Lưu Trọng Lư (1911-1991) xuất hiện ở giai đoạn đầu của phong trào Thơ Mới. Ông sinh ra ở làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông tham gia văn đàn với nhiều thể loại. Về thơ có: Tiếng thu (1939), Tỏa sáng đôi bờ (1959), Người con gái sông Gianh (1966), Từ đất này (1971). Về văn xuôi có: Người sơn nhân (1933), Chiếc cáng xanh (1941), Khói lam chiều (1941), Mùa thu lớn (1978), Nửa đêm sực tỉnh (1989). Về sân khấu có: Nữ diễn viên miền Nam, Cây thanh trà (kịch bản cải lương), Xuân Vỹ Dạ, Anh Trỗi (kịch nói), Hồng Gấm. Tuổi hai mươi (kịch thơ, 1973). Trong đó, thơ là một trong những lĩnh vực thành công và làm nên tên tuổi của thi sĩ.


Giữ vai trò là nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ Mới nhưng chất thơ của ông không Tây như Xuân Diệu, không sầu vạn cổ như Huy Cận, không điên cuồng như Hàn Mặc Tử… mà có sự đan quyện giữa cổ điển và hiện đại, phương Đông và phương Tây, hay nói cách khác, thơ ông vừa có vẻ đẹp cổ điển vừa có luồng gió của thời đại mới. Điều này làm nên cái tôi vừa rạo rực, tràn đầy cảm xúc vừa u buồn, cô đơn. Trong đó, tập Tiếng thu[1], tập thơ đầu tay của Lưu Trọng Lư thể hiện rõ nhất về cái tôi trữ tình và phong cách thơ của ông. Đó là thế giới của cõi mộng, cõi chiêm bao. Đó là tiếng lòng của một “thi sĩ đa tình và mơ mộng” (Vũ Ngọc Phan) “chỉ sống bằng tưởng tượng” (Trương Tửu), “sống bằng nội tâm nhiều hơn ngoại giới” (Phan Cự Đệ). Và “Mộng, đó mới là quê hương của Lư” (Hoài Thanh, Hoài Chân). Bên cạnh chất mộng mơ, cái tình thấm đượm, thơ Lưu Trọng Lư còn có nỗi sầu bao la, sầu biêng biếc, sầu vô hạn. Những rung động, những thăng hoa từ cảm xúc mộng, sầu, tình cùng với trí tưởng tượng phong phú, cộng hưởng, tạc nên gương mặt kì ẩn của bên kia thực tại.

Chịu ảnh xạ của cảm xúc ấy, những hình ảnh trong tập thơ cũng trở nên biến hóa, nhòe mờ, hư ảo. Các hình ảnh thơ xuất phát từ thế giới thực nhưng lại được cảm nhận ở cõi mộng, cõi vô thức. Khám phá một số hình ảnh thơ xuất phát từ thế giới phi thực, thế giới vô thức là một trong những căn cứ để khẳng định được chất riêng, đặc sắc của tập thơ Tiếng thu.

Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tượng trưng (symbolisme) ảnh hưởng sâu sắc đến thi ca Pháp, nhưng đến những năm 1935-1945 nó mới thực sự ảnh hưởng đến các nhà Thơ mới Việt Nam. Các nhà thơ như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận, Bích Khê… đều ít nhiều chịu ảnh hưởng phong cách của Baudelaire. Chủ nghĩa tượng trưng hướng đến: “ý nghĩa của cuộc sống nội tâm sâu kín, không bị trí tuệ hóa, ý nghĩa của sự thần bí ẩn sau những bề ngoài, những tương ứng” [2; 837]. Với tinh thần như thế, những người theo trường phái chủ trương: “sáng tạo ra một thế giới mới: nhà thơ, trở thành người dự đoán tương lai bởi sự rối loạn của các giác quan, giải phóng sự phát triển mạnh mẽ của những hình ảnh, sự phát triển này hủy hoại thế giới truyền thống và đưa ra trưng bày một thế giới mới” [3; 426]. Nghĩa là, họ xem thế giới này chỉ là cái bóng, còn thế giới bên kia mới là thế giới thực, là bản thể của thế giới. Họ không tư duy bằng lý tính mà tư duy bằng trực giác, bằng ý niệm. Do đó, hình ảnh thơ tượng trưng không rõ nét, rất khó để giải thích. Trong tập Tiếng thu, những hình ảnh được thiết kế, xuất phát từ trạng thái tiềm thức, vô thức xuất hiện khá nhiều. Bằng cách lắp ghép một yếu tố thực với một yếu tố phi thực, các hình ảnh thơ ấy phô ra một thế giới mộng ảo, mơ hồ, khó nắm bắt nhưng đầy cuốn hút, ám ảnh.

Vậy, căn nguyên nào đưa thơ Lưu Trọng Lư có phần dạt sang địa phận của thơ tượng trưng như thế? Có phải do sự ảnh hưởng của luồng gió thơ tượng trưng lúc bấy giờ? Hay là xuất phát từ một tâm hồn dạt dào xúc cảm, mơ mộng của Lưu Trọng Lư? Chúng ta thấy, cõi mộng ăn sâu, chi phối mọi điểm nhìn cũng như tư duy của người nghệ sĩ. Trong Tiếng thu, lớp từ được lẩy ra từ cõi mộng, cõi mơ xuất hiện khá nhiều (Hôm qua, Giang hồ, Một chút tình, Tình điên, Còn chi nữa, Thuyền mộng, Im lặng, Chiếc cáng điều, Thú đau thương, Mộng chiều về, Sứ giả…). Thế giới lệch pha vẽ nên những bức tranh phi lôgic, huyền ảo, đa nghĩa. Chúng là kết quả của sự xâm nhập “khu vực bí ẩn” (Mallarmé): nắng mới reo ngoài nội; tóc vướng vần thơ sầu rụng; mây chiều đập sương, thời gian lặng rớt một dòng buồn tênh; mắt sầu gợn sóng; trăng động trong cây lá; trăng thu rụng dưới cầu; mộng nở trong lòng sắc đỏ hoe; mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông; nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng; những điệu huyền bay, lạc khắp thôn; anh chỉ say sưa màu tuyệt diệu…

Thuyền là hình ảnh được lắp ghép sáng tạo trên cơ sở kết hợp trục ngang và trục dọc, do đó, nó không đơn thuần chỉ là sự hiện hữu của con thuyền thực mà còn là một con thuyền chở “nội dung thể nghiệm của ý thức” (Andrey Belyi). Con thuyền trong thơ Lưu Trọng Lư được vận hành, chuyển biến liên tục. Xuất phát từ cõi thực – con thuyền còn buộc chuẩn bị khởi hành: sắp trẩy bến thần tiên, vượt qua ba mươi sáu bến bồng bềnh, bơi trong cõi mộng lồng lộng. Người ngồi trên con thuyền ấy là khách giang hồ, khách du ngoạn, người tráng sĩ… với khát vọng thoát ly thực tại, giải phóng cái tôi, vươn đến chân trời tự do, kiếm tìm, tận hưởng cái đẹp của thế giới bên kia. Từ điểm nhìn ấy, thế giới thực trở nên mờ nhạt, thay vào đó là sự sống động, bồng bềnh, mê hoặc của thế giới nhiệm mầu. Khi thời gian và không gian trở nên bất định, chúng hệ lụy đến trường tưởng tượng của nhà thơ, kéo theo những hình ảnh thơ huyền hoặc, khó tìm ra mã giải:

Vầng trăng từ độ lên ngôi

Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ

Để tóc vướng vần thơ sầu rụng

Mái tóc buồn thơ cũng buồn theo

Năm năm tiếng lụa xé đều

Những ngày lạnh rớt, gió vèo trong cây

Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay

Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông

Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng

Thời gian lặng rớt một dòng buồn tênh

(Vầng trăng)

Các hình ảnh thơ: tóc vướng vần thơ sầu rụng, mái tóc buồn, mái tóc hương nồng ngỡ như có sự liên kết nhưng không hề có sự ăn nhập khi đặt cạnh các đối tượng khác: vầng trăng, vần thơ, tiếng lụa, gió, mùi hương, mái đông. Chúng đặt bên nhau theo một kết cấu lỏng, rời rạc. Giữa các câu thơ, ý tưởng cũng bị đứt đoạn, cắt rời. Xếp chồng các chữ, các câu, đoạn vào nhau như thế, thi ảnh được chọn lựa không dễ dàng lý giải nhưng lại có sức gợi, mê hoặc. Đó là sự cảm nhận hết sức tinh tế về một quá khứ đã xa vời với người con gái quay tơ năm xưa gieo vào lòng thi nhân những nỗi niềm khôn nguôi: sầu-buồn-buồn tênh. Ở đây, sự giảm dần của các từ ngữ chỉ tâm trạng nhằm mục đích khác: đẩy các thi ảnh, đẩy kí ức trượt dài trong sự mông lung, vô định của thời gian, nhấn mạnh ý niệm về cái mong manh, hư ảo.

Nắng mới trong bài thơ cùng tên cũng là một thi ảnh cần được thẩm thấu bằng trực cảm lẫn trực giác:

Mỗi lần nắng mới hắt bên song,

Xao xác gà trưa gáy não nùng;

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,

Chập chờn sống lại những ngày không.

Tôi nhớ Me tôi thuở thiếu thời,

Lúc Người còn sống, tôi lên mười;

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,

Áo đỏ Người đưa trước giậu phơi.

Hình dáng Me tôi chửa xoá mờ,

Hãy còn mường tượng lúc vào ra;

Nét cười đen nhánh sau tay áo,

Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa.

Nắng mới được nhìn từ góc độ thực hắt bên sông nhưng chỉ còn là khoảnh khắc, tất cả đã lùi vào dĩ vãng, do đó, người đọc khó có thể nắm bắt, định hình thi ảnh nắng mới ở khổ 1. Sang khổ 2, khổ 3, nắng mới của thuở thiếu thời, ngỡ là hư ảo nhưng lại rất thực, hữu hình: reo ngoài nội, trong ánh trưa hè, trước giậu thưa. Như thế, thi ảnh nắng mới mở ra một cách tiếp cận khác: tiếp cận đan xen, chồng chéo giữa quá khứ – hiện tại, giữa không gian – thời gian và bằng trực giác để phát hiện ý niệm tinh thần về tình cảm mà tác giả gửi gắm trong đó.

Bài thơ “Tiếng thu” làm nên tên tuổi của Lưu Trọng Lư. Từ nhan đề cho đến các thi ảnh như: trăng mờ thổn thức, hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ, con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô đều được đặt trong thế khập khểnh, kề cạnh nhưng không liên kết; trong sự huyền diệu, mờ nhòe của không gian và thời gian. Sức ám ảnh của các thi ảnh này lại nằm ở sự mờ ảo ấy. Sự mờ ảo là con đường chiếm lĩnh chiều sâu bản thể của mùa thu. Chỉ có thể cảm nhận sự huyền hoặc, diệu vợi của mùa thu khi thả hồn trong hiện thực thứ hai chứ không phải là hiện thực thứ nhất. Nói như Trần Đăng Khoa: “Cái hay của bài thơ này không nằm ở câu chữ. Nó hoàn toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu đó đằng sau những con chữ rất sáng tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. Người ta chỉ cảm thấy được, chứ không thể nói ra được một cách rạch ròi”[4]. Một “tiếng thu”, lạ, đẹp nhưng buồn, đầy mầu nhiệm, bí ẩn. Người ta đồn rằng, “Tiếng thu” được viết từ trên quê hương ông. Cái rặng núi sau nhà và hình ảnh con nai vàng ngơ ngác đã làm day dứt tâm cảm ấp ủ như men tình của ông. Cho nên, “Tiếng thu” cũng chính là tiếng lòng quê hương của ông vậy. Và cũng là đóng góp lớn lao cho mảnh đất quê nhà của thi sĩ.

Những biến động về lịch sử, xã hội giai đoạn đầu thế kỉ XX, kèm theo đó là sự tác động của chủ nghĩa lãng mạn, nhất là sự ảnh hưởng của văn học lãng mạn Pháp, phong trào Thơ Mới lãng mạn Việt Nam ra đời, một mặt đáp ứng được sự thay đổi của thi ca trong hành trình đi lên của nó, mặt khác lại là mảnh đất để các nhà thơ có thể làm mới mình, bộc lộ tiếng nói tự do của chính mình. Tuy trốn khỏi thế giới thực tại, bay vào thế giới của vô thức, của giấc mộng mà kiếm tìm cái đẹp, thực hiện khát vọng của mình nhưng âm hưởng chủ đạo của Thơ Mới vẫn là cái buồn, cái sầu. Có thể nói, các nhà Thơ Mới đều biết cách tạo dựng cho lâu đài thơ của mình một thế giới sầu riêng biệt, không ai giống ai. Lưu Trọng Lư đánh dấu con đường thơ đầu tiên của mình bằng ba thanh âm: mộng, sầu, tình. Ba thanh âm ấy hòa phối nên dáng vẻ, hồn cốt cho thi ảnh của tập Tiếng thu.

Nửa đời phiêu lãng với con thuyền mơ, ghé bến Ngân-sơn, bến Trúc-lang, nơi nghìn trùng man mác nhưng thi sĩ vẫn chưa thỏa mộng giang hồ, máu du tử: thuyền ơi, neo chưa buồn cắm. Trốn vào cõi mộng nhưng mộng không bền. Vì vậy, trong tập Tiếng thu, nhà thơ không ít lần nhắc đến tình cảnh: Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh/ Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi! (Hôm qua); Lúc mộng nhìn nhau cười ngặt nghẽo/ Mộng tan, trên gối: lệ hoen rơi (Mộng chiều về)… Khi chập chờn, chông chênh giữa hai tình cảnh thực và mộng ấy, chúng ta nhận ra, bên cạnh người-thơ không chút vướng bận, tự do say đắm với chốn hư ảo là người-thơ sẵn sàng lịm người trong thú đau thương, đối chất, bộc bạch nỗi u sầu của mình. Nỗi sầu bàng bạc, ngấm vào từng thi ảnh, từng giai điệu của Tiếng thu: mắt sầu gợn sóng, sầu biêng biếc, ôm mối sầu vô hạn, sầu tràn khắp cỏ cây, ngày một thêm sầu… Không chỉ thế, trạng thái sầu còn được tác giả diễn giải, biểu đạt bằng nhiều góc độ: não nùng, rượi buồn, buồn tênh, bao la sầu, sùi sụt, thẫn thờ, bi thiết, chua chát, quạnh quẽ, đau thương, nỉ non, nỗi buồn nghìn dặm, mối sầu u, buồn vời vợi, lòng buồn, buồn mãi không thôi, thú đau thương, buồn đắm say, lòng trần héo, những nỗi chua cay, tan tác vỡ,…

Tâm trạng sầu là tâm trạng chung, thường trực của cái tôi lãng mạn trong Thơ Mới lúc bấy giờ. Nhưng cái sầu của Lưu Trọng Lư không lẫn vào ai được:

Đã héo lắm nụ cười trong mộng

Đã mờ mờ lắm bóng thân yêu

Đã lam tím cả cánh chiều

Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn

(Thú đau thương)

Mộng tàn. Đau thương. Nhưng với Lưu Trọng Lư, ông vẫn xem những cảm xúc ấy là thú. Cách viết này vừa lạ nhưng đồng thời vừa khẳng định bản ngã của nhà thơ. Sẵn sàng đớn đau, xin để gối nằm yên chỗ cũ thỏa cơn mộng cái giống giang hồ. Đây chính là cách nhà thơ nới rộng cái sầu và làm nên điệu thơ sầu, riêng, mới cho tập Tiếng thu. Mặt khác, nhà thơ sầu nhưng không hoàn toàn bi quan, chán nản, tuyệt vọng, bế tắc, bởi, ẩn chứa bên trong cái sầu ấy còn là cái tình chân thành, giàu lòng trắc ẩn, yêu thiên nhiên và rất đỗi tha thiết với cuộc sống của thi sĩ.

Giây phút tỉnh mộng hé mở cái buồn sầu của thi sĩ nhưng cũng hé mở một tâm-thơ nhạy cảm, tinh tế, nhân ái: Nỗi nhớ mẹ khôn nguôi (Nắng mới); Sự chia sẻ, cảm thông trước nỗi niềm của người con gái khi lấy chồng xa (Chị em); Những trăn trở, day dứt, băn khoăn trước những mảnh đời bất hạnh (Hoa bên đường;); Lòng yêu thiên nhiên (Núi xa); Trân trọng những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc (Chiếc cáng điều); Say đắm với tình yêu (Đôi mắt)… Khi kết hợp với dòng vô thức, với khoảnh khắc của trực giác, cái tình sâu đậm cũng bị chi phối và tác động đến một số thi ảnh, làm cho các thi ảnh lóe lên sự diệu kì, gợi cảm. Vừng trăng, hồn thu, hương đêm là điểm tựa để bừng sáng vẻ đẹp và sự đam mê của tình yêu: “Vừng trăng lên mái tóc mây/ Một hồn thu lạnh, mơ say hương nồng/ Mắt em là một dòng sông/ Thuyền ta bơi lặn trong dòng mắt em/ Đàn “nguyệt dạ” hương đêm bay lạc/ Gì buồn hơn tiếng vạc lưng chừng/ Phép gì khỏi nhớ đừng trông/ Mắt em bỏ túi, vắng lòng đem soi” (Đôi mắt). Thi ảnh nằm ấp bóng trăng thưa vừa tràn đầy tình cảm của tác giả, vừa gợi sự đơn chiếc của người quả phụ, rất ấn tượng: Ai nghe tiếng hát chị đò đưa/ Mà không cảm thương người quả phụ/ Nằm ấp bóng trăng thưa/ Luồn qua song cửa sổ (Điệu hát lẳng lơ). Nhà thơ còn say sưa màu tuyệt diệu của đất trời, thiên nhiên với một nỗi niềm u hoài, day dứt: Cảnh đêm khuya trời giá/ Lạnh lùng thay! ngọc gió Ly-Dao/ Bến Văn giang, khóc trăng sầu (Hồn nghệ sĩ)…

Trong quan hệ tương giao, tương ứng giữa thực-phi thực, quen-lạ, cổ điển-hiện đại, quá khứ-hiện tại…, từ âm thanh, màu sắc, ngôn từ… cho đến hình ảnh thơ trong Tiếng thu đều bị ảnh hưởng bởi sự mờ nhòe, hư hư thực thực. Men theo ba yếu tố: mộng, sầu, tình, cũng là phương cách để người đọc dùng trực giác mà chiếm lĩnh những thi ảnh huyền nhiệm của thế giới siêu hình, của thế giới ý niệm.

Như vậy, luồng gió của chủ nghĩa tượng trưng đã tác động không ít đến thơ của Lưu Trọng Lư. Mặt khác, xuất phát từ một tâm hồn dạt dào xúc cảm, mơ mộng, các thi ảnh trong thơ của Lưu Trọng Lư, tự thân, cũng ít nhiều đã vận sắc thái huyền hư. Vì thế, “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư vừa có sự đan quyện giữa màu sắc lãng mạn và màu sắc tượng trưng, giữa cổ điển và hiện đại. Nó thể hiện rõ cá tính sáng tạo và phong cách của thi sĩ.

Trong tập thơ, có dăm ba bài bình thường, thiếu sự chắt lọc, cô động trong cách viết, nhưng người đọc dễ dàng bỏ qua bởi sự quyến rũ của một thế giới đẹp, huyền hư, bởi một cái tôi lãng mạn, một tinh thần tượng trưng nhưng hết sức thành thực, cởi mở, giàu tình cảm; bởi những hình ảnh hết sức mới và lạ của nhà thơ: Tiếng thu, Thú đau thương, Điệu huyền… Chính Hoài Thanh đã nói: “Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt dũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy”[5]. Đúng thế, những cảm xúc tinh tế, giàu tính nhân văn cùng với những hình ảnh thơ đầy tính biểu tượng, ám gợi ấy đã góp phần khẳng định tiếng nói, vai trò kiện tướng trong phong trào Thơ Mới cũng như vị trí quan trọng của Lưu Trọng Lư đối với thi ca Quảng Bình nói riêng và thi ca Việt Nam nói chung.

Quảng Bình, 21-5-2011

——————-

[1]. Lưu Trọng Lư, Tiếng thu, NXB Thông tin, 1991.

[2]. Henri Bénac, Dẫn giải ý tưởng văn chương, NXB Giáo dục, 2005, tr.837.

[3]. Henri Bénac, sđd, tr. 426.

[4]. Hoàng Vũ Thuật, Hữu Phương, Hoàng Bình Trọng (tuyển chọn), Nhà văn Việt Nam hiện đại Quảng Bình, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Bình xuất bản, 2001, tr.335.

[5]. Hoàng Vũ Thuật, Hữu Phương, Hoàng Bình Trọng (tuyển chọn), sđd, tr.331-332.

[6]. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, 2006.

[7]. Lại Nguyên Ân (tập hợp và biên tập), Thơ Mới 1932-1945: tác giả và tác phẩm, NXB Hội Nhà văn, 2004.

Nguồn: Vanvn.net