Để có đảo nổi, đảo chìm vững chãi giữa “vùng biển bão tố” như hôm nay, cách đây 39 năm, những người lính Hải quân trẻ tuổi ở Trung đoàn 83 và Trung đoàn 131 Công binh Hải quân đã “gác” tuổi thanh xuân của mình đi Trường Sa xây đảo.

Ở giữa đại dương bao la ấy, họ oằn mình trong mưa rào, nắng lửa và đối mặt với bao gian khổ, thiếu thốn, khắc nghiệt của bão tố. Nhiều chiến sĩ đã bỏ mạng giữa ngàn khơi, để rồi sau nhiều ngày chạy đua với sóng gió, những “loa thành” mang dáng hình Tổ quốc đầu tiên mang tên Trường Sa mọc giữa biển Đông.

Tháng 4/1976, lần đầu tiên 70 cán bộ chiến sĩ trẻ của Trung đoàn 83 Công binh Hải quân vượt sóng đi Trường Sa xây đảo. Ngày ấy đi Trường Sa đồng nghĩa với sinh tử, nhưng những lính trẻ đều quyết tâm ra đi vì Tổ quốc. Với tinh thần “Trường Sa đi xá gì sức trẻ”, những người lính trẻ ngày xây đảo, đêm chống bão, để rồi sau những tháng ngày lăn lộn với bão tố, họ trào nước mắt khi nhìn “loa thành” đầu tiên hiện hữu giữa đại dương bao la.


Mệnh lệnh từ trái tim

Để có thông tin chính xác về những người đầu tiên đi Trường Sa xây đảo tháng 4/1976, tôi tìm gặp cựu binh Nguyễn Viết Chức, nguyên Thuyền trưởng tàu HQ 07 – con tàu đã gắn liền với nhiều chuyến hải trình trực trên đảo Trường Sa Lớn, hòn đảo được coi là “thủ phủ” đầu tiên được xây dựng giữa biển Đông, mà chính ông là một trong nhiều chiến sĩ chuyển đá đắp nên “loa thành” ấy.

Đảo Trường Sa lớn những ngày đầu sau giải phóng (ảnh tư liệu).

“Sau giải phóng Trường Sa năm 1975, nhiệm vụ xây dựng đảo Trường Sa được đặt lên hàng đầu trong chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Bộ đội Hải quân. Điều đó có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ hướng biển. Vừa khẳng định với thế giới rằng, quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam. Do vậy, đưa lực lượng ra khẩn cấp triển khai xây đảo được coi là nhiệm vụ cấp thiết lúc đó”, ông Chức cho biết.

Chuyện xây đảo Trường Sa được cựu binh Chức kể lại trong niềm tự hào: “Mặc dù đi Trường Sa ngày ấy đồng nghĩa với sinh tử, có cái gì ghê gớm lắm, song lúc đó lính trẻ không chùn bước. Biết là phải đối mặt với nhiều thử thách, có thể phải hi sinh tính mạng, nhưng anh em luôn xác định tốt nhiệm vụ và sẵn sàng hi sinh”.

Sau 8 tháng kể từ ngày đất nước thống nhất, trước yêu cầu khách quan về nhà ở và hệ thống phòng thủ bảo vệ đảo, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân tiến hành khảo sát xây dựng các nhà kiên cố trên quần đảo Trường Sa. Việc xây dựng phải bảo đảm 2 yếu tố cơ bản: Phải là nơi phòng thủ kiên cố có tầm quan sát rộng, tiện cho cơ động sẵn sàng chiến đấu và tránh nắng nóng; Vừa tránh được ẩm thấp nước biển mặn, đón được hướng gió, bảo đảm mọi sinh hoạt công tác, huấn luyện, vui chơi của bộ đội.

Nhận nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân xác định: “Dù khó khăn đến mấy, dù phải hi sinh đến tính mạng cũng phải xây dựng bằng được nhà kiên cố lâu bền trên các cụm đảo Trường Sa, đó là mệnh lệnh từ trái tim người lính đối với Tổ quốc nơi tuyến đầu”.

Kế hoạch từ khâu vận chuyển đá, thép, vật liệu từ đất liền ra đảo được bàn thảo khẩn trương và khoa học. Hàng ngàn khối đá, xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng được chuyển xuống tàu, vượt sóng gió ra Trường Sa.

Chuyến tàu đầu tiên mang tên Đại Khánh do Đại úy Lê Nhật Cát, nguyên là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 83 chỉ huy 70 cán bộ chiến sĩ trẻ hành trình ra Trường Sa lớn vào cuối tháng 4 năm 1976. Việc đi Trường Sa ngày ấy đồng nghĩa với cuộc chia ly sinh tử. Bởi đất nước mới trải qua chiến tranh, tàn tích đau thương chưa xóa nhòa, giờ lại phải ra Trường Sa xây dựng đảo – một thử thách lớn đối với những người lính công binh thời bình.

Chuyển cát từ xuồng vào xây đảo (ảnh tư liệu).

Tàu Đại Khánh có trọng tải 75 tấn vượt sóng ra Trường Sa từ cảng T thuộc Cam Ranh, Phú Khánh (nay là Khánh Hòa) lúc chiều tối, sau gần 4 ngày lênh đênh trên biển đã đến đảo Trường Sa Lớn. Gần 4 ngày vật lộn với sóng gió, 80% cán bộ chiến sĩ bị say sóng, nhiều chiến sĩ trẻ bỏ bữa. Hầu hết các chiến sĩ chưa biết Trường Sa là gì, chỉ hình dung trong đầu đó là một hòn đảo xa xôi và thiêng liêng. Trong tim họ luôn nghĩ, ra đảo Trường Sa để xây nhà là nhiệm vụ vinh quang, khí thế hừng hực trong tim và không hề ngần ngại.

Cuộc sinh tử trên sỏi cát

Trường Sa lớn ngày đầu giải phóng toàn đất đá và thuốc súng. Ban ngày nhiệt độ có thể nóng đến 38 độ, cộng với gió Tây Nam thổi mạnh, hơi nước mặn từ biển bốc lên, càng làm cho khí hậu thêm khắc nghiệt. Công việc đầu tiên của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 Công binh Hải quân là thiết kế nơi ăn ở, nhanh chóng bắt tay vào xây đảo. Một bài toán vô cùng khó khăn đặt ra là làm gì để có nước ngọt, trong khi lượng nước ngọt do tàu Đại Khánh chứa trong can nhựa vơi dần, trời thì không mưa, nước từ giếng nhiễm mặn không sao ăn được.

Thời điểm đó, ngoài Trường Sa Lớn và Song Tử Tây không có đảo nào có nước ngọt. Hai đảo này có bể chứa nước của Ngụy để lại, mỗi bể chừng 6 khối, nhưng cũng không dùng được vì nhiễm thuốc súng, phân và lông chim. Trước tình thế ấy, để sinh tồn và xây đảo, chỉ bằng một cách là tiết kiệm tối đa cho đến khi có nguồn nước viện trợ từ đất liền.

Kế hoạch tiết kiệm là mỗi người một lít một ngày cho cả đánh răng rửa mặt. “Nói là một lít, nhưng chúng tôi múc đầy cái cà-mèn của Liên Xô cũng được hơn một lít. Chừng ấy nước, lúc xây đảo, tôi chỉ tu hai hơi là hết, vậy mà phải uống dè”, cựu binh Chức chia sẻ.

Ngoài tiêu chuẩn mỗi người một cà-mèn/ngày/một lít đánh răng rửa mặt, chiều chiều các chiến sĩ lội xuống biển tắm, người nọ kỳ lưng cho người kia, tắm xong anh em lên dội lại nước lợ từ giếng. Do tắm nước biển lâu ngày, nên da người nào cũng xù xì như lớp sừng bám, tất cả cán bộ chiến sĩ người nào cũng đen, khi cười chỉ nhìn thấy răng và mắt. Việc ăn uống vô cùng khổ sở. Có khi, mỗi bữa ăn, cả đại đội chỉ có 4 hộp thịt hộp của Liên Xô, đổ thêm nước rồi nấu sôi chan cơm. Anh em thèm một bữa rau xanh cháy cổ nhưng lấy đâu ra giữa Trường Sa chỉ có nắng gió cát và sỏi đá ấy.

Đảo Trường Sa lớn ngày nay. Ảnh Mạnh Tuấn

Ông Chức nhớ lại: “Vào thời điểm xây những ngôi nhà đầu tiên trên đảo vô cùng khó khăn. Trên trời nắng cháy da, mặt đảo nóng hừng hực do cát bốc lên, anh em phải dùng bạt che tạm làm nhà ở. Mùa gió chướng, cả đảo mù mịt cát bụi càng làm cho khí hậu khắc nghiệt, càng nhớ đất liền hơn. Khó khăn thì không thể nói hết được, nhưng điều quan trọng là cán bộ chiến sĩ luôn vững vàng, yên tâm tư tưởng và quyết tâm xây đảo. Nhiều chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ đã xung phong ở lại tiếp tục xây đảo. Đối với chúng tôi, khó khăn không bao giờ sờn lòng, gian nan không bao giờ chùn bước”.

Dưới cái nắng như thiêu như đốt, các chiến sĩ quần đùi áo lót ngày đêm vận chuyển vật liệu từ tàu vào đảo trên đá san hô. Quân bình mỗi chiến sĩ vác 200 hòn đá mỗi ngày. Ban ngày vận chuyển vật liệu, ban đêm đóng cọc dựng nhà che bạt ở tạm, để bộ đội có chỗ ăn cơm và ngủ lấy lại sức.

Nắng gió rát mặt, chiếc mũ mềm sao vàng đỏ chói trên đầu, các chiến sĩ như những con ong chăm chỉ người vác đá, người khiêng xi, người trộn hồ, tung gạch. Sau gần một tháng thi công, ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa lớn hoàn thành cuối tháng 5/1976. Loại nhà “sê-ri” thế hệ đầu tiên kết cấu nửa chìm nửa nổi, chiều cao 2,8m, trong đó 1,5m ẩn âm trong lòng đảo, lòng nhà rộng 4,5m theo hình lục giác, có các cửa sổ, tiện cơ động quan sát, hứng gió 4 phía.

“Trường Sa lớn là đảo nổi đầu tiên được xây dựng. Đây là đảo nằm trong cụm T1, tức là đảo thuộc Sở chỉ huy trung tâm. Cùng thời điểm này, tại các đảo Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca cũng được từng bước xây dựng. Mỗi một công trình, gắn liền với mồ hôi, nước mắt và xương máu của lính công binh lúc đó. Cũng như Trường Sa Lớn, cuộc sống sinh hoạt của các chiến sĩ ở đây vô cùng gian khổ, nhưng tinh thần ý chí xây đảo thì luôn hừng hực trong tim, không ai kêu ca phàn nàn hoặc có tư tưởng chùn bước”, ông Chức chia sẻ.

 

Mạnh Tuấn

Nguồn: nhipsongthoidai.com.vn

Kỳ 2:  Đảo chìm mọc giữa đại dương