Thành công của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, vì thế, là đột khởi chứ không phải đột ngột như một ngẫu nhiên của lịch sử. Như kỷ niệm xa lắc về một liên tưởng nào đấy, hai nhà văn này như khải môn dựng lên ở giữa một đô thành vẫn còn tranh chấp bởi những di chỉ của quá khứ và hiện tại, bước chân sang phía bên kia là trở về với không gian của kiến thiết xưa cũ và bước chân sang phía bên này là không gian của những kiến thiết hiện đại còn đang tiếp diễn. Nhưng đồng thời, sự hiện diện của hai nhà văn này cũng thật chói lòa, trong chính sự mới lạ mà tác phẩm của họ mang chứa. Có lẽ, vì thế chăng, họ luôn được xem như là chứng tích của một khúc đoạn kỳ diệu của văn học, nơi ghi dấu sự sinh thành một nhãn quan mới về văn học.

Như vậy thì, trong phối cảnh hiện đại vừa được hình thành và còn đang tiếp diễn ấy, nơi mà Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài vừa cấp cho một khởi nguyên, truyện ngắn tạo dấu ấn gì cho kiến trúc cảnh quan văn chương Việt? Có thể lược dẫn ở đây theo chiều vận động của thời gian và không gian mở ra từ Đổi mới mà truyện ngắn đã tạo dựng. Đoàn Lê, Nguyễn Quang Lập, Y Ban, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thiều, Bảo Ninh là những kiến trúc sư lứa đầu. Xuất hiện trên các diễn đàn Sông Hương, Văn nghệ quân đội, Văn nghệ, họ đã nhanh chóng khẳng định được ngòi bút của mình. Y Ban, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thiều đều định hình từ trong cuộc thi truyện ngắn 1989 của Văn nghệ quân đội, riêng Tạ Duy Anh còn để lại một dấu ấn khó nhòa bằng truyện ngắn xuất sắc Bước qua lời nguyền trên tuần báo Văn nghệ (1989). Cả ba nhà văn này đều viết rất khỏe sau đó, gặt hái nhiều thành công, trở thành những cây bút truyện ngắn vững chãi dù đặt bút ở nhiều thể loại. Hòa Vang, Hồ Anh Thái, Trần Đức Tiến, Phạm Ngọc Tiến, Cao Duy Sơn cũng xuất hiện cùng lúc này nhưng những tác phẩm để lại nhiều tiếng vang đều từ thập kỷ 90 trở đi. Cùng lúc với sự xuất hiện của một thế hệ nhà văn mới: Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Xuân Hà, Phan Thị Vàng Anh, Phan Triều Hải, Lưu Sơn Minh, Nguyễn Việt Hà,… Ở đấy, những cây bút nữ đã để lại một ấn tượng sâu đậm về nữ tính và nữ quyền. Mỗi người một vẻ, họ đã làm thành một giai đoạn có thể nói là rực rỡ nhất của văn học giới nữ Việt Nam. Trong khi ở giới bên kia, cũng định hình những giọng văn hết sức độc đáo và mới lạ, nhất là trong cách mà họ ứng xử với xã hội và nghệ thuật. Sang thế kỷ XXI, trường hợp có giọng văn và sự xuất hiện độc đáo như trước không nhiều. Ngô Phan Lưu có lẽ là một trường hợp cá biệt. Nói sự xuất hiện cá biệt, đúng hơn là có chút lạ lùng của Ngô Phan Lưu, là do ông đã hiện diện một cách khác biệt không chỉ về mặt thế hệ mà còn về khí chất văn học so với những nhà văn trẻ xuất hiện trong thập niên đầu thế kỷ XXI này, với những Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy, Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Hoàng Diệu, Trần Nhã Thụy, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Danh Lam,… Những nhà văn trẻ này chia sẻ trải nghiệm về sự đổ vỡ của một xã hội tiêu dùng và sự lên ngôi của văn hóa đại chúng, trong khi ở Ngô Phan Lưu, truyện ngắn hầu như chỉ là việc ghi chép một mảnh đời sống thường nhật, cố nhiên là những mảnh đời giàu suy tư… Song vượt lên trên thế, trên những làn sóng và đỉnh sóng, truyện ngắn Việt Nam thời đổi mới chắc chắn không chỉ có vậy. Có thể khẳng định mà không sợ quá lời rằng thành tựu của truyện ngắn Việt Nam đương đại là rõ rệt, phong phú, đa dạng và sâu sắc.

Đâu là nguyên cớ cho sự phát triển rầm rộ ấy? Và sự phát triển rầm rộ ấy mang lại điều gì cho văn học giai đoạn và cho lịch sử phát triển của thể loại truyện ngắn ở Việt Nam? Có lẽ, báo chí văn học chính là bà đỡ mát tay nhất cho sự sôi động của đời sống truyện ngắn. Rất nhiều các tờ báo lúc bấy giờ, thậm chí là báo không chuyên về văn học, cũng có những trang dành cho truyện ngắn. Cũng lại chính báo chí, với sức mạnh can thiệp vào đời sống xã hội đã trang bị cho truyện ngắn chất liệu và cung cấp cả niềm hứng khởi được cất tiếng nói can thiệp ấy. Xã hội thế tục với biết bao mối bận tâm của nó đã thúc đẩy, đúng hơn là tạo cơ hội cho bộ phận truyện ngắn có khuynh hướng hiện thực, vốn đã có thành tựu từ thời tiền chiến, phát triển nhanh chóng. Sau đó mới đến các khuynh hướng khác, như huyền ảo, lãng mạn hay những thể nghiệm về hình thức. Có một điều cần phải minh định ở đây là, sự biến đổi của diễn ngôn văn học, như cách hành văn và sử dụng ngôn ngữ từ Nguyễn Huy Thiệp hay Phạm Thị Hoài trở đi, ít có sự thôi thúc về thể nghiệm hình thức. Họ tìm đến diễn ngôn mới ấy, bồi đắp cho diễn ngôn mới ấy là để lột hiện sâu sắc hơn những quan thiết xã hội mà họ đề cập đến trong truyện ngắn của mình. Suy tư về hiện thực, bao gồm hiện thực hậu chiến, thế tục, bản sắc vùng miền hay đời sống đô thị về sau này, cùng với những suy tư về các phương thức hư cấu, là một đóng góp rất đáng kể của truyện ngắn thời đổi mới. Để có được những chuyển biến ở chiều sâu quan niệm như thế này, có lẽ còn cần phải nhắc đến tác động của văn học dịch, bên cạnh những suy tư tự thân của nhà văn. Sách không chỉ “bung ra” theo nhu cầu thị trường, khi ấy thường được cho là không lành mạnh, mà còn “bung ra” ở một chiều hướng tích cực hơn rất nhiều, đó là sự đa dạng của các truyền thống văn học được giới thiệu. Đấy chính là một kho tư liệu tham khảo quý giá cho những nhà văn thực sự cầu thị đổi mới văn chương. Tất nhiên, so với thơ và tiểu thuyết, nhu cầu đổi mới, nhất là cách tân về mặt hình thức ở truyện ngắn không được chú trọng bằng. Sự đổi mới hầu như chỉ được diễn ra ở mặt cấu trúc, kết cấu, và ở một điều gì đó khó nắm bắt hơn, tinh thần của truyện ngắn, nhất là ở giai đoạn càng về sau này. Nhưng chính bởi chỉ thường trong một khuôn khổ hạn hẹp như vậy nên khi những thể nghiệm này thành tựu, truyện ngắn có nhiều cơ hội để trở thành một thế giới thẩm mỹ đẹp một cách trọn vẹn. Và so với các thể loại khác, mật độ thành công của các thể nghiệm cũng cao hơn rất nhiều. Truyện ngắn thực sự đã trở thành một thể loại quan trọng của văn học thời đổi mới, và phần nào đó, của cả sự đổi mới văn học, trong cách thức mà nhà văn tự lạ hóa bản thân để tìm kiếm và trưng bày những mẫu hình nghệ thuật mới, những suy tư mới về nghệ thuật.

Sự thành công của truyện ngắn thời đổi mới, hình như cho thấy những kinh nghiệm lựa chọn thể loại đã lặp lại một lần nữa, trong cách truyện ngắn chiếm giữ vị trí thống soái trên văn đàn, như đã từng có ở cuộc tiếp xúc với thế giới bên ngoài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. Người ta hay cắt nghĩa hiện tượng này dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, ở phẩm tính ưa những cái đẹp nhỏ nhắn, hài hòa, tinh tế và/hoặc dựa vào tâm lý sáng tạo của nhà văn Việt Nam, cũng ở tài năng tỉa tót, đẽo gọt những cái đẹp nhỏ nhắn, hài hòa, tinh tế. Nhưng có một thực tế vượt lên trên những diễn giải mang nặng tính chất ý hệ như vậy: kết quả của nỗ lực làm mới ý thức và ngôn ngữ văn chương. Dấn thân xã hội hay thuần túy nghệ thuật hình như không đơn thuần xuất phát từ các trạng huống của quá trình đổi mới. Chính sự tham dự của nhà văn vào đời sống hiển hiện như một lựa chọn tất yếu/ ngẫu nhiên đã mở rộng biên độ nghệ thuật cho nhà văn trong việc đồng nhất hoạt động văn chương và hoạt động xã hội. Đó là một đặc điểm rất độc đáo của văn học từ Đổi mới. Và truyện ngắn đã làm tốt được điều này một phần cũng nhờ chính vào tính chất ngắn gọn và chụp bắt thời điểm của nó. Một cách có ý thức và trách nhiệm.

Văn nghệ Trẻ

Exit mobile version